MỞ ĐẦU
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, đối với đời sống kinh tế xã
hội, thuế đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất kinh
doanh cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát triển. Hiện nay, có rất nhiều loại thuế
được nhà nước áp dụng để thu thuế. Mỗi loại thuế lại có những đối tượng nộp khác nhau.
Trước năm 1990, ở Việt Nam có một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất,
kinh doanh gọi là thuế lợi tức. Đến ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp (TNDN) thay thế cho Luật thuế lợi tức, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/1999.
Tiếp đó, ngày 17/6/2003, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật
thuế TNDN sửa đổi để thay thế cho Luật thuế TNDN năm 1997, Luật này có hiệu lực từ ngày
01/01/2004. Qua các lần sửa đổi, Luật thuế TNDN ngày càng trở nên có hiệu quả và thu được nhiều
thành tựu khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm còn tồn tại. Để khắc phục những
nhược điểm này, ngày /2008, Quốc hội nước ta một lần nữa thông qua Luật thuế TNDN năm 2008,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
Luật thuế TNDN mới ban hành năm 2008 có nhiều thay đổi trong đó tiêu biểu là những thay
đổi quan trọng về đối tượng nộp thuế, góp phần bảo đảm hiệu quả trong việc thu nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp. Bài viết này tập trung bình luận các quy định của Luật thuế TNDN hiện hành về đối
tượng nộp thuế và đề xuất một số ý kiến pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thuế
TNDN
NỘI DUNG
I, KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm và đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp
1.1 Khái niệm.
Căn cứ vào đối tượng nộp thuế thu nhập, hệ thồn luật thực định ở các nước chia thuế thu nhập ra
làm hai loại: thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân. Ở Việt Nam thuế thu nhập cũng được
chia ra làm hai loại là thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Có thể đưa ra một khái niệm về thuế thu nhập doanh nghiệp được Việt Nam và nhiều n ước khác
thừa nhận: “ Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu đánh vào lợi nhuận của các doanh
nghiệp và tổ chức kinh doanh nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các tổ chức sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.”
1.2,
Đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp.
Qua định nghĩa về thuế thu nhập doanh nghiệp chúng ta có thể thấy được một số đặc điểm
nổi bật của thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế trực thu, đánh vào thu nhập chịu thế trong kì
của các doanh nghiệp, đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là các doanh nghiệp, các nhà đầu
tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đồng thời cũng là người chịu thuế.
Thứ hai, thuế thu nhập doanh nghiệp mang đầy đủ tính chất của thuế trực thu, thường mang
tính lũy tiến, đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ ba, thuế thu nhập doanh nghiệp đánh vào thu nhập chịu thuế của các cơ sở kinh doanh
nên nó phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư. Thuế
thu nhậ doanh nghiệp được xác định trên cơ sở thu nhập chịu thuế, nên chỉ khi các doanh nghiệp, các
nhà đầu tư kinh doanh có lợi nhuận mới phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
1
Thứ tư, thu nhập được hình thành thông qua quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại thu
nhập quốc dân.
2, Vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng tái
phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta, tất
cả các thành phần kinh tế đều có quyền tự do kinh doanh và bình đằng trên cơ sở pháp luật. Các
doanh nghiệp với lực lượng lao động có tay nghề cao, năng lực tài chính mạnh thì doanh nghiệp đó
sẽ có ưu thế và có cơ hội để nhận được thu nhập cao; ngược lại các doanh nghiệp với năng lực tài
chính, lực lượng lao động bị hạn chế sẽ nhận được thu nhập thấp, thậm chí không có thu nhập.
