Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thừa kế theo di chúc theo quy định trong bộ luật dân sự năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.44 KB, 22 trang )

1

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
MÔN

LUẬT DÂN SỰ (MODULE 1)
ĐỀ SỐ 16
“Thừa kế theo di chúc theo quy định trong
Bộ luật dân sự năm 2005”

HỌ VÀ TÊN : TRỊNH QUANG THÀNH
MSSV

:

372213

LỚP

:

3722

NHÓM

:


A2


Hà Nội – 2013
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................2
I. Khái quát chung về thừa kế theo di chúc............................................................3
1. Khái niệm di chúc và thừa kế theo di chúc........................................................3
3. Người thừa kế theo di chúc...............................................................................6
4. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc...............................7
5. Điều kiện có hiệu lực của di chúc.....................................................................8
6. Hiệu lực pháp luật của di chúc........................................................................11
7, Di sản dùng vào việc thờ cúng........................................................................12
8. Di tặng.............................................................................................................13
KẾT BÀI..............................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................21

LỜI MỞ ĐẦU
Thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt
Nam. Khi xã hội càng phát triển, các mối quan hệ kinh tế và xã hội cũng phát triển
đa dạng, nếu như trước đây vấn đề thừa kế được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo
đức, phong tục tập quán thì hiện nay đã chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các quy
phạm pháp luật về thừa kế. Theo thống kê của ngành tòa án trong những năm gần
đây số vụ việc tranh chấp về thừa kế luôn có số lượng lớn và phức tạp trong các
tranh chấp về dân sự, điều này là hoàn toàn bình thường trong giai đoạn quá độ
chuyển giao giữa hai thời kỳ cũ và mới như ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo em xét
trên khía cạnh pháp lý và xã hội, việc phát sinh nhiều và phức tạp các tranh chấp về
thừa kế trong những năm gần đây xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu, trong
đó đáng kể nhất là do nhận thức của người dân về pháp luật thừa kế còn hạn chế.
Cũng như nhận thức về pháp luật nói chung của người Việt Nam, nhận thức pháp

luật về thừa kế của người Việt còn nhiều hạn chế, người dân đã không nhận thấy
2


được vai trò của pháp luật là một nguyên nhân quan trọng của việc phát sinh những
tranh chấp về thừa kế. Xuất phát từ suy nghĩ đó, em quyết định lựa chọn đề bài số
16 : “Thừa kế theo di chúc theo quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005” làm đề
tài nghiên cứu trong bài tập lớn học kỳ của mình.

I. Khái quát chung về thừa kế theo di chúc
1. Khái niệm di chúc và thừa kế theo di chúc
Khái niệm di chúc được quy định tại điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005: “Di
chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết.”
Như vậy, di chúc phải có đủ ba yếu tố :
nào khác
-

Thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải của bất cứ chủ thể
Mục đích của viêc lập di chúc là chuyển di sản của mình cho

người khác
Di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người
khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện trong di
chúc. Nội dung cơ bản cuat hừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế và phân
định tài sản, quyền và nghĩa vụ tài sản.
2. Người lập di chúc
Tại điều 647 Bộ luật dân sự 2005 quy định về người lập di chúc:
1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó

bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di
chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3


