Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tổ chức và hoạt động của ủy ban thường vụ quốc hội thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.02 KB, 20 trang )

Mục lục:
I.Mở đầu:( trang2)
II.Nội dung(trang 2- 11 )
A.Tổ chức và hoạt động của UBTVQ( trang 2-5)
B.Thực trạng ( trang 5-10)
C.Giải pháp (trang 10,11)
III.Kết luận: (trang 11)

1


I.Mở đầu:
Theo Hiến pháp năm 1959, trong tổ chức của Quốc hội Ủy ban thường vụ
Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Đến Hiến pháp năm 1980, Hội
đồng Nhà nước đã thay thế Ủy ban thường vụ Quốc hội trở thành cơ quan cao nhất
hoạt động thường xuyên của Quốc hội, cũng là Chủ tịch tập thể nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên trên thực tế, Hội đồng Nhà nước đã bộc lộ những hạn chế của
mình bởi cùng một lúc Hội đồng Nhà nước phải đảm nhiệm nhiều chức năng: vừa
làm nhiệm vụ thường trực Quốc hội, vừa phải đảm nhiệm công việc của nguyên
thủ quốc gia. Có rất nhiều vấn đề này sinh đằng sau việc tập trung quyền lực và
quyền lập pháp vào Quốc hội. Trong kì họp Quốc hội, vai trò của Hội đồng Nhà
nước hầu như không được thể hiện; hơn nữa chức năng, nhiệm vụ giao cho Hội
đồng Nhà nước rất nặng nề nhưng cơ cấu thành viên của Hội đồng Nhà nước hầu
hết là những người kiêm nhiệm. Vì vậy mà hoạt động của Hội đồng Nhà nước
không cao.
Nhằm khắc phục những hạn chế của Hội đồng Nhà nước, Hiến pháp 1992 đã
xác định: Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Để
hiểu rõ hơn về những vai trò, chức năng to lớn của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
chúng ta đi vào tìm hiểu về tổ chức và hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hộithực trạng và giải pháp.
II.Nội dung:


A.Tổ chức và hoạt động của UBTVQH:
1.Tổ chức của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

2


Theo Điều 90 Hiến pháp năm 1992 quy định,UBTVQH là cơ quan thường trực của
Quốc hội.UBTVQH gồm có:Chủ tịch Quốc hội,các Phó chủ tịch Quốc hội,các ủy
viên.Số lượng thành viên UBTVQH là do Quốc hội quyết định.Thành viên của
UBTVQH được chọn trong số các đại biểu quốc hội và do Quốc hội bỏ phiếu tín
nhiệm hoặc bãi nhiệm,miễn nhiệm.Để đảm bảo cho hoạt động giám sát của
UBTVQH được khách quan,Hiến pháp năm 1992 còn quy định thành viên của
UBTVQH không thể đồng thời là thành viên Chính phủ,làm việc theo chế độ
chuyên trách.UBTVQH có các cơ quan chuyên trách gồm ban công tác đại
biểu,ban dân nguyện,viện nghiên cứu lập pháp,….
2.Hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Hoạt động của UBTVQH theo nhiệm kì của Quốc hội.Khi Quốc hội hết
nhiệm kì thì UBTVQH vẫn tiếp tục hoạt động cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu
ra các thành viên hợp thành cơ quan thường trực của Quốc hội khóa
mới.UBTVQH có hai hoạt động chủ yếu sau:
a.Hoạt động giám sát của UBTVQH:
Hoạt động giám sát của UBTVQH được quy định tại Khoản 5, khoản 6
Điều 7 Luật Tổ chức Quốc hội.UBTVQH giám sát việc thi hành Hiến
pháp,luật,pháp lệnh của Quốc hội,pháp lệnh,nghị quyết của UBTVQH; giám sát
hoạt động của Chính phủ,Tòa án nhân dân tối cao,Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao,đình chỉ thi hành các văn bản của chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,tòa án nhân
dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật,nghị quyết của
Quốc hội và trình Quốc hội quyết định hủy bỏ các văn bản đó; hủy bỏ các văn bản
của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Tòa án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân
dân tối cao trái với pháp lệnh,nghị quyết của UBTVQH.Thông qua hoạt động giám