Ðể hạn chế nhược điểm đó, Nhà nước sử dụng thuế thu nhập doanh nghiệp làm công cụ điều tiết
thu nhập của các chủ thể có thu nhập cao, đảm bảo yêu cầu đóng góp của các chủ thể kinh doanh
vào ngân sách Nhà nước được công bằng, hợp lý.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước. Phạm vi áp
dụng của thuế thu nhập doanh nghiệp rất rộng, gồm cá nhân, nhóm kinh doanh, hộ cá thể và các tổ
chức kinh tế có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có phát sinh lợi nhuận. Nền kinh
tế thị trường nước ta ngày càng phát triển và ổn định, tăng trưởng kinh tế được giữ vững ngày càng
cao, các chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận thì khả
năng huy động nguồn tài chính cho ngân sách Nhà nước thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp
ngày càng dồi dào.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để góp phần khuyến khích, thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh phát triển theo chiều hướng kế hoạch, chiến lược, phát triển toàn diện của
Nhà nước. Nhà nước ưu đãi, khuyến khích đối với các chủ thể đầu tư, kinh doanh vào
những ngành, lĩnh vực và những vùng, miền mà Nhà nước có chiến lược ưu tiên phát triển trong
từng giai đoạn nhất định.
Thuế thu nhập doanh nghiệp còn là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước
trong việc thực hiện chứng năng điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ phát
triển kinh tế nhất định. Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế có vai trò quan trọng trong hệ thống
pháp luật thuế của Việt Nam, song để phát huy một cách có hiệu qủa vai trò của thuế thu nhập
doanh nghiệp, chúng ta cần phải xem xét nó dưới nhiều khía cạnh, kể cả những kinh nghiệm xử lý
của nước ngoài.
3, Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành
Đối tượng nộp thuế được xác định là các tổ chức hoặc cá nhân trực tiếp có nghĩa vụ nộp thuế
theo quy định của pháp luật thuế. Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là các tổ chức có hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế. Tổ chức đó có thể là doanh
nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật hoặc là tổ chức khác có hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Cần phân biệt rõ giữa đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế, đối tượng chịu thuế là các
tổ chức, cá nhân thực tế phải gánh chịu số tiền thuế. Họ có thể chính là đối tượng nộp thuế hoặc
không phải là đối tượng nộp thuế, ví dụ: thuế VAT có đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng (cuối
cùng), nhưng người nộp số thuế này lại là các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa.
2
Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Khoản 1 Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp năm 2008 bao gồm những đối tượng sau:
- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam
- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài (sau đây gọi là doanh
nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam;
- Tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
- Ðơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam ;
- Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.
II. BÌNH LUẬN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ THU NHẬP DOANH
NGHIỆM TRONG LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
1. Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật trước khi có luật
thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế
thu nhập doanh nghiệp năm 2013.
Ở nước ta trước năm 1990 có một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất gọi là
thuế lợi tức. Thuế này chỉ áp dụng cho kinh tế ngoài quốc doanh còn các doanh nghiệp quốc doanh
thì áp dụng chế độ trích nộp lợi nhuận. Kể từ sau năm 1990 Nhà nước Việt Nam thực hiện công cuộc
cải cách căn bản hệ thống thuế. Trong đó chế độ thuế lợi tức mới được ban hành áp dụng thống nhất
đối với tổ chức cá nhân kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập được từ hoạt động
kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, trong luật thuế lợi tức Việt Nam ban hành
1990 không có phân biệt đối tượng cư trú và đối tượng không cư trú. Trải qua quá trình áp dụng,
Luật thuế lợi tức đã thu được nhiều kết quả hơn so với chế độ cũ. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ nhiều
khuyết điểm gây ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình phát triển của nền kinh tế nước ta: thuế lợi tức
không bao quát các khoản thu nhập của cơ sở kinh doanh gây thắc mắc cho đối tượng nộp thuế là
các nhà đầu tư nước ngoài, phạm vi điều chỉnh hạn hẹp, tạo ra sự bất bình đẳng trong thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế trong các thành phần kinh tế (mức thuế suất chênh lệch phân biệt rõ giữa doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài).