Người lập di chúc có các quyền nhất định và được pháp luật quy định. Theo
Điều 648 BLDS, người lập di chúc có các quyền sau đây:
a.
Quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản
Quyền chỉ định người thừa kế là quyền tự lựa chọn và chỉ định xem ai
hoặc những ai được hưởng tài sản khi người lập di chúc chết. Thông thường, một
người bao giờ cũng mong muốn sau khi đã chết, tài sản của mình sẽ được dịch
chuyển cho những người gần gũi nhất. Ngay cả khi người để lại di sản không để lại
di chúc, tài sản của họ cũng được dịch chuyển cho những người thừa kế theo hàng,
thì đây cũng chỉ là sự phỏng đoán của pháp luật về ý chí của người để lại di sản,
nên về cơ bản là phù hợp với mong muốn của người để lại di sản.
Truất quyền hưởng di sản: Vì thừa kế theo pháp luật chỉ là sự dự liệu để
dịch chuyển tài sản khi không thể dịch chuyển theo ý chí của người để lại di sản,
nên có những người thừa kế dù đã đáp ứng được đầy đủ các điều kiện và có quyền
hưởng di sản theo pháp luật nhưng quyền hưởng di sản đó sẽ bị mất nếu họ bị
người để lại di sản truất quyền thừa kế. Tôn trọng ý chí của người để di sản, pháp
luật thừa kế của nước ta cho phép người lập di chúc phế truất quyền hưởng di sản
của một người thừa kế nào đó nếu muốn.
b. Quyền phân định di sản cho từng người thừa kế:
Khi người để lại tài sản lập di chúc đã xác định người hưởng di sản thì dù
không xác định mỗi người thừa kế được hưởng bao nhiêu di sản cũng đã bao hàm
cả việc phân chia tài sản. Tuy nhiên, theo luật định, người lập di chúc có quyền
phân chia một cách cụ thể cho người thừa kế nào hưởng phần di sản là bao nhiêu

hoặc hưởng phần di sản là hiện vật gì. Có 3 trường hợp:
- Phân định tổng quát
- Phân định theo tỷ lệ
- Phân định cụ thể
c. Quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
4


Di tặng là giao dịch tặng cho có hiệu lực sau khi người tặng cho chết (tặng
cho có điều kiện phát sinh hiệu lực). Người lập di chúc có quyền định đoạt một
phần di sản để di tặng cho người khác hưởng. Tương tự như giao dịch tặng cho,
người được chỉ định hưởng phần di sản di tặng thường là những người có mối quan
hệ thân quen trước đó, có quyền sở hữu đối với phần di sản di tặng kể từ khi nhận
di sản.
Thờ cúng là tập quán uống nước nhớ nguồn của nhân dân ta nhằm nhắc nhở
cháu con tưởng nhớ công ơn của người đ chết. Trường hợp ngươì lập di chúc có
dành một phần tài sản để làm di sản thờ cúng thì người được chỉ định trong di chúc
sẽ quản lý sử dụng, thu hoa lợi, lợi tức, một phần chi phí cho việc chăm lo phần mộ
của người chết, còn lại thực hiện việc thờ cúng cha, mẹ, ông bà và tổ tiên
d. Quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế:
Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế thực hiện
một công việc vì lợi ích vật chất của người khác mà đáng lẽ khi còn sống, người để
lại di sản phải thực hiện. Nghĩa vụ được xét đến ở đây là nghĩa vụ về tài sản, người
thừa kế không phải thực hiện những nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân của
người để lại di sản.
đ. Quyền chỉ định người giữ di chúc, quản lý di sản, phân chia di sản:
Người lập di chúc bao giờ cũng mong muốn di chúc của mình không bị
thất lạc hư hỏng, ý nguyện không bị người khác xâm phạm, di sản còn nguyên vẹn
đến lúc trao tài sản cho người thừa kế, di sản được chia theo đúng ý chí chủ quan
của người lập di chúc, vì dự liệu trước các nguyện vọng của người lập di chúc,

pháp luật trao cho người lập di chúc quyền chỉ định người giữ di chúc, quản lý di
sản, phân chia di sản:
e, Quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc:
Vì di chúc được lập ra là do ý chí, tình cảm chủ quan của người lập di
chúc nên nó có tính khả biến, nếu người lập di chúc có sự thay đổi ý chí thì việc
định đoạt trong di chúc sẽ bị thay đổi, pháp luật cho phép người lập di chúc có
5


quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc đã lập, và việc này tiến hành theo hình thức
nào cũng được, miễn là sự sửa đổi, bổ sung là ý chí tự nguyện, minh mẫn, hợp pháp
của người lập di chúc.
- Sửa đổi di chúc: là việc người lập di chúc bằng ý chí tự nguyện của
mình phủ nhận một phần di chúc đã lập, những phần di chúc còn lại vẫn có hiệu
lực pháp luật, phần bị sửa đổi sẽ không có hiệu lực mà thay vào đó, pháp luật
căn cứ vào ý chí thể hiện trong sự sửa đổi sau cùng.
- Bổ sung di chúc: là việc người lập di chúc quy định thêm một số vấn
đề mà trong di chúc đã lập chưa nói đến làm cho di chúc cụ thể, chi tiết hơn, cả
di chúc đã lập và phần bổ sung đều có hiệu lực như nhau, trường hợp có mâu
thuẫn thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
- Hủy bỏ di chúc: là người lập di chúc lại bằng ý chí tự nguyện của
mình truất bãi di chúc đã lập. Pháp luật chỉ xác định một trường hợp được coi là
hủy bỏ di chúc là khi người lập di chúc thay thế di chúc đã lập, tuy nhiên nếu di
chúc đã bị người đó đốt, xé, tiêu hủy hay tuyên bố trước mọi người về việc phế
truất di chúc thì cũng nên coi là việc hủy bỏ di chúc.
- Thay thế di chúc: Thay thế di chúc là việc lập di chúc khác thay thế di
chúc được lập. Việc thay thế di chúc có thể ghi rõ trong nội dung của di chúc
hoặc lập một di chúc khác có nội dung phủ định nội dung di chúc được lập. Nếu
một người lập nhiều di chúc cùng định đoạt một tài sản cho nhiều người khác
nhau, thì di chúc cuối cùng có giá trị, những di chúc trước đó được coi là đ bị

thay thế.
3. Người thừa kế theo di chúc
Sau khi mở thừa kế, nếu có di chúc và di chúc hợp pháp thì di sản được
chia cho người thừa kế. Người được chỉ định trong di chúc là người thừa kế theo di
chúc nếu họ có đủ năng lực hưởng di sản (không mất quyền hưởng di sản). Người
thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Trường hợp người thừa kế là cá
6


nhân, thì có thể là người trong hoặc ngoài diện thừa kế. Người thừa kế theo di chúc
được hưởng phần di sản chỉ định trong di chúc, ngoài ra có thể được hưởng phần di
sản chia theo pháp luật, nếu họ là người thừa kế theo pháp luật. Người được chỉ
định thừa kế là cá nhân thì phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Trường hợp
người được chỉ định trong di chúc chết trước thời điểm mở thừa kế, thì di chúc
không có hiệu lực, di sản được chia cho người thừa kế theo pháp luật.
Trường hợp di chúc chỉ định một thai nhi sẽ hưởng thừa kế sinh ra sau khi
mở thừa kế mà còn sống, thì cá nhân đó có được hưởng thừa kế theo di chúc hay
không. Vấn đề này được qui định trong thừa kế theo pháp luật nhưng không qui
định trong thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, trường hợp này áp dung tương tự pháp
luật để xác định thai nhi được chỉ định trong di chúc đ thành thai vào thời điểm mở
thừa kế hay chưa và nếu sinh ra sau thời điểm mở thừa kế mà còn sống thì sẽ được
hưởng thừa kế theo di chúc. Người thừa kế theo di chúc có thể là cơ quan, tổ chức
thì cơ quan, tổ chức được thành lập hợp pháp và còn tồn tại vào thời điểm mở thừa
kế. Người thừa kế theo di chúc có các nghĩa vụ được người lập di chúc giao cho và
các nghĩa vụ khác như người thừa kế theo pháp luật. Nếu người thừa kế theo pháp
luật được hưởng di sản theo di chúc và theo pháp luật, thì phải thực hiện nghĩa vụ
của người để lại di sản trong phạm vi toàn bộ di sản được hưởng.
4. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Theo nguyên tắc chung của luật dân sự, người lập di chúc có quyền quyết
định tối cao đối với tài sản của mình, tuy nhiên một số trường hợp pháp luật hạn