sát, UBTVQH bảo đảm cho văn bản pháp luật được ban hành phải được thể hiện
3


được tính toàn diện, thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật của quốc gia, tránh
được các sơ hở, lỗ hổng đẻ người ta có thể lợi dụng. UBTVQH giám sát và hướng
dẫn hoạt dộng của hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của hội đồng
nhân dân tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương; giải tán hội đồng nhân dân
tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp hội đồng nhân dân đó làm
thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích nhân dân.Phương thức hoạt động giám sát của
UBTVQH được thể hiện thông qua các phương thức: xem xét báo cáo công tác của
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữa 2 kì họp
Quốc hội theo luật Hoạt động giám sát năm 2003; tổ chức các Đoàn giám sát ở địa
phương, các cơ quan nhà nước:có chương trình giám sát hàng quý, hàng năm,
thành lập các đoàn giám sát để đi giám sát hoạt dộng của các cơ quan của Chính
phủ, hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương đã được xác định từ trước
hoặc theo yêu cầu đột xuất đặt ra; xem xét chất vấn và trả lời chất vấn; ban hành
văn bản của các cơ quan nhà nước ở trung ương và hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương của UBTVQH.Đây là hoạt động được thực hiên thường
xuyên cả trong kì họp Quốc hội và giữa kì họp Quốc hội.UBTVQH vừa có quyền
giám sát vừa có quyền xử lý văn bản văn bản pháp luật trái pháp luật.UBTVQH
xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pl do Chính phủ, thủ tướng
chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành bằng
cách theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc tuân thủ hiến pháp và pháp luật trong quá
trình các cơ quan này thực hiện quyền lập quy để triển khai việc tổ chức và thực
hiện hiến pháp, luật, nghị quyết của qh của các cơ quan và cá nhân do qh bầu và
phê chuẩn.Ngoài ra,hoạt động giám sát của UBTVQH còn thông qua việc xét, giải
quyết các kiến nghị, khiếu nại và tố cáo của công dân.Khi cần thiết UBTVQH cử
đoàn đi kiểm tra, có quyền đưa ra kết luận kiến nghị yêu cầu đối với cơ quan nhà
nước.


4


b.Hoạt động giải thích Hiến pháp,luật,pháp lệnh.
Hoạt động giải thích hiến pháp, pháp lệnh, luật của UBTVQH được quy
định tại Điều 91 Hiến pháp năm 1992.UBTVQH được hiến pháp quy định có thẩm
quyền giải thích hiến pháp, luật và pháp lệnh.Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền đề nghị UBTVQH giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh là Chủ tịch
nước, Hội dông dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận tổ quốc Việt Nam,các tổ chức thành
viên của mặt trận và các đại biểu Quốc hội. Thẩm quyền này của UBTVQH còn
được quy định tại điều 7 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, Điều 85 Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. UBTVQH là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền thực hiện hoạt dộng giải thích hiến pháp, pháp lệnh và luật. Vì UBTVQH là
cơ quan thường trực của Quốc hội trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp.UBTVQH
có quyền trình dự án luật trước Quốc hội,vì vậy sẽ nắm vững và hiểu một cách thấu
đáo, chi tiết về ý chí của luật cần làm nói chung và nội dung của điều luật cụ thể
trong hiến pháp,luật và pháp lệnh nói riêng cũng như ý nghĩa của từ ngữ, của cụm
từ trong điều luật thì việc giải thích hiến pháp,luật và pháp lệnh của UBTVQH mới
toàn diện, đầy đủ và đúng với ý chí của Quốc hội.
c.Ngoài ra,UBTVQH còn có những hoạt động như dự kiến chương trình làm
việc các kì họp quốc hội,UB khoá trước dự kiến chương trình làm việc của kì họp
thứ nhất khoá mới;quyết định triệu tập kì họp quốc hội thường lệ chậm nhất là ba
mươi ngày,kì họp bất thường chậm nhất là bảy ngày trước ngày khai mạc kì họp.
B.Thực trạng
1.Tổ chức của UBTVQH
Hiện nay,UBTVQH khóa XIII bao gồm 18 thành viên,trong đó có 1 Chủ tịch Quốc
hội,4 Phó chủ tịch Quốc hội và 12 Ủy viên.*
5



2.Hoạt động giám sát của UBTVQH
o Về hình thức chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội
Trong các kỳ họp, không phải ĐBQH nào cũng thực hiện hình thức chất vấn mà
chỉ có khoảng 20% đến 25% số ĐBQH sử dụng quyền này. Thậm chí còn có nhiều
ĐBQH suốt cả nhiệm kỳ không sử dụng hình thức chất vấn này một lần nào. Hơn
nữa, khi thực hiện hình thức chất vấn, có nhiều ĐBQH không có kỹ năng chất vấn
nên còn ung túng trong phương pháp thực hiện quyền chất vấn, như: phương pháp
tranh luận như thế nào, đối thoại sử dụng ra sao? Ngoài ra, giữa hai kỳ họp của
Quốc hội, số lượng các ĐBQH gửi chất vấn đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH) để UBTVQH chuyển chất vấn đến những cá nhân và những cơ quan
bị chất vấn rất ít, thường có khoảng 5 đến 10 chất vấn, cũng có khi không có chất
vấn nào. Trong thời gian gần đây, số lượng chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội giảm
đáng kể.Thực tiễn này đã không đáp ứng được tính chất thường xuyên, liên tục của
hoạt động chất vấn.
Các ĐBQH chưa thực hiện đúng các quy định pháp luật về hoạt động chất vấn.
Điều này thể hiện ở chỗ: trường hợp không đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì
ĐBQH có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo
luận tại phiên họp khác của Quốc hội hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm
đối với người bị chất vấn1. Hoặc đối với trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có
thể quyết định cho trả lời trước UBTVQH hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc
cho trả lời bằng văn bản2.Song trên thực tế, các ĐBQH không đồng ý với trả lời
chất vấn, nhưng cũng không thực hiện quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận
hoặc tiến hành các hoạt động điều tra để xác định trách nhiệm của người trả lời
chất vấn. Thực trạng này cho thấy, mặc dù đã có quy định của pháp luật và hoạt
động chất vấn có tăng lên về số lượng, nhưng chất lượng vẫn chưa có nhiều chuyển
biến.
6