Ngày 10/5/1997 Quốc hội thông qua luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho thuế lợi tức có
hiệu lực kể từ ngày 1/1/1999. So với thuế lợi tức thì đối tượng nộp thuế theo luật thuế TNDN 1997
đã có sự thay đổi. Theo Điều 1 Luật này, đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp gồm tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (dưới đây gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập
đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, trừ đối tượng quy định tại Điều 2 của Luật này (Hộ gia
đình, cá nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản không thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, trừ hộ gia đình và cá
nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn có thu nhập cao theo quy định của Chính phủ). Sau 4 năm thực
hiện, Luật thuế TNDN góp phần khuyến khích phát triển sản xuất, thu hút đầu tư quốc tế, hướng các
tổ chức cá nhân đầu tư vào đúng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành quả đạt được, Luật thuế TNDN vẫn còn một số tồn tại: vẫn còn sự phân biệt giữa
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chế độ kê khai nộp thuế còn
nhiều thủ tục phức tạp chưa nâng cao tính tự giác của đối tượng nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ của
mình..
Để khắc phục những tồn tại nêu trên của Luật thuế TNDN 1997, ngày 17/6/2003 Quốc hội
thông qua Luật thuế TNDN mới có hiệu lực từ ngày 1/1/2004. Đối tượng nộp thuế theo quy định của
luật thuế TNDN 2003 hầu như không có sự thay đổi khi so với luật thuế TNDN 1997.
3
Ngày 21/11/2007 Quốc hội thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân trong đó các đối tượng là cá
nhân, hộ kinh doanh trước kia thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nay được chuyển
sang thực hiện theo Luật thuế thu nhập cá nhân. Ngày 3/6/2008 Quốc hội ban hành luật thuế TNDN
mới có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 thay luật thuế TNDN 2003.
Và hiện nay, Nghị định 218/2013/NĐ-CP, hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp là văn bản mới nhất của Chính phủ, giúp khắc phục toan bộ những yếu kém và thiếu sót của
các văn bản luật từ trước cho tới bây giờ.
2. Đối tượng nộp thuế TNDN theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành.
Đối tượng nộp thuế TNDN được quy định tại Điều 2 Nghị định 218/2013/NĐ-CP. Người nộp
thuế:
Người nộp thuế thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Khoản 1
Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
1. Người nộp thuế theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm:
a) Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư,
Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật chứng khoán, Luật dầu khí, Luật thương
mại và quy định tại các văn bản pháp luật khác dưới các hình thức: Công ty cổ phần; công ty trách
nhiệm hữu hạn; công ty hợp danh; doanh nghiệp tư nhân; các bên trong hợp đồng hợp tác kinh
doanh; các bên trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, xí nghiệp liên doanh dầu khí, công ty
điều hành chung;
b) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài (sau đây gọi là doanh
nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam;
c) Các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài công lập sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập
chịu thuế theo quy định tại Điều 3 Nghị định này;
d) Các tổ chức được thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã;
đ) Tổ chức khác ngoài tổ chức quy định tại các Điểm a, b, c, d Khoản này có hoạt động sản xuất,
kinh doanh có thu nhập chịu thuế theo quy định tại Điều 3 Nghị định này.
2. Tổ chức được thành lập và hoạt động (hoặc đăng ký hoạt động) theo quy định của pháp luật Việt
Nam, cá nhân kinh doanh là người nộp thuế theo phương pháp khấu trừ tại nguồn trong trường hợp
mua dịch vụ (kể cả mua dịch vụ gắn với hàng hóa, mua hàng hóa được cung cấp, phân phối theo
hình thức xuất nhập khẩu tại chỗ hoặc theo các điều khoản thương mại quốc tế) trên cơ sở hợp đồng
ký kết với doanh nghiệp nước ngoài quy định tại các Điểm c, d Khoản 2 Điều 2 Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể việc khấu trừ thuế quy định tại Khoản này.
2.1. Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam.
4
Theo quy định điểm 1.1 thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 thì doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động
theo: Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật
đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật chứng khoán, Luật dầu khí, Luật
thương mại và các văn bản pháp luật khác dưới các hình thức: Công ty cổ phần; Công ty trách nhiệm
hữu hạn; Công ty hợp danh; Doanh nghiệp tư nhân; Doanh nghiệp Nhà nước; Văn phòng Luật sư,
Văn phòng công chứng tư; Các bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh; Các bên trong hợp đồng
phân chia sản phẩm dầu khí, xí nghiệp liên doanh dầu khí, Công ty điều hành chung.