chế quyền định đoạt của người lập di chúc nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của
những người trong diện thừa kế là những người có quan hệ hôn nhân huyết thống
như bố, mẹ, vợ hoặc chồng…
Theo qui định của pháp luật, người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa
kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu
7


người lập di chúc không cho hoặc truất quyền hưởng di sản của một số người thân
thích thì họ được hưởng một phần di sản không phụ thuộc vào ý chí của người lập
di chúc. Phạm vi người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được qui
định tại Điều 669 BLDS được hưởng phần di sản bằng ít nhất 2/3 suất của một
người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật trừ trường hợp họ
từ chối hưởng di sản hoặc không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 642
hoặc khoản 1 Điều 643 BLDS. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc gồm:
- Cha, mẹ, vợ (chồng), con chưa thành niên;
- Con đã thành niên mất khả năng lao động.
5. Điều kiện có hiệu lực của di chúc
Một di chúc được coi là hợp pháp phải đáp ứng các yêu cầu của pháp luật được qui
định tại Điều 652 BLDS. Gồm các điều kiện sau đây
a) Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể
Người lập di chúc theo quy định tại Điều 647 Bộ luật dân sự phải là người từ
đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
có thể lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Người lập di chúc
minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc.
Để có sự rõ ràng, thống nhất trong cách hiểu của người dân, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cần phải có quy định cụ thể: Sự đồng ý hay không đồng ý của
cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với việc lập di chúc của người từ tròn mười lăm
tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được thể hiện trước khi di chúc được lập bằng

một văn bản riêng.
b) Người lập di chúc tự nguyện
Tự nguyện của người lập di chúc được hiểu là sự thống nhất giữa ý chí và sự
bày tỏ ý chí của họ. Sự thống nhất trên chính là sự thống nhất giữa mong muốn chủ
8


quan - mong muốn bên trong của người lập di chúc với hình thức thể hiện ra bên
ngoài sự mong muốn đó. Cụ thể, sẽ bị coi là không có sự thống nhất nói trên nếu di
chúc được lập ra trong những trường hợp sau:
- Di chúc được lập ra khi người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt
- Di chúc được lập ra dưới sự tác động của người khác
Di chúc sẽ bị coi là không có tính tự nguyện khi được lập trong những
trường hợp sau đây: Người lập di chúc bị đe dọa; Người lập di chúc bị lừa dối;
Người lập di chúc bị cưỡng ép.
c) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Việc lập di chúc có nội dung không trái pháp luật của một người mới chỉ là
việc họ thực hiện bổn phận của một công dân. Ngoài bổn phận công dân, họ còn
phải thực hiện bổn phận làm người. Đạo làm người đòi hỏi các cá nhân khi lập di
chúc phải luôn hướng tới phong tục tập quán truyền thống nhân bản và tinh thần
tương thân tương ái, đoàn kết trong cộng đồng gia đình cũng như trong cộng đồng
dân tộc. Vì vậy nếu nội dung di chúc có nội dung trái với đạo đức xã hội cũng sẽ bị
coi là không hợp pháp.
d) Hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật
Chỉ những di chúc lập ra đúng với hoàn cảnh mà pháp luật đã dự liệu cũng
như phù hợp với thủ tục, trình tự mà pháp luật đã quy định đối với từng loại di chúc
tương ứng thì di chúc đó mới được coi là đã thỏa mãn các điều kiện này. Hình thức
của di chúc gồm:
- Hình thức văn bản (văn tự) là chữ viết bằng tay hoặc đánh máy được thể
hiện trên một chất liệu nhất định, chất liệu này được nhà nước cho phép sử dụng và

thừa nhận như chất liệu giấy in, giấy viết. Ngoài ra, việc lập di chúc phải tuân theo
thủ tục do pháp luật qui định. Di chúc thể hiện dưới các dạng văn bản sau:
• Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (Điều 655 BLDS)
9


• Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (Điều 656 BLDS).
• Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND x, phường, thị trấn chứng
nhận của Công chứng nhà nước (Điều 657 BLDS).
Ngoài ra, pháp luật dự liệu các trường hợp người lập di chúc không thể đến
cơ quan công chứng hoặc UBND để chứng thực hoặc chứng nhận di chúc, thì
những người có thẩm quyền chứng nhận theo qui định tại Điều 660 BLDS có giá trị
pháp lý như di chúc có chứng thực, chứng nhận. Đối với các trường hợp sau thì thủ
tục lập di chúc tương tự như lập tại cơ quan công chứng, UBND. Bao gồm:


Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại
đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu Công chứng nhà nước chứng
nhận hoặc UBND x, phường thị trấn chứng thực;



Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ
huy phương tiện đó;



Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng
có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó;




Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng
rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị;



Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ
quan lãnh sự, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước đó.



Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người
đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
- Hình thức di chúc miệng.
10


Di chúc miệng sự thể hiện ý chí của lập di chúc bằng lời nói trước mặt người
khác. Để đảm bảo tính khách quan của di chúc, pháp luật qui định trình tự thủ tục
ghi lại nội dung của di chúc qu các bước sau:
+ Người lập di chúc ở trong tình trạng không thể lập được di chúc viết như
tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng hoặc không có điều kiên lập di chúc viết như tai
nạn, cán bộ chiến sĩ công an, quân đội làm nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm…
+ Người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng trước mặt ít nhất hai
người làm chứng .
+ Một người làm chứng ghi chép lại nội dung di chúc, sau đó hai người làm
chứng cùng ký vào bản chép nội dung di chúc.
+Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người lập di chúc tuyên bố ý chí, bản ghi

chép nội dung di chúc phải công chững hoặc chứng thực. Sau 3 tháng kể từ ngày
lập di chúc miệng nếu người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt và có điều
kiện lập di chúc bằng văn bản thì di chúc miệng không còn giá trị. Đây là trường
hợp tự động mất hiệu lực của di chúc không cần phải thông qua thủ tục pháp lý
nào.
6. Hiệu lực pháp luật của di chúc
Di chúc hợp pháp làm phát sinh qyền, nghĩa vụ của người thừa ké theo di
chúc nếu tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Trường hợp di chúc vi
phạm Điều 652BLDS thì vô hiệu, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
người được chỉ định trong di chúc. Trường hợp di chúc hợp pháp nhưng do yếu tố
khách quan hoặc chủ quan mà không thể thực hiện được việc chia di sản theo di
chúc thì gọi là di chúc không có giá trị, trường hợp này coi như không có di chúc.
- Di chúc có hiệu lực: Là di chúc hợp pháp, cho nên di sản được phân chia
theo di chúc. Người được chỉ định trong di chúc có quyền nhận hoặc từ chối nhận

11


phần di sản được xác định trong di chúc. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm
mở thừa kế.
- Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các
trường hợp sau đây:
+ Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc;
+ Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm
mở thừa kế.
+Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế
không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn
một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Thời điểm lập di
chúc và thời điểm mở thừa kế là một thơi hạn nhất định.

+ Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực
của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật. Di chúc có thể vô
hiệu toàn bộ hoặc vô htệu một phần.
+ Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di
chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.
+Trong trường hợp vợ, chồng cùng lập di chúc chung mà có một người chết
trước, thì phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung
chưa có hiệu lực pháp luật. Sau khi cả hai vợ chồng đều chết thì di chúc chung mới
có hiệu lực(Điều 668 BLDS).
7, Di sản dùng vào việc thờ cúng.
Hiểu một cách tổng quát thì: “Thờ cúng là việc thực hiện một lễ nghi nhất
định để tôn kính thần thánh, vật thiêng hoặc linh hồn người chết”.
Xét về phương diện đạo đức và xã hội thì cơ sở để pháp luật thừa kế quy
định về di sản thờ cúng là sự biết ơn sinh thành, dưỡng dục, là sự tưởng nhớ đến
12