o Về hình thức giám sát văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Theo báo cáo tổng kết của Quốc hội, công tác giám sát của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội còn nhiều hạn chế trong việc giám sát văn bản pháp luật. Nhìn chung
hiệu quả thấp. Có những luật, pháp lệnh sau khi được thông qua không được quan
tâm giám sát việc thi hành, nhất là các văn bản dưới luật, như: hoạt động giám sát
văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan
ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chưa được Hội
đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, ĐBQH quan tâm đúng mức 3. Nếu căn
cứ vào quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Quốc hội giám sát văn
bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật theo một trình tự nhất định thì
trên thực tiễn, Quốc hội chưa lần nào thực hiện hình thức giám sát văn bản quy
phạm pháp luật như vậy.
o Về hình thức giám sát thông qua việc thành lập các đoàn giám sát tại địa
phương
Việc thực hiện hình thức này còn thể hiện nhiều bất cập và hạn chế. Đó là việc các
Uỷ ban tiến hành khá lớn số lượng các đoàn đi giám sát thực tiễn. Lĩnh vực được
giao giám sát lại quá rộng nên chưa thể bao quát hết toàn bộ nội dung mà chương
trình giám sát của Uỷ ban đã đề ra. Bên cạnh đó, việc phối hợp hoạt động giám sát
giữa các Uỷ ban chưa chặt chẽ theo một chương trình, kế hoạch giám sát thống
nhất dẫn đến việc cùng một vấn đề của một địa phương lại có những đoàn khác
nhau giám sát, đôi khi còn trùng cả thời điểm giám sát.Vì vậy, chưa có thể hội đủ
thông tin, các yếu tố cần thiết để kết luận, kiến nghị cụ thể về vấn đề được giám
sát.
o Về hình thức giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân
7


Đây là một hình thức được đánh giá là khâu yếu nhất của việc thực hiện chức năng

giám sát của Quốc hội. Việc giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân mới
chỉ được thực hiện bằng cách các ĐBQH hay các cơ quan của Quốc hội nhận đơn
và chuyển đơn, việc đôn đốc giải quyết những đơn thư khiếu nại tố cáo đó chưa
được đẩy mạnh. Tình trạng một số kiến nghị, khiếu nại của công dân thông qua các
đại biểu gửi đến các cơ quan chức năng đã không được giải quyết đến nơi đến
chốn, thậm chí “quên” trả lời4. Bên cạnh đó, pháp luật chưa quy định Quốc hội có
một Uỷ ban thuộc Quốc hội phụ trách giám sát việc giải quyết những đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân dẫn đến hậu quả khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo
chuyển đến thì ngay cả việc chuyển thư đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
cũng chưa được Quốc hội xử lý kịp thời dẫn tới tình trạng đơn thư tồn đọng nhiều.
Hơn nữa lại chưa có chế tài để buộc các cơ quan phải xem xét nghiêm túc và trả lời
các yêu cầu của ĐBQH mà pháp luật mới chỉ quy định ĐBQH và Đoàn ĐBQH có
quyền kiến nghị, yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
o Về hình thức xét báo cáo
Những năm gần đây, hoạt động xét báo cáo của Quốc hội đã được chú trọng, tuy
nhiên vẫn còn thể hiện nhiều bất cập trong hình thức và phương pháp xét báo cáo.
Hoạt động thẩm tra báo cáo thời gian qua đã thể hiện sự hạn chế, như: không phát
hiện được nhiều điểm bất cập, mâu thuẫn trong thực tiễn hoạt động, thường là đồng
tình với các bản báo cáo. Các báo cáo thẩm tra với bản chất là phản biện mang tính
xây dựng, hợp tác rất ít.Bên cạnh đó, số lượng các thành viên của Uỷ ban thường
được cơ cấu từ các đại biểu công tác tại các cơ quan hành chính địa phương nên
khi thẩm tra báo cáo thường ít nhận được các ý kiến đóng góp của những đại biểu
này.