Các doanh nghiệp này nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu
thuế phát sinh ngoài Việt Nam. (Theo Điểm a, Khoản 2, Điều 2, Luật Thuế TNDN 2008)
2.2 Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt
Nam
Theo điểm 1.4 thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 thì doanh nghiệp
nước ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp là doanh nghiệp được
thành lập theo pháp luật nước ngoài có cơ sở hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam
Khoản 3 Điều 2 Luật TTNDN 2008 đã chỉ rõ : Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài
là cơ sở sản xuất, kinh doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần
hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập, bao gồm:
- Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu,
khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt Nam;
-
Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp;
- Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hay một tổ
chức, cá nhân khác;
- Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài;
- Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên
doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh
nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt
Nam.
Tuy nhiên, trong trường hợp Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ký kết có quy định khác về cơ sở thường trú thì thực hiện theo quy định của Hiệp định đó.
Đối tượng này nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như sau :
-
Đối với doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam
+ Nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh
ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó;
+ Nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản thu nhập này không
liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú;
- Đối với doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu
nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.
5
2.3. Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã
Theo Thông tư số 130/2008/TT-BTC thì đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp gồm có
các tổ chức được tổ chức và thành lập theo Luật Hợp tác xã. Như vậy, các tổ chức đó có thể là các
Hợp tác xã, các Liên hiệp Hợp tác xã, Liên minh Hợp tác xã…Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế
hoạt động theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Luật Hợp tác xã.
Ngoài ra Khoản 2 Điều 16 Luật Hợp tác xã năm 2003 quy định: “Hợp tác xã được thành lập
doanh nghiệp trực thuộc theo quy định của pháp luật.”
Điều 9 Nghị định 177/2005/NĐ-CP về thành lập doanh nghiệp trực thuộc hợp tác xã : “Hợp tác
xã được thành lập doanh nghiệp trực thuộc theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên theo quy định của Luật Doanh nghiệp".
Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã nộp thuế giống như Doanh nghiệp được thành lập
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2.4 Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam là các đơn vị sự nghiệp
công lập, ngoài công lập có sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập trong tất cả các lĩnh
vực. Các đơn vị này nộp thuế giống như Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật
Việt Nam.
2.5. Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập
- Đối tượng nộp thuế đối với các khoản tiền tài trợ từ nước ngoài, cụ thể là: Trước thời điểm
01/01/2004, khoản tiền tài trợ Công ty mẹ ở nước ngoài tài trợ cho Công ty con tại Việt Nam nhằm
gánh chịu một phần chi phí (không phải chi thưởng cho nhân viên) tại Việt Nam thì khoản tiền này
không thuộc đối tượng phải chịu thuế GTGT và không tính thuế TNDN.
Công ty con tại Việt Nam phải loại ra khỏi chi phí khoản chi phí do công ty mẹ ở nước ngoài
đã gánh chịu khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. Nếu khoản tiền này được dùng để chi thưởng
cho nhân viên thì Công ty sẽ không được hạch toán vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu
thuế TNDN.
Các khoản chi cho người lao động phù hợp với hợp đồng lao động, quy chế công ty có tính
chất tiền lương, tiền công được hạch toán vào chi phí hợp lý. Các khoản tiền chi thưởng cho nhân
viên không được hạch toán vào chi phí hợp lý của công ty khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.
- Đối tượng nộp thuế là các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế:
+ Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, Khu kinh tế, Khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh
vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc
biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm.
Các doanh nghiệp này được áp dụng mức thuế suất 10% trong 15 năm, miễn tối đa 4 năm,
giảm thuế 50% tối đa 9 năm tiếp theo.
+ Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao
và môi trường được áp dụng thuế suất 10% trong suốt thời hạn hoạt động. Nếu là doanh nghiệp mới
thành lập thì được miễn thuế tối đa 4 năm, giảm 50% thuế tối đa 9 năm tiếp theo.
+ Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn được áp dụng thuế suất 20% trong thời gian 10 năm, được miễn thuế tối đa 2 năm và giảm 50%
tối đa 4 năm tiếp theo.
6
+ Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân được áp dụng thuế suất 20% suốt
thời gian hoạt động.
