Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đại diện và các loại đại diện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.63 KB, 19 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Bộ luật dân sự năm 2005 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 có hiệu lực
từ ngày 1/1/2006. Đây là bộ luật lớn nhất nước ta hiện nay. Với 777 điều
luật, Bộ luật dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính phổ biến trong đời
sống của nhân dân ta hiện nay. Đại diện là một trong những quan hệ pháp
luật được luật dân sự điều chỉnh. Đây là một quan hệ pháp luật tương đối
phức tạp, Bộ luật dân sự 2005 dành hẳn một chương gồm 11 điều ( điều 139
– điều 148) quy định về quan hệ pháp luật này. Bài viết dưới đây sẽ đi sâu
phân tích về những nội dung của quan hệ Đại diện và các loại đại diện.

NỘI DUNG
I. Khái niệm đại diện
1. Định nghĩa
Trong giao lưu dân sự, các chủ thể có thể tự xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự nhưng trong trường hợp nhất định có thể thông qua hành vi của
người khác là người đại diện.
Theo quy định tại khoản 1 – Điều 139 BLDS 2005: “ Đại diện là việc
một người( sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người
khác( sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch trong
phạm vi đại diện”.

1


Như vậy, đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự bao gồm người đại
diện và người được đại diện. Người được đại diện có thể là cá nhân không
có năng lực hành vi, chưa đủ năng lực hành vi nên theo quy định của pháp
luật, phải có người đại diện theo quy định của pháp luật. “ Người” trong
định nghĩa trên không phải chỉ một cá nhân cụ thể mà chỉ tất cả các chủ thể
của quan hệ pháp luật dân sự.


Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi (trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 – Điều 143 bộ luật này) có thể ủy quyền cho người khác làm đại
diện theo ủy quyền của mình. Các chủ thể khác của quan hệ dân sự là pháp
nhân , hộ gia đình, tổ hợp tác đều hoạt động thông qua hành vi của những
người nhất định có thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó. Tuy nhiên, cá nhân
không được người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự
xác lập giao dịch đó. ( Khoản 2 – Điều 139).Ví dụ: Pháp luật không cho
phép một cá nhân ủy quyền cho người khác thay mình làm thủ tục li hôn, kết
hôn, lập si chúc… ( những công việc liên quan đến yếu tố nhân thân).
So với khoản 1 – Điều 148 BLDS 1995 “ Đại diện là việc một người
nhân danh người khác xác lập thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi
thẩm quyền đại diện” thì khoản 1 – Điều 139 BLDS 2005 đã nhận mạnh hơn
trách nhiệm của người đại diện, từ đó có cơ sở pháp lý để giải quyết những
trường hợp đại diện xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự không xuất phát từ
lợi ích của người được đại diện.
2. Đặc điểm

Ngoài đặc điểm của quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ đại diện có
những đặc điểm riêng sau:
• Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng song song tồn tại là
quan hệ bên trong và quan hệ bên ngoài

2


Quan hệ bên trong là quan hệ hình thành giữa người đại diện và người
được đại diện. Người đại diện là người nhân danh người được đại diện xác
lập quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người được đại diện. Người
được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lý do người đại diện xác
lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Quan hệ này có thể được hình

thành từ hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. VD: Theo quy định tại
điều 21 – BLDS thì mọi giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi phải do
người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện chứ không phải theo hợp
đồng.
Quan hệ bên ngoài là quan hệ giữa người đại diện với người thứ ba.
Quan hệ bên trong là cơ sở hình thành nên quan hệ bên ngoài. Quan hệ bên
ngoài thực hiện bởi quan hệ bên trong. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn lại
quan hệ giữa người được đại diện và người thứ ba về lợi ích và trách nhiệm.
• Trong quan hệ đại diện, người đại diện nhân danh người được đại
diện để xác lập và thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba.
Người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh người
được đại diện chứ không phải nhân danh chính bản thân họ, do vậy các
quyền và nghĩa vụ do người đại diện thưc hiện trong phạm vi thẩm quyền
đại diện với người thứ ba đều thuộc về người được đại diện. Người đại diện
có thể được hưởng lợi ích từ người được đại diện do thực hiện hành vi đại
diện với người thứ ba chứ không được hưởng bất kỳ lợi ích gì từ người thứ
ba.
• Người đại diện tuy nhân danh cho người được đại diện nhưng vẫn có
sự chủ động trong sự xác lập thực hiện giáo dịch
Người đại diện tuy nhân danh người được đại diện và thẩm quyền của
họ bị giới hạn trong phạm vi thỏa thuận hay theo quy định của pháp luật
nhưng họ vẫn có sự chủ động trong khi tiến hành các hoạt động cần thiết để
3