8


o Trình tự, thủ tục của cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc
hội
Trình tự, thủ tục của cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội thời

gian vừa qua đã bộc lộ những yếu kém sau:
Thứ nhất, tính khoa học không được đảm bảo trong quy trình, thủ tục giám sát ở
hầu hết các hình thức giám sát của Quốc hội5. Thứ hai, việc tuân thủ các trình tự,
thủ tục giám sát mang tính hình thức. Các chủ thể tham gia hoạt động giám sát
thực hiện trình tự, thủ tục một cách qua loa, chiếu lệ nên hiệu quả không cao. Điều
này thể hiện ở trong tất cả các hình thức giám sát. Thứ ba, trình tự, thủ tục giám sát
của Quốc hội hiện nay là một quy trình khép kín, không tạo ra quy trình mở để huy
động các chủ thể khác cùng tham gia giám sát cũng như các cơ quan, tổ chức hữu
quan, tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp và cá nhân công dân tham gia
(kết hợp các hình thức giám sát). Thứ tư, trình tự, thủ tục giám sát của Quốc hội
chưa mang tính linh hoạt, phù hợp với thực tiễn nên không đáp ứng được tính chất
tối cao của hoạt động giám sát của Quốc hội6.
3.Hoạt động giải thích luật,hiến pháp,pháp lệnh:
Việc giải thích Hiến pháp,luật,pháp lệnh của UBTVQH còn chưa được
thường xuyên và chưa hiệu quá. Trong một vài trường hợp đã có đề nghị giải thích
thì việc giải thích của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng chưa được kịp thời, có thể
do công tác chuẩn bị các phương án giải thích chưa được tốt, song phải thẳng thắn
đánh giá rằng, việc giải thích không kịp thời đã gây ảnh hưởng cho công tác áp
dụng và thi hành pháp.Ngoài ra,do chúng ta chưa có một văn bản quy phạm pháp
luật để quy định một cách cụ thể, chi tiết thủ tục, trình tự giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh. Mặc dù, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng đã dành ra
hai điều để quy định về thủ tục, trình tự và thông qua một nghị quyết về giải thích
9


luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, những quy định này mới chỉ dừng lại ở những nét
chính, đại cương và cũng mới chỉ đề cập đến vấn đề giải thích luật, pháp lệnh, còn
việc giải thích Hiến pháp chưa được đề cập.Vì UBTVQH hiếm khi tham gia giải
thích pháp luật cho nên trên thực tế khi gặp những quyết định pháp luật chưa rõ
ràng,để có thể tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật,các cơ quan,chủ thể thường

đề nghị các cơ quan,củ thể có thẩm quyền tham gia vào hoạt động giải thích pháp
luật.Ví dụ như Ban Soạn thảo,TAND,các ủy ban của Quốc hội,…. Mặc dù Hiến
pháp quy định giải thích pháp luật thuộc nhiệm vụ quyền hạn của duy nhất của
UBTVQH nhưng trên thực tế đã xuất hiện ngày càng nhiều văn bản không phải
văn bản quy phạm pháp luật nhưng có nội dung giải thích luật
C.Giải pháp:
Có thể đưa ra một số nguyên nhân để giải thích cho thực trạng nêu trên như
sau: Sự yếu kém về năng lực thực hiện chức năng giám sát 7; sự phối hợp thiếu nhịp
nhàng của các cơ quan của Quốc hội8; yếu tố khác bao gồm :hệ thống luật
định,chương trình,chất lượng hoạt động giám sát..v.v 9. Từ đó trong bài tiểu luận
này xin được đưa ra những giải pháp như sau:
Một là, đổi mới nhận thức lý luận và thực tiễn về quyền giám sát tối cao và
chức năng giám sát của Quốc hội,coi giám sát là một trong ba chức năng quan
trọng của Quốc hội, khắc phục tình trạng chỉ coi trọng chức năng lập pháp và coi
nhẹ chức năng giám sát.Quyền giám sát tối cao phải được coi là quyền giám sát
của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước chứ không phải là chỉ đối
với “tầng cao nhất” trong bộ máy nhà nước.Cần thống nhất một cách hiểu rằng,
không có sự phân cấp trong việc thực hiện quyền giám sát của Quốc hội. Bởi lẽ,
hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là hoạt động do Hiến pháp quy định nhằm
thực hiện chức năng đại diện. Hiến pháp không cho phép Quốc hội ủy quyền giám
sát cho một cơ quan nào mà quyền giám sát đó phải do Quốc hội thực hiện theo
10


quy trình giám sát. Hơn thế nữa, để bảo đảm tính thường xuyên, liên tục, không bị
ngắt quãng trong việc thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội, càng không thể
có cơ sở để phân biệt hoạt động giám sát của Quốc hội trong kỳ họp và ngoài kỳ
họp mà cần hiểu rằng, ở bất kỳ thời điểm nào, hoạt động giám sát của Quốc hội
đều có thể được tổ chức thực hiện và có hiệu lực trực tiếp tới đối tượng chịu sự
giám sát khi hoạt động giám sát đó đã hoàn thành hết quy trình giám sát.