Ưu đãi thuế không áp dụng đối với: Thu nhập khác; thu nhập từ tìm kiếm thăm dò khai thác
dầu khí và tài nguyên quý hiếm khác; thu nhập từ kinh doanh trò chơi có thưởng, cá cược theo quy
định của pháp luật.
+ Bỏ ưu đãi thuế suất đối với doanh nghiệp mới thành lập trong Khu công nghiệp và một số
ngành thuộc danh mục lĩnh vực ngành nghề ưu đãi đầu tư quy định tại Nghị định số 108/2006/NĐCP.
-
Đối tượng được giảm thuế :
+ Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, vận tải được giảm số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp tương ứng với số tiền thực chi thêm cho lao động nữ hướng dẫn tại tiết
a điểm 2.10 mục IV Phần C Thông tư 130/2008 nếu hạch toán riêng được.
+ Doanh nghiệp sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số được giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp tương ứng với số tiền thực chi thêm cho lao động là người dân tộc thiểu số hướng
dẫn tại tiết b điểm 2.10 mục IV Phần c Thông tư 130/2008 nếu hạch toán riêng được.
- Doanh nghiệp nước ngoài, tổ chức nước ngoài sản xuất kinh doanh tại Việt Nam không theo
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp theo hướng dẫn riêng của Bộ Tài chính.
3. Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật thuế thu
nhập doanh nghiệp hiện hành.
Từ những phân tích trên về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho thấy luật thuế thu
nhập doanh nghiệp 2008 có nhiều ưu điểm hơn so với các luật trước.
-
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 đã quy định lại đối tượng nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp, các đối tượng là cá nhân, hộ kinh doanh đang nộp thuế TNDN được chuyển sang nộp
thuế theo luật thuế thu nhập cá nhân do Quốc hội ban hành ngày 21 tháng 11 năm 2007. Vì thế,
đối tượng nộp thuế TNDN 2008 chỉ bao gồm các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế. Quy định này đã khắc phục được hạn chế về đối tượng nộp thuế TNDN theo luật thuế
TNDN 2003 về những điểm sau:
+ Tên gọi của luật mới phù hợp hơn với nội dung của Luật. Trước đây, với tên gọi của Luật thuế
TNDN 2003 không bao hàm được hết các cá nhân, hộ cá thể kinh doanh. Đến nay, khi cá nhân và hộ
cá thể kinh doanh được quy định nộp thuế theo luật thuế thu nhập cá nhân thì tên gọi “luật thuế
TNDN” đã đứng nghĩa với tên gọi của nó.
+ Việc loại trừ cá nhân hành nghề độc lập và hộ cá thể kinh doanh ra khỏi đối tượng nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp là hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, vì những đối tượng này theo tính chất
thì phải là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân ở nước ta.
+ Hơn nữa, quy định này đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế với nhau và giữa các
thành viên trong xã hội, khuyến khích lao động, sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, phù hợp với
nguyên tắc đối xử bình đẳng của các tổ chức quốc tế.
+ Ngoài ra quy định này còn tránh trường hợp một số cá nhân vừa có thu nhập kinh doanh, vừa có
thu nhập từ tiền lương và các khoản thu nhập khác mà bị điều chỉnh bởi hai Luật thuế khác nhau.
Điều này khắc phục được sự phức tạp và không phù hợp với thông lệ quốc tế.
7
+
Mặt khác, đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN 2008 không bao gồm các cá nhân
có tài sản cho thuê và có tài sản chuyển nhượng.
+ Môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi, trong thực tế vào thời điểm 2008, , các
doanh nghiệp thường có cơ sở kinh doanh ở nhiều địa phương khác nhau và ở những nơi này, chính
quyền địa phương phải cung cấp nhiều dịch vụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh như : bệnh viện,
trường học, nhà ở công nhân, vệ sinh môi trường, trật tự trị an… nhưng không có nguồn thu thuế vì
nguồn thu thuế thu nhập doanh nghiệp đã được đóng tại nơi doanh nghiệp có trụ sở chính. Luật thuế
TNDN đã quy định lại đối tượng đóng thuế theo hướng tạo điều kiện cho ngân sách địa phương có
nguồn thu thuế từ các cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đóng tại địa bàn của mình :
Trường hợp doanh nghiệp có cơ sở sản xuất (bao gồm cả cơ sở gia công, lắp ráp) hạch toán phụ
thuộc hoạt động tại địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác với địa bàn nơi doanh nghiệp
đóng trụ sở chính thì số thuế được tính nộp ở nơi có trụ sở chính và ở nơi có cơ sở sản xuất.