đạt được mục đích là vì mục đích của người được đại diện. Ví dụ: A là đại
diện theo ủy quyền của B để mua xe máy cho B, A vẫn được thể hiện ý chí
của mình trong việc thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng với người thứ
ba nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho B.
• Trong quan hệ đại diện, người được đại diện trực tiếp thu nhận các

kết quả pháp lý do hoạt động của người đại diện thực hiện trong
phạm vi thẩm quyền đại diện mang lại.
Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện
xác lập thực hiện với người thứ ba đều thuộc về người đại diện, nghĩa là
quan hệ đại diện phát sinh giữa người được đại diện và người thứ ba chứ
không phải giữa người trực tiếp xác lập giao dịch( người đại diện) với người
thứ ba.

II. Phân loại đại diện
Khoản 3 – Điều 139 quy định “ Quan hệ đại diện được xác lập theo
pháp luật hoặc theo ủy quyền” Như vậy, theo điều trên ta phân loại đại diện
thành hai loại: Đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
2.1 Đại diện theo pháp luật
• Khái niệm và đặc điểm
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quy định ( Điều 140 – BLDS 2005).
Từ khái niệm trên có thể rút ra các đặc điểm của hình thức này là:
- Đại diện được quy định theo pháp luật chung là đại diện mặc nhiên, ổn
định về người đại diện, về thẩm quyền đại diện…Đó là các trường hợp: Cha,
mẹ đại diện cho con vị thành niên, người đứng đầu pháp nhân đại diện cho
pháp nhân, người giám hộ đương nhiên đại diện cho người được giám hộ,
chủ hộ gia đình với hộ gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác với tổ hợp tác…).
4


- Đại diện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được coi
là đại diện theo quyết định của cơ quan hành chính trong những quyết định
riêng biệt. Đó là các trường hợp: Người giám hộ cử đối với người được giám
hộ, người được Tòa án chỉ định với người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự. Trong một số trường hợp, người đứng đầu pháp nhân có thể được xác

định theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Căn cứ để hình thành quan hệ này là ý chí của nhà nước, pháp luật quy
định mối quan hệ theo pháp luật được xác lập dựa trên các mối quan hệ đã
tồn tại sẵn chứ không theo ý chí hay sự thỏa thuận, định đoạt của các chủ
thể.
• Các chủ thể trong quan hệ đại diện theo pháp luật

-

Người được đại diện:

+

Nếu người được đại diện là cá nhân thì phải là người không có khả năng

trực tiếp tham gia vào bất kỳ giao dịch nào nên pháp luật quy định phải có
những chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi cho họ trong việc xác lập, thực
hiện các giao dịch dân sự. Đó là những người không có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ( người chưa thành niên), người được giám hộ, người không có
năng lực hành vi dân sự ( người chưa đủ 6 tuổi), người bị Tòa án ra quyết
định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+

Nếu người được đại diện là pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình khi tham

gia vào giao dịch dân sự bắt buộc phải thông qua người đại diện
-

Người đại diện: Phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Người
đại diện theo pháp luật phải là người có mối quan hệ đặc biệt với người

được đại diện: Quan hệ huyết thống ( VD: Cha mẹ với con cái,…), quan
hệ pháp lý ( VD: Quan hệ giám hộ…)

5


• Các căn cứ để nhận biết các quan hệ đại diện theo pháp luật đang

tồn tại:
-

Căn cứ vào giấy khai sinh của con chưa thành niên để biết ai là người đại
diện theo pháp luật .