Hai là, thực hiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội cần quán triệt các
quan điểm chính như: nguyên tắc đảm bảo tính đại diện của Quốc hội. Có đảm bảo
nguyên tắc này thì mọi hoạt động giám sát của Quốc hội mới thực sự xuất phát từ
những bức xúc của nhân dân, Quốc hội thực hiện hoạt động giám sát vì lợi ích của
Nhà nước, của nhân dân.Tiếp đến là quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của Quốc hội.Việc thực hiện pháp luật giám sát của Quốc hội
cần phải xuất phát trên cơ sở thực tiễn Việt Nam kết hợp với sự tiếp thu có chọn
lọc kinh nghiệm hoạt động của Quốc hội một số nước trên thế giới bên cạnh đó
cũng cần bảo đảm tính hiện đại, chuyên nghiệp và khoa học,tư duy logic,kỹ năng
phân tích, đánh giá các thông tin thu thập cùng với việc áp dụng thành thạo các kỹ
thuật hiện đại, sử dụng tối đa các ưu thế của công nghệ thông tin để có được nguồn
thông tin chính xác và nhanh nhất. Cùng với đó thực hiện pháp luật về giám sát
phải bảo đảm tính công khai, minh bạch và quán triệt tinh thần tiết kiệm và quả.
Ba là, tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và các
quy định pháp luật có liên quan nhằm tạo cơ sở pháp lý cho Quốc hội thực hiện có
hiệu quả chức năng giám sát10. Bốn là nghiên cứu quy định về việc giải thích pháp
luật thay vì chỉ quy định việc giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh như hiện nay.11
III.Kết luận:
Trên đây là một số phương hướng nhằm khắc phục những tồn tại tiêu cực
trong tổ chức và hoạt động của UBTVQH để UBTVQH có thể thực hiện tốt các
11


chức năng và nhiệm vụ quyền hạn của mình,đảm bảo cho quyền lợi của nhân dân
được thực hiện một cách hiệu quả,thể hiện Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,do nhân dân và vì nhân dân.

Danh mục tài liệu tham khảo:
1.Luật tổ chức Quốc hội.
2.Giáo trình Luật Hiến pháp.

3.Khóa luận tốt nghiệp “ Hoạt động giải thích hiến pháp,luật,pháp lệnh của
UBTVQH- Lí luận và thực tiễn”- Tác giả Phạm Quý Đạt_năm 2010
4.Khóa luận tốt nghiệp “ Hoạt động giám sát của UBTVQH- Thực trạng và giái
pháp”- Tác giả Nguyễn Thị Ngọc- năm 2011.
5. />
12


Phụ lục:
*:

Chủ tịch Quốc hội là ông Nguyễn Sinh Hùng.
Bốn Phó Chủ tịch là các ông bà: Uông Chu Lưu,Nguyễn Thị Kim

Ngân,Tòng Thị Phóng,Huỳnh Ngọc Sơn.
12 Ủy viên là các ông bà:
 Phan Xuân Dũng: Chủ nhiệm UB Khoa hoac,Công nghệ và
Môi trường.
 Nguyễn Văn Giàu:Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế.
 Trần Văn Hằng:Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại.
 Phùng Quốc Hiền: Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- Ngân sách
 Nguyễn Văn Hiện: Chủ nhiệm Ủy ban tư pháp.
 Nguyễn Kim Khoa: Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và an
ninh
 Phan Trung Lý:Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp.
 Trương Thị Mai: Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội
 Nguyễn Thị Nương: Trưởng ban Công tác Đại biểu.
 Nguyễn Hạnh Phúc : Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
 Ksor Phước: Chủ tịch Hội đồng dân tộc.
 Đào Trọng Thi: Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa,Giáo dục,Thanh

niên,Thiếu niên và Nhi đồng.
5)Trong thực tế hoạt động giám sát của Quốc hội, đối với một lĩnh vực giám sát
đòi hỏi phải có một quy trình giám sát riêng, nếu áp dụng trình tự, thủ tục giám sát
chung chung sẽ không mang lại hiệu quả giám sát như mong muốn. Đặc biệt là vấn
đề giám sát ngân sách, giám sát tư pháp đòi hỏi quá trình thẩm tra báo cáo về ngân