công lao của ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Sự hiện diện và thành đạt của họ là kết quả
tích lũy, đúc kết của những người đã chết, “phúc hiền tại mạo, trằng gạo ngon
cơm”. Vì thế, người còn sống thể hiện lòng biết ơn, tôn kính qua việc chăm sóc
phần mộ, thực hiện cúng giỗ theo nghi thức, phong tục, tín ngưỡng đối với người
đã chết. Ngày giỗ có những đồ mã, có những nén hương, có đồ ăn thức uống để
tưởng niệm, để gợi nhớ tình cảm. Thực hiện những công việc đó, người tổ chức lẽ
giỗ phải dùng một “khoản”, “khoản” này được trích từ khối di sản mà người chết
để lại cùng với hoa lợi thu được từ phần di sản này dùng vào việc thờ cúng, chăm
sóc mồ mả và tu sửa nhà thờ.
Qua phân tích trên, rút ra được: Di sản thờ cúng là phần tài sản của người
chết để lại, được trích từ khối di sản thừa kế, nhằm dịch chuyển cho người quản lý
di sản dùng vào việc thờ cúng\
8. Di tặng

Người để lại di sản có quyền dành một phần trong số di sản để tặng cho
người khác thông qua việc thể hiện ý nguyện trong di chúc. Hiệu lực của việc di
tặng được xác định theo hiệu lực của di chúc. Người nhận tài sản di tặng được coi
là một bên trong hợp đồng tặng cho nên họ được hưởng di sản mà không phải thực
hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, tuy nhiên BLDS cũng quy định:
“Trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập
di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ của người
này”.
Vì di tặng là hành vi pháp lý đơn phương nên không cần sự chấp nhận của
người được di tặng, di chúc vẫn được coi là hợp pháp, nó chỉ bị thất hiệu sau khi
người lập di chúc chết mà người được di tặng từ chối quyền thụ tặng. Đối tượng
của di tặng có thể là bất động sản hoặc động sản
13


II – Ưu điểm và hạn chế trong những quy định pháp luật về thừa kế
theo di chúc
1. Ưu điểm
Chương XXIII BLDS 2005 gồm 28 điều luật, trong đó có 7 điều luật được
sửa đổi, bổ sung. Ngoài những sửa đổi mang tính kỹ thuật tại khoản 3 Điều 650 và
Điều 657, thì 5 điểm mới còn lại đều có những thay đổi cơ bản về mặt nội dung.
 Sửa đổi qui định về quyền của người lập di chúc
Khoản 4 Điều 648 BLDS 2005 qui định về quyền của người lập di chúc cơ
bản vẫn giữ nội dung gần giống như Luật cũ, nhưng bỏ đi cụm từ “trong phạm vi di
sản”. Qui định này sẽ có tác động tiêu cực đến việc người lập di chúc định đoạt di
sản có kèm theo món nợ. Nếu người thừa kế tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nhiều
hơn phần di sản mà mình được hưởng thì không có gì đáng nói, nhưng để cho
người lập di chúc toàn quyền ấn định nghĩa vụ tài sản cho những người thừa kế để
buộc họ phải thực hiện tất cả các món nợ do người chết để lại, thì thật là bất công,
trong khi Điều 642 BLDS 2005 lại không cho phép người thừa kế được quyền từ

chối nhận di sản sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế. Chẳng may người thừa kế
không có điều kiện để biết nội dung di chúc hoặc không thể thực hiện quyền từ
chối đúng thủ tục và trong thời hạn qui định, thì chắc chắn họ phải thực hiện toàn
bộ nghĩa vụ do người chết để lại, cho dù nghĩa vụ đó có thể lớn hơn di sản mà
người chết để lại rất nhiều, hoặc ngay cả khi họ không được hưởng di sản. Qui định
này tạo ra sự bất công và xâm phạm quyền lợi chính đáng của người thừa kế, nhất
là với con, cháu chưa thành niên hoặc những người thừa kế không có khả năng kinh
tế. Pháp lệnh Thừa kế và BLDS 1995 đã rất thành công trong việc xóa bỏ tục lệ lạc
hậu phong kiến “phụ trái, tử hoàn”4(4). Thiết nghĩ luật không nên buộc người thừa
kế phải thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại vượt quá phần di sản mà họ được
nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận.
 Sửa đổi và bổ sung qui định về di chúc miệng
14