- Căn cứ vào giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường nơi người
giám hộ cư trú để biết ai là người đại diện theo pháp luật của người được
giám hộ.
- Căn cứ vào quyết định của tòa án khi tuyên bố một người bị hạn chế hay
mất năng lực hành vi dân sự để biết ai là người đại diện cho người này.
- Căn cứ vào sổ hộ khẩu của gia đình để biết ai là người đại diện theo pháp
luật cho hộ gia đình.
- Căn cứ vào hợp đồng hợp tác có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã,
phường để biết ai là người đại diện cho tổ hợp tác.
- Căn cứ vào giấy đăng kí kinh doanh, điều lệ của công ty để biết được ai
là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Tóm lại, quan hệ đại diện theo pháp luật là quan hệ dân sự mang tính ổn
định và bền vững dựa trên mối quan hệ giữa người đại diện và người được
đại diện là mối quan hệ huyết thống hay mối quan hệ pháp lý. Vì vậy người
đại diện vì trách nhiệm với người được đại diện và không được hưởng công
trong mối quan hệ này.

2.2 Đại diện theo ủy quyền
• Khái niệm và đặc điểm
Theo Khoản 1 Điều 142: “Đại diện theo ủy quyền là đại diện được
xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện” ,
Từ khái niệm trên có thể rút ra các đặc điểm của hình thức này là:

6


-

Đại diện theo ủy quyền là hình thức đại diện tự nguyện, theo sự thỏa

thuận giữa người đại diện và người được đại diện, thể hiện bằng hợp đồng
ủy quyền ( giấy ủy quyền ). Trên thực tế, việc đại diện theo ủy quyền diễn ra
rất phổ biến, các bên có thể thỏa thuận cho nhau tiến hành giao dịch dưới
nhiều hình thức, kể cả bằng miệng; tuy nhiên đối với các trường hợp pháp
luật qui định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo
hình thức đó mới có giá trị pháp lý.
- Ủy quyền là căn cứ làm phát sinh quan hệ giữa người đại diện và người
được đại diện; đồng thời nó cũng là cơ sở để người ủy quyền tiếp nhận các
kết quả pháp lý do hoạt động ủy quyền mang lại. Vì vậy khi ủy quyền phải
xác định rõ phạm vi đại diện, thời hạn thời hiệu của việc phát sinh, chấm dứt
ủy quyền, mức độ ủy quyền … trong hợp đồng ủy quyền.
-

Khác với đại diện theo pháp luật, hai bên chủ thể trong quan hệ đại diện

đều phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp qui định tại
Khoản 2 Điều 143 BLDS 2005 “ người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có

thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật qui định giao
dịch dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập, thực hiện”
• Các chủ thể trong quan hệ đại diện theo ủy quyền:
- Người đại diện theo ủy quyền có các loại:
+ Đại diện theo ủy quyền của cá nhân: đại diện theo ủy quyền của cá
nhân có thể là cá nhân, ví dụ: A ủy quyền cho B đứng ra kí kết hợp đồng
thuê nhà; đại diện theo ủy quyền của cá nhân cũng có thể là pháp nhân, ví
dụ: A ủy quyền cho công ty luật X đứng ra kí kết hợp đồng thuê nhà.
+ Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân: là người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân ủy quyền cho người khác xác lập thực hiện giao dịch dân

7


sự. Ví dụ: A là tổng giám đốc của công ty Y, đồng thời là người đại diện theo
pháp luật của công ty này. A ủy quyền cho B là nhân viên công ty thay mình
kí kết hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng với công ty Z. Trong trường hợp
này B là người đại diện theo ủy quyền của công ty Y.
+ Đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình và tổ hợp tác: người được
ủy quyền chỉ có thể là thành viên trong hộ gia đình hay trong tổ hợp tác mà
thôi.
- Người được ủy quyền phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ (trừ trường hợp người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi có thể có quyền là
người đại diện trong một số trường hợp nhất định theo qui định tại Khoản 2
Điều 143 BLDS 2005 ).