13


sách, về hoạt động tư pháp phải có một trình tự, thủ tục riêng mới đảm bảo đáp ứng
được yêu cầu về tính khoa học và chính xác của hoạt động giám sát này.
(6)Điều này thể hiện rõ nét trong hình thức bỏ phiếu tín nhiệm. Quy định tại Điều
13 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 về việc Quốc hội bỏ phiếu
tín nhiệm là một quy định có thể nói vừa mang tính nguyên tắc, vừa mang tính thủ
tục, song lại là một thủ tục khó được áp dụng trong thực tế. Khó thực hiện ngay ở
việc quy định chủ thể có quyền trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm là UBTVQH,
20% ĐBQH, kiến nghị của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội. Hiện nay,
hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc và Uỷ ban của Quốc hội thể hiện nhiều
trong việc thẩm tra báo cáo, xem xét văn bản, tổ chức đoàn giám sát, cử thành viên
đến cơ quan, tổ chức hữu quan xem xét, xác minh vấn đề mà Hội đồng và Uỷ ban
quan tâm, tổ chức nghiên cứu và xử lý, xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân. Đây là một công đoạn, một quy trình của toàn bộ hoạt động giám sát
của Quốc hội nên nó không mang tính liên tục, các kiến nghị của Hội đồng và Uỷ
ban chưa mang tính quyết định cuối cùng đến việc quy định hậu quả pháp lý của
hoạt động giám sát, vì vậy Hội đồng và Uỷ ban chưa có cơ sở chắc chắn nên ít khi
sử dụng quyền kiến nghị về việc bỏ phiếu tín nhiệm do luật định. Tương tự như
thế, UBTVQH thông qua hoạt động của mình giữa hai kỳ họp và một số hoạt động
luật định về giám sát hầu như không bao giờ có nhu cầu và cũng không có cơ sở
đưa ra các kiến nghị đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm. Hoạt động giám sát của các cơ
quan này kết hợp với hoạt động giám sát của ĐBQH sẽ là cơ sở để ĐBQH thực

hiện quyền kiến nghị của mình về việc đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm. Do
đó, việc quy định cho quá nhiều cơ quan có thẩm quyền trình kiến nghị bỏ phiếu
tín nhiệm là một vấn đề thừa. Ngoài ra, quy định cho 20% ĐBQH kiến nghị bỏ
phiếu tín nhiệm như ở Việt Nam là một con số khó có thể đạt được trên thực tế.
Trong khi đó, trong hoạt động giám sát của Quốc hội một số nước trên thế giới,
14


con số này được giới hạn ở 5 đến 10% tổng số ĐBQH, thậm chí có nước quy định
chỉ cần 01 ĐBQH có kiến nghị, Quốc hội đều phải xem xét, thảo luận đưa ra bỏ
phiếu tín nhiệm. Hơn thế nữa, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003
chưa quy định trình tự, thủ tục cụ thể cho hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc
hội. Không có quy định kiến nghị trình bỏ phiếu tín nhiệm phải được thể hiện bằng
văn bản theo hình thức nào, 20% ĐBQH kiến nghị thể hiện bằng chữ ký hay chỉ
nêu tên. Đặc biệt, theo những quy định tại Điều 13, Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội năm 2003 thì việc bỏ phiếu tín nhiệm lại không theo một trình tự khoa
học, bởi chưa có thủ tục trình bày lý do bỏ phiếu tín nhiệm trước Quốc hội thì đã
có thủ tục người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của
mình trước Quốc hội, rồi đến ngay thủ tục Quốc hội thảo luận và bỏ phiếu tín
nhiệm. Bên cạnh đó, việc Quốc hội xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi
nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức không phải là thủ tục do Quốc
hội thực hiện ngay sau khi có kết quả bỏ phiếu mà phải sau thủ tục trình Quốc hội
do cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc đề nghị phê chuẩn người đó thực
hiện. Về mặt thực tế, đây là một thủ tục thừa. Về mặt lý thuyết, thủ tục này có thể
dẫn đến tình trạng Quốc hội đã bỏ phiếu tín nhiệm, nhưng không được nửa tổng số
ĐBQH tín nhiệm mà cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc đề nghị phê
chuẩn không tiến hành thủ tục trình Quốc hội thì Quốc hội không thể đưa ra quyết
định miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức người đó
được.
(7)Hiện nay, năng lực giám sát của ĐBQH kiêm nhiệm và chuyên trách chưa thực

sự đáp ứng được yêu cầu của hoạt động giám sát của Quốc hội. Các ĐBQH không
đủ điều kiện thời gian, vật chất và thiếu thông tin, kỹ năng giám sát để thực hiện
chức năng giám sát một cách có hiệu quả.

15


(8) Sự phối hợp thiếu nhịp nhàng của các cơ quan của Quốc hội được thể hiện
trong việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của UBTVQH với các
Uỷ ban của Quốc hội còn chưa thật sự sâu sát, cụ thể và thường xuyên.Sự không
hợp lý về cơ cấu tổ chức của Quốc hội còn được thể hiện ở chỗ, Quốc hội không có
một Uỷ ban chuyên môn chịu trách nhiệm về hoạt động giám sát. Trong khi đó,
giám sát là một trong ba chức năng cơ bản, quan trọng của Quốc hội và trên thực
tế, việc thực hiện chức năng giám sát luôn được coi là khâu yếu nhất trong hoạt
động của Quốc hội, đặt Quốc hội vào tình trạng chưa thật sự thể hiện là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân.
(9)Các quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn và thiếu các quy định về trình tự, thủ
tục giám sát một cách hữu hiệu. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật về hoạt
động giám sát còn thể hiện sự chưa đầy đủ, còn chung chung, nằm tản mạn ở nhiều
văn bản pháp luật khác nhau, thậm chí giữa các văn bản pháp luật về cùng một vấn
đề lại mâu thuẫn nhau khiến cho việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội
gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, thiếu sự tổng kết, rút kinh nghiệm đầy đủ về công
tác giám sát, để trên cơ sở đó hoàn thiện luật về hoạt động giám sát của Quốc hội.
Một số vấn đề như cơ chế phối hợp giám sát giữa các cơ quan của Quốc hội, phạm
vi trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc tiếp thu và trả lời kiến nghị
giám sát của UBTVQH và các cơ quan của Quốc hội... chưa được pháp luật quy
định cụ thể làm hạn chế hiệu quả công tác của Quốc hội.Việc xây dựng chương
trình giám sát còn có chỗ chưa bám sát vào yêu cầu thực tế của cuộc sống và các
Nghị quyết của Quốc hội, nhất là Nghị quyết về nhiệm vụ và ngân sách hàng
năm;chất lượng của hoạt động giám sát còn nhiều hạn chế, chưa đi sâu, chưa phát

