Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân biệt đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế với đối tượng đièu chỉnh của các ngành luật, hệ thống pháp luật có liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.72 KB, 5 trang )

Phân biệt đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế với đối tượng đièu
chỉnh của các ngành luật, hệ thống pháp luật có liên quan:
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói chung và của các ngành luật nói
riêng đều là các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên không
phải quan hệ xã hội nào cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc
tế, của Luật dân sự và của Công pháp quốc tế.
- Sự khác nhau giữa đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế và Luật dân
sự:
+ Khác nhau về phạm vi các quan hệ xã hội do hai ngành luật này điều
chỉnh: Tư pháp quốc tế không những điều chỉnh các quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản thuộc lĩnh vực dân sự (như quan hệ mua bán, thuê mướn, gửi
giữ hàng hoá, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân, tổ chức…) mà còn điều
chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế và tố tụng dân sự.
+ Các quan hệ dân sự do Tư pháp quốc tế điều chỉnh là quan hệ nhân thân
và quan hệ tài sản có yếu tố nước ngoài.
- Sự khác nhau giữa đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế và đối
tượng điều chỉnh của Công pháp quốc tế được biểu hiện ở tính chất các quan
hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của chúng. Tư pháp quốc tế chỉ điều
chỉnh các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài; Công pháp
quốc tế chỉ điều chỉnh các quan hệ chính trị và các quan hệ có liên quan đến
chính trị được phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Công
pháp quốc tế.
Từ những phân tích trên đây, có thể khẳng định đối tượng điều chỉnh của
tư pháp quốc tế mang tính độc lập, riêng biệt so với đối tượng điều chỉnh của
các ngành luật khác. Đây là một tiêu chí (cùng với phương pháp điều chỉnh
riêng biệt) để có thể khẳng định Tư pháp quốc tế là một hệ thống pháp luật
độc lập.


1.2. Phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
1.2.1. Định nghĩa: Phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là tổng hợp


các biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các quan hệ
dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài (gọi là quan hệ Tư pháp quốc
tế) làm cho các quan hệ này phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp thống
trị.
Các biện pháp cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các quan hệ
Tư pháp quốc tế được biểu hiện ở hai phương pháp cụ thể là (gọi là phương
pháp điều chỉnh trực tiếp và phương pháp điều chỉnh gián tiếp).
1.2.2. Phương pháp điều chỉnh trực tiếp (còn gọi là phương pháp thực chất):
là phương pháp sử dụng các quy phạm pháp luật thực chất để tác động trực
tiếp lên quan hệ Tư pháp quốc tế.
Sự tác động của nhà nước lên quan hệ Tư pháp quốc tế được thực hiện thông
qua quy phạm thực chất. Quy phạm thực chất là quy phạm quy định sẵn các
quyền, nghĩa vụ, biện pháp chế tài đối với các chủ thể tham gia quan hệ Tư
pháp quốc tế. Khi quan hệ Tư pháp quốc tế xảy ra, nếu có sẵn quy phạm thực
chất để áp dụng thì các bên chủ thể cũng như cơ quan có thẩm quyền (toà án,
trọng tài…) căn cứ ngay vào đó để xác định vấn đề họ đang quan tâm (chẳng
hạn: việc xác định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ, trách nhiệm
pháp lý…).
Trong thực tiễn, việc điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế được áp
dụng bởi các quy phạm thực chất thống nhất (là quy phạm thực chất được
xây dựng bằng cách các quốc gia ký kết, tham gia các Điều ước quốc tế hoặc
chấp nhận và sử dụng các Tập quán quốc tế). Tuy nhiên, trong một số lĩnh
vực nhất định, như xác định địa vị pháp lý của người nước ngoài, điều chỉnh
quan hệ về sở hữu trí tuệ có yếu tố nước ngoài, các quốc gia cũng ban hành
trong hệ thống pháp luật nước mình những quy phạm pháp luật thực chất,


trực tiếp điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực này.
- Tính ưu việt của việc áp dụng phương pháp điều chỉnh này: làm cho mối
quan hệ Tư pháp quốc tế được điều chỉnh nhanh chóng, các vấn đề cần quan