Căn cứ pháp lý để nhận biết quan hệ ủy quyền là hợp đồng ủy

quyền hoặc giấy ủy quyền. Hợp đồng ủy quyền và giấy ủy quyền có thể do

pháp luật qui định, nếu pháp luật không qui định các bên có thể tự thỏa
thuận để lựa chọn hình thức công chứng, chứng thực cho hợp đồng ủy quyền
của mình.
Tóm lại, ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho
cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của quan hệ dân sự, bằng nhiều hình
thức khác nhau có thể tham gia vào giao dịch dân sự một các thuận lợi nhất,
đảm bảo thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích mà chủ thể quan tâm. Người đại
diện trong quan hệ ủy quyền có thể được hưởng lương, lợi ích từ quan hệ ủy
quyền nếu các bên có thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền.

III. Phạm vi thẩm quyền đại diện.
Người đại diện thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện bởi
vậy cần phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó. Giới hạn này là

8


phạm vi thẩm quyền đại diện. Việc xác định phạm vi thẩm quyền có ý nghĩa
sẽ mang lại những ý nghĩa pháp lý rất quan trọng, đó là: Khi người đại diện
thực hiện hành vi trong phạm vi đại diện thì mới làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của người được đại diện với người thứ ba. Ngoài ra phạm vi đại
diện còn là căn cứ để xem xét tính hiệu lực của một số giao dịch do người
đại diện xác lập, nếu người đại diện vượt qua thẩm quyền cho phép thì họ
phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Như vậy: Phạm vi thẩm quyền
đại diện là giới hạn quyền, nghĩa vụ theo đó người đại diện nhân danh người
được đại diện xác lập, thực hiện GDDS với người thứ ba. Tùy thuộc vào
quan hệ đại diện là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền mà
phạm vi thẩm quyền đại diện được xác định khác nhau (Khoản 1, 2 Điều 153
BLDS 2005).
* Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật.

- Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật qui định hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định nên thẩm quyền của người đại diện theo
pháp luật được pháp luật quy định hoặc thể hiện trong quyết định cử người
đại diện của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc xác lập đại diện này
thường không phụ thuộc vào ý chí của người được đại diện. Khoản 1 Điều
144 BLDS quy định: “Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực
hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”. Như vậy pháp luật cho phép người đại diện
theo pháp luật có quyền chủ động tối đa trong việc lựa chọn, xác lập và thực
hiện các giao dịch liên quan đến người được đại diện nhưng phải xuất phát
vì lợi ích của người được đại diện.
- Trong trường hợp đại diện cho người bị hạn chế NLHVDS có một số nét
đặc biệt riêng. Chính người bị hạn chế NLHVDS vẫn trực tiếp tham gia giao
kết hợp đồng, nhưng với sự chấp thuận của người đại diện. Người đại diện
9


chỉ đống vai trò giám sát, đồng ý hay không đồng ý cho việc xác lập giao
dịch. Nếu giao dịch đó không làm ảnh hưởng đến lợi ích của chính người đại
diện, của những người thân thích trong gia đình của người bị hạn chế
NLHVDS thì người đại diện cho phép người bị hạn chế NLHVDS xác lập,
thực hiện giao dịch.
* Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền.
- Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa
người được đại diện và người đại diện nên “phạm vi thẩm quyền đại diện
theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền” ( Khoản 2 Điều 144 BLDS
2005) và phụ thuộc vào ý chí của hai bên: bên đại diện và bên được đại diện.
So với phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật thì phạm vi
thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền bị hạn chế hơn bởi “người đại
diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” (Khoản 3

Điều 144 BLDS 2005). Phạm vi của người đại diện theo ủy quyền được xác
định trong văn bản ủy quyền và người đại diện theo ủy quyền chỉ được thực
hiện phạm vi pháp lý trong khuôn khổ văn bản ủy quyền quy định.
- Để bảo vệ lợi ích chính đáng cho người thứ ba, là người xác lập GDDS với
người đại diện, pháp luật quy định “Người đại diện phải thông báo cho
người thứ ba trong giao dịch dân sự về phạm vi đại diện của mình” (Khoản
4 Điều 144 BLDS 2005). Việc có một thông báo rõ ràng về việc đại diện
cũng như phạm vi đại diện sẽ tránh được những rắc rối về sau trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Thông báo rõ ràng, đầy đủ về có đại diện trong
giao kết là hành lang pháp lý an toàn cho người đại diện cũng như người uỷ
quyền. Ngoài ra pháp luật còn quy định “ Người đại diện không được xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba
mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác” (Khoản 5 Điều 144 BLDS 2005). Quy định này nhằm ngăn
10