hiện và đề xuất giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, chủ yếu là do phương
thức, do năng lực, trình độ, do nể nang, né tránh. Nhiều cơ quan nhà nước chưa
nghiêm túc thực thi pháp luật và cũng chưa thực sự coi trọng hoạt động giám sát
16


của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; do đó có nhiều kiến nghị qua giám sát
chưa được thực sự tập trung xem xét, giải quyết nghiêm túc. bộ máy giúp việc của
Quốc hội chưa thực sự phát huy hết khả năng để phục vụ cho Quốc hội thực hiện
tốt chức năng giám sát của mình;có sự yếu kém về cơ sở vật chất. Hiệu quả của
việc thực hiện chức năng giám sát liên quan trực tiếp đến việc Quốc hội có đáp ứng
đầy đủ về cơ sở vật chất cho các chủ thể trực tiếp tham gia hoạt động giám sát
không. Hiện nay, hoạt động giám sát của Quốc hội được đảm bảo bằng một cơ sở
vật chất chưa thực sự đầy đủ về phương tiện đi lại, phương tiện làm việc, thông tin
liên lạc và bộ máy giúp việc.
(10)Về thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
cần bổ sung quy định về những căn cứ làm cơ sở cho việc dự kiến danh sách
những người có trách nhiệm trả lời chất vấn tại kỳ họp của UBTVQH. Quốc hội là
chủ thể có quyền quyết định cao nhất về danh sách những người trả lời chất vấn và
những câu hỏi chất vấn của ĐBQH sẽ được đưa ra chất vấn bằng miệng hoặc chất
vấn bằng văn bản.Quyết định của Quốc hội cần được tiến hành trên cơ sở lấy biểu
quyết của Quốc hội. Bên cạnh đó, để dự liệu cho những trường hợp khi một số chất
vấn của ĐBQH không được UBTVQH đưa vào danh sách để Quốc hội quyết định
thì Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội cần quy định những trường hợp đó cũng
phải được Quốc hội đưa ra bỏ phiếu biểu quyết. Cần nghiên cứu hình thức liên
danh chất vấn giữa một số các ĐBQH để bổ sung trong Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội để làm phong phú thêm cách thức chất vấn và làm cho vấn đề chất
vấn được tập trung cũng như tạo sức ép đối với đối tượng bị chất vấn. Hiệu quả
chất vấn có thể sẽ được nâng lên.
 Chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội không nên chỉ tập trung

vào 2 hoặc 3 ngày cuối kỳ họp mà nên coi chất vấn là một hoạt động phải
được tiến hành thường xuyên trong suốt kỳ họp. Do đóC, nên bố trí mỗi
17


ngày một giờ đồng hồ cho hoạt động chất vấn. Những vấn đề chất vấn và
nội dung chất vấn, câu trả lời chất vấn, các kết luận về vấn đề chất vấn do
Chủ toạ kết luận và Nghị quyết về vấn đề chất vấn (nếu có) cần phải
được thể hiện theo quy trình cụ thể hơn và được ghi vào biên bản của kỳ
họp Quốc hội, đồng thời được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Và để bảo đảm cho hoạt động giám sát của nhân dân đối với hoạt
động của đại biểu dân cử, ngoài những thông tin được cung cấp trên báo
chí và phương tiện truyền thông, nếu cử tri có yêu cầu được cung cấp
thông tin về việc trả lời chất vấn trong kỳ họp Quốc hội và giữa hai kỳ
họp Quốc hội thì Quốc hội phải có kế hoạch cung cấp thông tin cho cử tri
một cách đầy đủ, cụ thể và kịp thời.
 Bổ sung hình thức chất vấn cho các cơ quan của Quốc hội để Hội đồng
Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội được quyền chủ động trong giám
sát. Có như vậy các vấn đề giám sát mới trở nên minh bạch và kịp thời
khi các cơ quan của Quốc hội có đủ công cụ giám sát hữu hiệu.
 Về thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm, cần sửa đổi quy định về thẩm quyền trình
Quốc hội xem xét vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm. Không nên chỉ quy định
thẩm quyền này thuộc về UBTVQH mà phải xác định cho các chủ thể
khác như: ĐBQH, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn
ĐBQH. Trên cơ sở đó, Quốc hội biểu quyết và quyết định theo đa số
phiếu. Để tránh sự tuỳ tiện trong việc trình kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm,
việc quy định số lượng nhất định ĐBQH là cần thiết, tuy nhiên nếu quy
định là 20% tổng số ĐBQH, e rằng đây là con số quá lớn làm cho việc bỏ
phiếu tín nhiệm khó áp dụng trong thực tiễn ngay từ giai đoạn trình kiến
nghị. Do đó, theo chúng tôi, nếu không bỏ được việc hạn chế số lượng