Khoản 1 Điều 651 BLDS 2005 bỏ đoạn cuối trong khoản 1 của Điều 654 và
nội dung này được chuyển thành khoản 5 của Điều 652 BLDS 2005. Sự sửa đổi
này không làm thay đổi nội dung mà chỉ có tác dụng làm cho Điều luật tinh gọn.
Khoản 2 của Điều 651 bổ sung thêm hai từ “mặc nhiên”, làm cho Điều luật
trở nên rõ nghĩa hơn. Theo Luật cũ, di chúc miệng cũng được coi là bị hủy bỏ sau 6
tháng kể từ ngày lập mà người di chúc vẫn còn khỏe mạnh, minh mẫn, sáng suốt,
nhưng không qui định thủ tục để hủy bỏ và ai có quyền tuyên bố hủy bỏ di chúc
miệng. Bổ sung thêm hai từ “mặc nhiên” nhằm xác định rõ phạm vi áp dụng của
Điều luật, tránh làm cho Điều luật được hiểu theo nhiều nghĩa và áp dụng không
thống nhất..
 Bổ sung qui định về điều kiện để công nhận di chúc hợp pháp
Điều 652 BLDS 2005 có một bổ sung rất quan trọng: “Trong thời hạn năm
ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải
được công chứng hoặc chứng thực”. Theo đó, nhà làm luật đã qui định thêm về thời
hạn xác định và thủ tục để lập bản ghi chép nội dung di chúc miệng.

Pháp lệnh Thừa kế 1990 thừa nhận giá trị của di chúc miệng nhưng không
qui định thủ tục ghi chép lại di chúc miệng. Khi tranh tụng tại tòa án, hầu hết các di
chúc miệng đều bị tòa án bác bỏ vì không có cơ sở để tin cậy nếu chỉ dựa vào lời
khai đơn phương của một bên nhân chứng hoặc khi các nhân chứng có lời khai mâu
thuẫn. Khắc phục bất cập này, BLDS 1995 qui định về thủ tục lập nội dung di chúc
miệng là: những người làm chứng “phải ghi chép lại bằng văn bản ngay sau đó”.
Nhưng “ngay sau đó” là bao lâu thì không thể xác định được, nên thực tế có nhiều
người làm chứng đã để rất lâu sau mới chịu lập văn bản ghi nội dung di chúc
miệng. Điều này đã gây ra khó khăn cho tòa án trong việc thẩm định giá trị của di
chúc miệng và muốn bác bỏ nó thì cũng thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng.
Luật mới xác định chính xác khoảng thời gian mà người làm chứng phải viết
lại nội dung di chúc miệng là “5 ngày, sau khi người di chúc miệng thể ý chí sau
15


cùng”. Với thủ tục chặt chẽ này, hy vọng việc lập di chúc miệng sẽ đi vào qui củ
hơn, bảo đảm độ chính xác và tin cậy cao hơn, ngăn ngừa sự thể hiện ý chí chủ
quan của người làm chứng, tăng cường trách nhiệm của người làm chứng di chúc.
Qui định này cũng thể hiện quyết tâm của nhà lập pháp nhằm loại bỏ khả năng
người làm chứng có thể tự ý sửa chữa, viết lại nhiều lần hay đánh tráo văn bản ghi
nội dung di chúc miệng.
 Sửa đổi qui định về hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng
Điều 671 BLDS 1995 qui định: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc
chung mà có người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của
người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thỏa thuận
trong di chúc chung về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người
sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ
thời điểm đó”. Qui định này tỏ ra phiền toái vì vấn đề thỏa thuận như vậy rất ít gặp
trên thực tế và nếu các bên không thỏa thuận thì sẽ dẫn tới một điều bất hợp lý là
tuy là di chúc được lập chung, nhưng di sản của từng người để lại sẽ được chia