ngừa và loại trừ những GDDS được xác lập , thực hiện có thể đem lại hậu
quả bất lợi cho người được đại diện đồng thời làm cho người đại diện không
còn cơ hội thự“lộng quyền”, lạm dụng vị trí để trục lợi.
*Trường hợp không có thẩm quyền đại diện và hậu quả giao dịch do
người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện.
Theo quy định tại Điều 145 BLDS 2005 thì:
- Khi giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
không làm phát sinh, quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ
trường hợp người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý. Người giao
dịch với người không có quyền đại diện phải thông báo cho người được đại
diện hoặc người đại diện của người đó để trả lời trong thời hạn ấn định; nếu
hết thời hạn này mà không trả lời thì giao dịch đó không làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, nhưng người không có quyền

đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình,
trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có
quyền đại diện.
- Trách nhiệm cho người đã giao dịch với người không có quyền đại diện đó
là: Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu
cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc
không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.
*Trường hợp vượt quá thẩm quyền đại diện và hậu quả giao dịch do
người vượt quá thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện.
Điều 146 BLDS 2005 quy định:
- Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại
diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với
phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp
11


người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối; nếu không được
đồng ý thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch
với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện.
So với khoản 1 Điều 155 BLDS 1995, quy định này có một số sửa đổi bổ
sung đó là: Thay cụm từ : “vượt quá thẩm quyền đại diện” bằng cụm từ
“vượt quá phạm vi đại diện” và bổ sung thêm cụm từ “đối với phần giao
dịch thực hiện quá phạm vi đại diện” mà Điều 155 BLDS 1995 không có.
Theo Điều 153 BLDS 1995 và Điều 144 BLDS 2005 thì thẩm quyền đại
diện (hay quyền đại diện) là thẩm quyền (hay quyền) xác lập thực hiện các
giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện. Chỉ đối với đại diện theo
uỷ quyền thì người đại diện mới phải thực hiện quyền đại diện trong phạm vi
được uỷ quyền, nên dùng cụm từ vượt quá phạm vi được uỷ quyền là chính
xác.

- Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại
diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại trừ
trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện
mà vẫn giao dịch.
Trong trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý
xác lập thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện và gây thiệt hại
cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt
hại.
Ví dụ: A là giám đốc do phải đi công tác nước ngoài nên uỷ quyền cho B một
phó giám ký kết hợp đồng với một công ty Nhật Bản. Trong giấy uỷ quyền
ghi rõ B ký kết mua 10 tấn vải lụa của công ty phía hàn quốc. Khi tiến hành
đàm phán ký kết B đã xuất trình giấy uỷ quyền cho phía bên đối tác kiểm
tra. Hai bên thoả thuận mua bán 20 tấn vải lụa. Hợp đồng được ký và hai bên
12


đã giao nhận hàng và tién hành thanh toán. A về nước mới vỡ lẽ là B đã mua
20 tấn vải nên xin tuyên bố hợp đồng vô hiệu và yêu cầu bên công ty hàn
quốc

nhận

lại

số

hàng




B



vượt

quá

thầm

quyền.

Trong ví dụ trên ta thấy rõ ràng B đã hành động vượt quá phạm vi thẩm
quyền của mình (chỉ được kí kết hợp đồng mua 10 tấn vải lụa), phía đối tác
Nhật Bản khi xem giấy uỷ quyền phải biết rõ về việc này hoặc buộc phải
biết thẩm quyền kí hợp đồng mua hàng của B cho nên phần nằm ngoài phạm
vi uỷ quyền mà A uỷ quyền cho B không có hiệu lực ràng buộc đối với A.