tâm được xác định ngay, các chủ thể của quan hệ đó và các cơ quan có thẩm
quyền khi giải quyết tranh chấp sẽ tiết kiệm được thời gian, tránh được việc
phải tìm hiểu pháp luật nước ngoài là vấn đề rất phức tạp.
- Mặt hạn chế của phương pháp này: do quy phạm thực chất thống nhất có số
lượng không nhiều (vì mỗi nước có những lợi ích khác nhau nên khó cùng
nhau thoả thuận ký kết hoặc tham gia các Điều ước quốc tế, hoặc cùng sử
dụng các Tập quán quốc tế; một số lĩnh vực hiện nay hầu như rất ít quy phạm
thực chất thống nhất, như lĩnh vực thừa kế, hôn nhân và gia đình...), không
đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh hết quan hệ Tư pháp quốc tế diễn ra rất đa
dạng, phức tạp. Bởi vậy, khi không có quy phạm thực chất thống nhất thì
phải có phương pháp khác để điều chỉnh quan hệ Tư pháp quốc tế.
1.2.2. Phương pháp điều chỉnh gián tiếp (còn gọi là phương pháp xung đột):
là phương pháp sử dụng quy phạm xung đột nhằm xác định hệ thống pháp
luật nào sẽ được áp dụng trong việc điều chỉnh quan hệ Tư pháp quốc tế cụ
thể đang xem xét.
- Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật không quy định sẵn quyền,
nghĩa vụ, các biện pháp chế tài đối với các chủ thể tham gia quan hệ Tư pháp
quốc tế mà nó chỉ có vai trò xác định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp
dụng. Quy phạm xung đột được xây dựng bằng cách các quốc gia tự ban
hành trong hệ thống pháp luật của nước mình (gọi là quy phạm xung đột nội
địa), ngoài ra nó còn được xây dựng bằng cách các quốc gia thoả thuận ký
kết các Điều ước quốc tế (gọi là quy phạm xung đột thống nhất).
- Tính chất phức tạp của phương pháp điều chỉnh này thể hiện: do phải thông
qua khâu trung gian “chọn luật” áp dụng nên việc điều chỉnh quan hệ Tư


pháp quốc tế mất nhiều thời gian. Nhiều trường hợp quy phạm xung đột dẫn
chiếu đến pháp luật nước ngoài, việc tìm hiểu nội dung pháp luật nước ngoài
là rất khó khăn đối với các bên đương sự và cơ quan có thẩm quyền vì do các
nước có các điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội khác nhau nên việc xây dựng

pháp luật cũng có những điểm khác nhau như đã trình bày.
- Tuy nhiên, do việc xây dựng quy phạm thực chất thống nhất rất phức tạp,
số lượng các quy phạm này không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh các
quan hệ Tư pháp quốc tế, trong khi đó số lượng các quy phạm xung đột lại
nhiều hơn và tham gia điều chỉnh hầu hết các quan hệ Tư pháp quốc tế; bởi
vậy phương pháp điều chỉnh trực tiếp là phương pháp chủ yếu hiện nay.
1.2.3. Phương pháp điều chỉnh gián tiếp là đặc trưng và cơ bản của Tư pháp
quốc tế vì những lý do sau đây:
- Đây là phương pháp điều chỉnh chỉ được áp dụng trong ngành luật Tư pháp
quốc tế mà không được áp dụng trong các ngành luật và hệ thống pháp luật
khác.
- Qua việc nghiên cứu các ngành luật khác cho thấy, không ngành luật nào áp
dụng phương pháp điều chỉnh này. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội của
các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam và ngay cả Luật quốc tế
thực hiện bằng cách sử dụng quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật
là nguồn của chúng, mà không cần phải thông qua khâu trung gian là “chọn
luật”.
- Trong thực tiễn Tư pháp quốc tế, do các quy phạm thực chất thống nhất có
số lượng ít, không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh các quan hệ Tư pháp
quốc tế phát sinh ngày càng đa dạng; trong khi đó quy phạm xung đột được
xây dựng một cách đơn giản hơn, nhanh hơn nên có số lượng nhiều hơn. Do
đó quy phạm xung đột đã điều chỉnh hầu hết các quan hệ Tư pháp quốc tế. Vì
vậy phương pháp điều chỉnh gián tiếp được coi là phương pháp cơ bản trong


giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, trong những giai đoạn tiếp theo, để tránh sự
phức tạp, các quốc gia trên thế giới sẽ cố gắng ký kết ngày càng nhiều Điều
ước quốc tế để từ đó xây dựng nên càng nhiều quy phạm thực chất thống
nhất, hoặc ít nhất là xây dựng nên các quy phạm xung đột thống nhất. Đây
chính là xu hướng phát triển tất yếu của Tư pháp quốc tế trong tương lai.

1.3. Định nghĩa về Tư pháp quốc tế.
Từ những điểm trình bày trên đây về đối tượng điều chỉnh và phương pháp
điều chỉnh của Tư pháp quốc tế, cho thấy vai trò của Tư pháp quốc tế rất
quan trọng trong quá trình giao lưu quốc tế hiện nay. Một mặt nó củng cố và
thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế và các thực thể
khác trong đời sống sinh hoạt quốc tế trên cơ sở phù hợp với những nguyên
tắc cơ bản của Luật quốc tế; mặt khác Tư pháp quốc tế cũng xác định và bảo
vệ lợi ích của các cá nhân, tổ chức và các chủ thể khác tham gia vào các mối
quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài. Sự kết hợp hai yếu tố
trên đây chúng tỏ sự cần thiết của việc không ngừng xây dựng và hoàn thiện
Tư pháp quốc tế trong các giai đoạn tiếp theo và cũng khẳng định Tư pháp
quốc tế có vị trí tương đối độc lập.
Cũng từ việc phân tích đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Tư pháp
quốc tế, có thể rít ra định nghĩa chung về Tư pháp quốc tế như sau:
" Tư pháp quốc tế là hệ thống những nguyên tắc và quy phạm pháp luật
được xây dựng bằng những cách thức khác nhau nhằm điều chỉnh quan hệ
dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài, góp phần thúc đẩy đời sống
sinh hoạt quốc tế và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể tham gia
quan hệ Tư pháp quốc tế".



×