kiến nghị của ĐBQH thì nên áp dụng theo quy định của hầu hết các nước
trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Thuỵ Điển là kiến nghị của ít
18


nhất 10% tổng số ĐBQH hoặc cũng có thể căn cứ từ đề nghị của ít nhất
là 10 đoàn ĐBQH. Bên cạnh đó, các chủ thể khi thực hiện quyền trình
kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm phải kèm theo dự thảo Nghị quyết trình bày
trước Quốc hội cơ sở của kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm.
 Ngoài ra, để hoạt động giám sát thông qua chất vấn và bỏ phiếu tín nhiệm
của Quốc hội đạt được hiệu quả thì Quốc hội cần chú trọng tới hoạt động
điều tra. Tuy nhiên, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội hiện hành chỉ
quy định cho Uỷ ban lâm thời tiến hành hoạt động điều tra là chưa đủ.
Hoạt động điều tra có thể do Quốc hội trực tiếp thực hiện và có thể được
tiến hành ngay trong phiên chất vấn của Quốc hội với sự triệu tập nhân
chứng. Nhân chứng ở đây có thể là lãnh đạo hoặc người trực tiếp thực
hiện công việc cùng với đối tượng bị giám sát và các cá nhân có liên
quan đến vụ việc. Trên cơ sở điều tra tại chỗ như vậy, Quốc hội và
ĐBQH đánh giá được mức độ hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của
đối tượng bị giám sát để từ đó có cơ sở để thể hiện thái độ của mình đối
với đối tượng bị chất vấn và nội dung chất vấn. Qua đó, Quốc hội có cơ
sở khách quan hơn để ra Nghị quyết về việc trả lời chất vấn.
 Bổ sung hoạt động điều tra cho các Uỷ ban của Quốc hội cũng là một vấn
đề cần phải được cân nhắc trong thời gian tới, đặc biệt là trong xu thế
chuyên môn hoá các uỷ ban vào từng lĩnh vực cụ thể. /.
(11) Để khôi phục tình trạng “Bỏ ngó” việc giải thích các văn bản quy phạm pháp
luật hay đánh giấu giữa việc chính phủ quy định chi tiết và hướng thi hành các văn
bản quy phạm pháp luật với việc giải thích pháp luật. Cần thiết lập một cơ chế
riêng về giải thích hiến pháp cho phù hợp với vị trí, vai trò của hiến pháp trong
nhà nước pháp quyền và phù hợp với điều kiện Việt Nam, giải thích có sự phân

định về thẩm quyền giữa các chủ thể trong việc giải thích pháp luật theo hướng
trao một phần thẩm quyền cho hệ thống tòa án bởi vì tư pháp theo nghĩa hẹp là hệ
19


thống tòa án là việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và các vụ kiện tụng cho
nhân dân.Tóm lại về chủ thể giải thích hiến pháp, luật và pháp lệnh cần mở rộng
thẩm quyền giải thích chính thức luật, pháp lệnh cho hệ thống tòa án và chuyển
quyển giải thích hiến pháp của ủy ban thường vụ quốc hội sang cho quốc hội giải
pháp này được thực hiện thì phải sửa đổi hiến pháp hiện hành;định hướng rõ ràng
và thống nhất trong tổ chức bộ máy giúp việc, sử đổi bổ sung quy định về bộ máy
cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy giúp việc nhằm đảm bảo tính
thống nhất và phụ hợp với thức tiễn hiện nay.Tiến hành phân công rõ ràng giữa các
chức vụ, đơn vị trong bộ máy giúp việc trên cơ sở đề cao trách nhiệm cá nhân phát
huy tinh thần chủ động sáng tạo, hoàn thiện cơ chế, lãnh đạo đối với bộ phận giúp
việc cho hội đồng dân tộc, ủy ban các ban.Cuối cùng ần nghiên cứu làm rõ hơn vị
trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của các ban và viện nghiên cứu lập pháp theo
hướng trong các cơ quan này, cần xác định rõ viện nghiên cứu lập pháp là cơ quan
bộ máy giúp việc chuyển hai ban của ủy ban thường vụ quốc hội thành hai ủy ban
tương ứng quốc hội.

20



×