Dù đạt được nhiều ưu điểm nhưng luật thuế TNDN 2008 vẫn còn tồn tại những hạn chế về đối
tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Sau khi tìm hiểu một số tài liệu cũng như ý kiến đánh giá của
một số luật sư, em thấy luật thuế TNDN vẫn còn những hạn chế như sau:
+ Có thể thấy DNTN có nhiều điểm khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác, là loại hình
doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân. DNTN đơn thuần chỉ là một cơ sơ sản xuất kinh doanh
của một cá nhân, khi thành lập doanh nghiệp, chủ DNTN không phải chuyển tài sản cũng như vốn
đầu tư cho doanh nghiệp. Tài sản của DNTN cũng không tách biệt với tài sản của chủ doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh của DNTN cũng chính là hoạt động kinh doanh của chủ DNTN. Bản chất của
DNTN là cá nhân kinh doanh, chính vì vậy khi xem xét đối tượng thu nhập doanh nghiệp của
DNTN. Một vấn đề cơ bản được đặt ra là DNTN hay chủ DNTN là đối tượng nộp thuế thu nhập?
Pháp luật hiện hành chưa quy định triệt để mối quan hệ giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu
nhập cá nhân của chủ DNTN, nếu theo quy định của pháp luật hiện hành cùng một khoản thu nhập
từ hoạt động sản xuất kinh doanh của DNTN, chủ sở hữu DNTN vừa phải nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp vừa phải nộp thuế thu nhập cá nhân nếu thỏa mãn các điều kiện phải đóng thuế.
+ Ở nước ta hiện nay có các tổ chức thuộc hội khuyến nông, hội khuyến học, hội người cao tuổi
hội bảo trợ người tàn tật, các tổ chức phi chính phủ của nước ngoài được phép hoạt động tại Việt
Nam (Hội đồng Anh, cộng đồng pháp ngữ…) Đây là các tổ chức có nhiều những hoạt động tích cực
tham gia vào các lĩnh vực của đời sống, xã hội cung cấp một số dịch vụ công mang tính từ thiện, tự
nguyện (đào tạo, tư vấn đời sống, pháp luật, hoạt động giao lưu, phát triển văn hóa, nghiên cứu khoa
học…). Thu nhập từ hoạt động của các tổ chức này được sử dụng cho các mục đích, tôn chỉ được
pháp luật thừa nhận như nêu trên mà không có phân chia. Tuy nhiên, Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp và các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa quy định rõ về đối tượng nộp thuế và chính sách
điều tiết thu nhập đối với các tổ chức có thu nhập không chia mà áp dụng chung c ơ chế, chính sách
điều tiết như doanh nghiệp nên phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển các hoạt động của các tổ chức
đó.
+
Theo khoản 2 Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008, điểm (b), (c) và (d), các tổ chức
nước ngoài phải nộp thuế tại Viêt Nam đối với các khoản thu nhập phát sinh từ Việt Nam cho dù các
tổ chức này có hay không có cơ sở thường trú ở Việt Nam và khoản thu nhập có phát sinh thông qua
cơ sở thường trú hay không. Luật đã phân biệt ba trường hợp khác nhau nên rất khó hiểu. Vì Việt
Nam sẽ đánh thuế tất cả các nguồn thu nhập mà các tổ chức nước ngoài nhận được từ Việt Nam nên
định nghĩa “cơ sở thường trú” trong khoản 3 Điều 2 Luật thu nhập doanh nghiệp không những không
cần thiết mà còn có thể tạo ra nhầm lẫn. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” được định nghĩa trong khoản
3 Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 có phạm vi áp dụng rộng hơn so với phạm vi của
thuật ngữ này được sử dụng trong hầu hết các Hiệp định tránh Đánh thuế hai lần ký giữa Việt Nam
8
với các nước. Ví dụ(1): Luật quy định rằng địa điểm xây dựng của một doanh nghiệp thành lập theo
pháp luật nước ngoài cũng có thể được coi là một cơ sở thường trú. Trong khi đó, rất nhiều Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần (ví dụ như Hiệp định tránh đánh thuế hai lần ký với Malaysia và
Singapore) không coi địa điểm xây dựng là cơ sở thường trú trừ phi địa điểm đó tồn tại ít nhất 6
tháng. Quy định này chưa rõ ràng, về lý thuyết Luật cũng như quyền đánh thuế của các quốc gia,
điều này dễ gây nên các cách diễn giải khác nhau và không cần thiết.