IV. Chấm dứt đại diện
Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác, quan hệ đại diện không
tồn tại mãi mãi mà nó sẽ chấm dứt khi xảy ra những sự kiện pháp lý nhất
định. Khi chấm dựt đại diện, mọi hậu quả pháp lý phát sinh từ GDDS do
người đại diện xác lập, thực hiện đều không có giá trị pháp lý đối với người
được đại diện.
a. Đối với cá nhân.
* Đại diện theo pháp luật của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau
( khoản 1 Điều 147 BLDS 2005):
- Người được đại diện đã thành niên hoặc NLHVDS đã khôi phục. Trong
trường hợp này người đại diện đã đầy đủ NLHVDS để tự mình thực hiện

quyền, nghĩa vụ và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, quan hệ đại diện
không cần phải tiếp tục tồn tại.
- Người đại diện hoặc người được đại diện chết làm chấm dứt tư cách chủ
thể mọi quan hệ pháp luật của họ, trong đó có quan hệ đại diện.
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
* Đại diện theo ủy quyền của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau
( khoản 2 Điều 156 BLDS 2005) :
- Thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành.
13


- Người ủy quyền hủy bỏ việc ủy ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ
chối việc ủy quyền . Trong trường hợp này quan hệ ủy quyền chấm dứt theo
ý chí của các chủ thể khi xuất hiện điều kiện để họ hủy hoặc từ chối việc ủy
quyền.
- Người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất
NLHVDS, bị hạn chế NLHVDS, bị Tòa án tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố
chết. Mỗi sự kiện trong số các sự kiện này đều làm cho việc ủy quyền trở
nên không thể thực hiện được, quan hệ đại diện phải chấm dứt.
Ví dụ: A uỷ quyền cho B tới đàm phán và ký kết hợp đồng về việc
mua bán nhà của C. Khi B và C đang đàm phán và chuẩn bị ký hợp đồng thì
đột nhiên A chết do tai lạn giao thông. Ta thấy khi A chết thì hợp đồng uỷ
quyền giữa A và B đương nhiên chấm dứt, nên cũng sẽ không có hợp đồng
nào được giao kết giữa A và C . Ở đây khi mà A chết thì B giao kết hợp đồng
mua bán nhà với C sẽ chỉ có hiệu lực đối với B mà thôi.
Ngoài ra, xuất phát từ đặc điểm của đại diện theo ủy quyền là người
xác lập, thực hiện GDDS vì lợi ích của người được đại diện, đem lại hậu quả
pháp lý cho người được đại diện nên khoản 2 Điều 147 BLDS còn quy định
khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, người đại diện phải thanh toán các
nghĩa vụ với người được đại diện hoặc với người thừa kế của người này.

b. Đối với pháp nhân.
* Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau
( khoản 1 Điều 148 BLDS 2005) :
- Hợp nhất pháp nhân, sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân, giải thể pháp
nhân, pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
Pháp nhân chấm dứt đồng thời làm chấm dứt đại diện theo pháp luật của
pháp nhân.
* Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau
14


( khoản 2 Điều 148 BLDS 2005) :
- Khi hết hạn ủy quyền hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành.
- Khi người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hủy bỏ việc ủy quyền
hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền.
- Khi pháp nhân chấm dứt hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên
bố mất NLHVDS, bị hạn chế NLHVDS, mất tích hoặc là đã chết.
- Khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, nguời đại diện phải thanh toán xong
các nghĩa vụ tài sản với pháp nhân ủy quyền hoặc pháp nhân kế thừa.

V. Ý nghĩa của đại diện trong quan hệ pháp luật dân sự
Trong đời sống hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội và
các mối giao lưu dân sự, quan hệ đại diện được xác lập ngày càng nhiều. Bởi
vậy chế định đại diện có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn quan hệ pháp luật
dân sự.
Các chủ thể trong quan hệ pháp luật đại diện cũng cần tới cơ sở pháp
lý của chế định này để xác lập quan hệ đại diện hợp pháp và qua đó thực
hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự với ý thức pháp luật cao hơn.
- Đối với cá nhân ngoài những người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ có thể tham gia vào giao dịch dân sự theo Điều 122 BLDS 2005 thì còn

có nhiều những đối tượng khác: người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi, những người có năng lực hành vi
đầy đủ nhưng gặp hoàn cảnh bất lợi nào đó. Đối với nững người này họ cũng
có nhu cầu rất lớn tham gia vào đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, thông qua
các giao dịch dân sự. Nhưng những hạn chế về mặt nhận thức, hoặc hoàn
cảnh (người có năng lực hành vi đầy đủ nhưng gặp bất lợi về hoàn cảnh ), đã
cản trở họ khiến họ không thể tự mình xác lập được các giao dịch, chế định