+
Do các quy định về thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam khá thông thoáng cho nên các doanh
nghiệp mà thành lập ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp này thực hiện việc đăng kí thành lập theo
đúng trình tự thủ tục được pháp luật quy định nhưng thực chất lại không có bất kì hoạt động sản xuất
kinh doanh nào mà chỉ được thành lập với mục đích duy nhất là mua bán hóa đơn do bộ tài chính
phát hành để hợp thức hóa các hàng hóa trôi nổi trên thị trường để chiếm đoạt tiền thuế giá trị gia
tăng đồng thời trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Còn nhiều kẽ hở trong luật khiến các đối tượng nộp
thuế vẫn có thể lợi dụng để trốn thuế, gian lận thuế hiện tượng phổ biến là khai thấp giá bán và số
lượng hàng hóa, để ngoài sổ kế toán những khoản thu đáng lẽ phải đánh thuế, sử dụng hóa đơn giả,
hóa đơn “đen”, khai gian loại hàng chịu thuế suất cao sang loại chịu thuế thấp.
III. NHỮNG ĐỀ XUẤT NHẰM THỰC THI MỘT CÁCH HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ
THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
1, Về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
Thứ nhất, luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn hiện hành nên quy định
một cách triệt để mối quan hệ giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân của chủ
DNTN; và rõ hơn về đối tượng nộp thuế và chính sách điều tiết thu nhập đối với các tổ chức có thu
nhập không chia như đã nói ở trên. Cần định nghĩa khái niệm “thu nhập phát sinh từ Việt Nam” và
lấy đó làm cơ sở đánh thuế đối với doanh nghiệp thành lập theo pháp luật nước ngoài.
Thứ hai, cần xem xét để điều chỉnh định nghĩa “cơ sở thường trú” sao cho không có sự khác
biệt hay không đồng nhất giữa luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần. Điều này cũng góp phần tạo sự bình đẳng trong việc áp thuế giữa các nhà đầu tư nước ngoài
được hưởng lợi và những nhà đầu tư nước ngoài không được hưởng lợi từ Hiệp định đánh thuế hai
lần ký kết với Việt Nam.
2, Về thuế suất
Thuế suất phản ánh mức độ điều tiết của nhà nước.hiện nay mức thuế suất của nước ta là 28%,
tuy phù hợp với thực tế nhưng mức thuế suất vẫn còn khá cao so với các nước khác, điều này ảnh
hưởng nhiều tới khả năng cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy, cần xác định lại mức
thuế suất TNDN theo hướng giảm thấp là một trong những giải pháp làm giảm động cơ trốn thuế,
gian lận thuế của các doanh nghiệp không những vậy nó còn khuyến khích, động viên ý thức tự giác
của doanh nghiệp nộp thuế. Mối lo về thất thu ngân sách khi hạ thuế không có cơ sở, bởi lẽ, ngày
càng có nhiều doanh nghiệp mới thành lập và đi vào hoạt động và nguồn thu cho ngân sách từ thuế
sẽ được cân đối.
Chính sách thuế là một trong những chính sách nhạy cảm nhất vì nó liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của đối tượng nộp thuế. Vì vậy công tác tuyên truyền cần phải được coi trọng để cộng
đồng doanh nghiệp hiểu được bản chất của thuế thu nhập doanh nghiệp từ đó nâng cao tính tự giác
nộp thuế của các doanh nghiệp, nghiêm chỉnh thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy
định của pháp luật. Việc tuyên truyền cần phải được quảng bá rộng rãi trên các phương tiện thông tin
đại chúng, ở nơi có nhiều khu công nghiệp. Chiến lược tuyên truyền phải được lập thành kế hoạch và
9
sắp xếp rõ ràng. Song song với việc tuyên truyền , nên bổ sung việc áp dụng các biện pháp khen
thưởng, biểu dương những đối tượng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế.