15


đại diện được đặt ra lúc này để giúp đỡ các cá nhân này tiến hành xác lập
các giao dịch theo mong muốn hoặc lợi ích cá nhân của họ.
- Đối với pháp nhân, tổ hợp tác hộ gia đình là những chủ thể quan
trọng của sự phát triển kinh tế xã hội, văn hóa , đang trên đà phát triển mạnh
mẽ như hiện nay. Việc tham gia vào các giao dịch dân sự của các chủ thể này
ngày một đa dạng và phong phú hơn. Tuy nhiên, những chủ thể này là tập
hợp gồm rất nhiều những cá nhân khác nhau, trong khi một giao dịch không
thể xác lập thông qua tất cả mọi cá nhân. Hơn nữa pháp nhân, tổ hợp tác và
hộ gia đình có thể cùng lúc xác lập nhiều giao dịch, hoặc ở nhiều nơi khác
nhau, hoặc các giao dịch có mức độ khó khăn khác nhau mà bản thân nó
không thể tự giải quyết hết được, chế định đại diện đặt ra nhằm giúp các chủ
thế này có thể xác lập giao dịch như ý muốn.
Đại diện được coi là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các giao dịch dân sự
phát triển an toàn và hiệu quả trong dòng chảy của các lưu thông dân sự
ngày càng phát triển phong phú và đa dạng như hiện nay.
Chế định đại diện còn là công cụ pháp lý hữu hiệu để nhà nước quản
lý quan hệ đại diện theo một hệ thống thống nhất.
Vì thế việc đặt ra chế định đại diện trong luật dân sự là một xu thế tất
yếu, phù hợp với sự phát triển của cuộc sống.


16


KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên ta thấy đại diện là phương tiện pháp lí cần
thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của QHDS,
bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào GDDS một cách thuận
lợi nhất, bảo đảm thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà
chủ thể quan tâm. Mặc dù pháp luật cho phép mọi cá nhân khi sinh ra đều có
khả năng hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ do nhà nước quy đinh, tuy
nhiên do những nguyên nhân khách quan, họ không có khả năng biến quyền
năng này thành hiện thực thì đại diện sẽ là một trong những giải pháp giúp
họ vẫn được hưởng mọi lợi ích từ các giao dịch thông qua người đại diện
của mình. Trong đời sống pháp luật dân sự với giao lưu dân sự rất phong
phú và đa dạng thì đại diện được coi như là một công cụ hỗ trợ cho các giao
lưu này ngày càng phát triển an toàn và hiệu quả. Chế định đại diện không
những thỏa mãn quyền , lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể mà còn là công cụ
pháp lí hữu hiệu để nhà nước kiểm soát quan hệ đại diện theo một trật tự ổn
định.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật dấn sự Việt Nam tập 1 – Trường đại học luật Hà Nội.
Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2012.
2. Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005
3. Hướng dẫn môn học luật dân sự - Học phần 1 – Ts Phạm Văn Tuyết
và Ts Lê Kim Giang. Nhà xuất bản lao động 2013.

4. Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về đại diện. Một số vấn đề lí luận và
thực tiến. Tác giả: Lê Thị Minh
5. Lê Đình Nghị (chủ biên). Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1.
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2009.

18


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Khái niệm, đặc điểm của đại diện
1. Khái niệm
2. Đặc điểm
II. Phân loại đại diện
1. Đại diện theo pháp luật
a. Khái niệm và đặc điểm
b. Các chủ thể trong quan hệ đại diện theo pháp luật

Trang
1
1
1
2
3
4
4
4
5


c. Các căn cứ để nhận biết các quan hệ đại diện theo pháp luật tồn

6

tại
2. Đại diện theo ủy quyền
a. Khái niệm và đặc điểm
b. Các chủ thể trong quan hệ đại diện theo ủy quyền

6
7
7

c. Căn cứ pháp lý để nhận biết quan hệ ủy quyền

8

III. Phạm vi thẩm quyền đại diện
IV. Chấm dứt đại diện

V. Ý nghĩa của đại diện trong quan hệ pháp luật dân sự

8
13
15

C. KẾT LUẬN

17


19



×