3, Về việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp
Các hành vi vi phạm hình sự trong lĩnh vực thuế nói chung và thuế thu nhập doanh nghiệp nói
riêng có mức độ nguy hiểm lớn cho xã hội. Các hành vi này có thể do cả tổ chức và cá nhân thực
hiện nhưng pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay mới chỉ quy định vấn đề truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với cá nhân ( Điều 161 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung 2009) chứ chưa thừa nhận việc truy
cứu hình sự với pháp nhân. Điều này đã tạo ra sự bất bình đẳng trong việc xử lí vi phạm về thuế. Bộ
luật hình sự nên có thêm quy định về việc truy cứu trách nhiệm của pháp nhân khi pháp nhân có
hành vi vi phạm về thuế.
Tăng cường chế tài đối với các hành vi vi phạm buộc các doanh nghiệp tự giác chấp hành, đảm
bảo tính răn đe. Mức xử phạt cả về hành chính và hình sự hiện nay đều không đạt được yêu cầu
phòng ngừa và trừng phạt ( phạt 5 lần số tiền trốn thuế; khung hình phạt cao nhất cho tội trốn thuế là
7 năm tù). Phải có thái độ kiên quyết thì mới có thể nâng cao việc thực thi tốt pháp luật về thuế thu
nhập doanh nghiệp.
4, Về công tác phòng ngừa các vi phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp
Tăng cường công tác kiếm tra, kiểm soát hóa đơn, chứng từ mua vào bán ra của các doanh
nghiệp nhằm phát hiện kịp thời những sai phạm, hạn chế tối đa thiệt hại do trốn thuế gây ra. Khuyến
khích cá nhân lấy hóa đơn khi mua hàng đồng thời bắt buộc mỗi nơi khi bán hàng đều phái xuất hóa
đơn giá trị gia tăng.
Nâng cao sự phối hợp giữa cơ quan chức năng đặc biệt là cơ quan đăng kí kinh doanh và cơ
quan thuế trong việc kiểm soát các doanh nghiệp mới thành lập, tránh tình trạng lợi dụng quy định
miễn thuế cho doanh nghiệp mới thành lập; sửa đổi bổ sung những quy định của pháp luật về hoạt
động của doanh nghiệp theo hướng vừa tạo môi trường kinh doanh thông thoáng vừa quản lí được
tình hình hoạt động của doanh nghiệp từ đó hạn chế tối đa tình trạng doanh nghiệp mà.
Đảm bảo tính thống nhất giữa pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp với các đạo luật thuế khác
trong cơ cấu hệ thống pháp luật thuế. Đảm bảo tính công bằng trong việc nộp thuế của tất cả mọi đối
tượng.
KẾT LUẬN
Như ta đã biết, thuế TNDN là một sắc thuế đóng vai trò vô cùng quan trọng trong chính sách thuế
trực thu nói riêng và hệ thống thuế nói chung. Qua bài viết trên đây, chúng ta đã đi tìm hiểu về các đối
tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế TNDN 2008, các quy định về thuế TNDN ngày
càng được hoàn thiện nhưng cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Trong thời gian tới,
mong rằng những hạn chế này sẽ được khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc thu thuế
TNDN.
10
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………………… 1
NỘI DUNG……………………………………………………………………………………… 1
I.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP........................1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật thuế Việt Nam, trường đại học luật Hà Nội. NXB Tư pháp.
2. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008
3. Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
4. Thông tư số 130/2008/TT-BTC ban hành ngày 26/12/2008. Hướng dẫn thi hành một số
điều của luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và hướng dẫn thi hành nghị
định số 124/2008/NĐ-CP.
5. Luật hợp tác xã năm 2003.
6. Một số trang tìm kiếm google.com
11