riêng. Điều đó gây khó khăn cho việc thi hành di chúc vì chỉ có một giao dịch,
nhưng có đến hai thời điểm có hiệu lực khác nhau. Cũng vì thế mà nguyên tắc
“củng cố tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình” sẽ không thể thực hiện được.
Khắc phục nhược điểm này, Điều 668 BLDS 2005 qui định: “Di chúc chung của
vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc thời điểm vợ, chồng
cùng chết”. Qui định này tỏ ra hợp lý hơn so với qui định tương ứng trong BLDS
1995, vì một di chúc chỉ có thể có một thời điểm có hiệu lực.
Tuy vậy, qui định này, tự thân nó, cũng còn vẫn chứa đựng nhiều bất cập.
Liệu một di chúc chung của vợ, chồng có còn duy trì hiệu lực hay không, nếu vợ
chồng được tòa án cho ly hôn hoặc được tòa án cho phép chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, sau thời điểm di chúc chung được lập?. Mặt khác, qui định này
đã xâm phạm đến quyền thừa kế hợp pháp của người thừa kế theo pháp luật và
16


người thừa kế bắt buộc của người vợ hoặc chồng chết trước và làm ảnh hưởng tới
thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Theo đó, nhiều câu hỏi phức tạp đặt ra mà không dễ
tìm lời giải đáp: người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng chết trước có
được khởi kiện để chia thừa kế của người chết hay không? Nếu thời hiệu khởi kiện
thừa kế (10 năm) đã hết, nhưng di chúc vẫn chưa có hiệu lực pháp luật (vì người vợ
hay người chồng còn lại vẫn còn sống) thì người thừa kế của người chết trước có
được quyền khởi kiện nữa không? Nếu di sản hư hỏng hay giảm sút giá trị thì ai
chịu trách nhiệm?…
Thiết nghĩ nhà làm luật nên giải thích rõ thêm vấn đề này để việc nhận thức
và áp dụng pháp luật được thống nhất.
 Sửa đổi qui định về công bố di chúc
Khoản 3 Điều 672 BLDS 2005 bỏ đoạn “bản sao di chúc phải có chứng nhận
của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi mở thừa kế”. Phù hợp với thực trạng pháp luật công chứng, chứng thực
hiện nay (do quá tải trong hoạt động công chứng và pháp luật không bắt buộc mọi

bản sao đều phải có công chứng), luật không bắt buộc phải công chứng, chứng thực
bản sao tờ di chúc. Qui định này tỏ ra thông thoáng, thể hiện tính thực tiễn cao, làm
cho Điều luật mang tính khả thi hơn, tạo điều thuận lợi hơn cho việc công bố di
chúc mà vẫn bảo đảm sự minh bạch vì tại khoản 4 của Điều luật đã qui định quyền
được đối chiếu bản sao di chúc với bản gốc của nó.
2. Hạn chế
 Về năng lực của người lập di chúc
Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản muốn chuyển một phần hoặc
toàn bộ tài sản của mình sau khi chết cho người nào đó. Để đảm bảo tính khách
quan của di chúc thì yêu cầu đặt ra với người lập di chúc là tinh thần phải minh
mẫn, còn việc người lập di chúc thể hiện ý chí bằng phương thức nào do người lập
di chúc lựa chọn một trong các hình thức do luật định (văn bản viết tay, có chúng
17


thực…). Pháp luật không nên qui định về tình trạng thể chất của người lập di chúc,
bởi lẽ trong thực tế khi con người đến tuổi già hoặc gặp hoạn nạn có thể dẫn đến
cái chết như bị tai nạn, ốm đau lâu ngày… khi đó họ sẽ lập di chúc phân chia tài
sản của mình để tránh xảy ra tranh chấp sau này. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 652
BLDS qui định người bị hạn chế về thể chất khi lập di chúc phải có người làm
chứng và di chúc phải công chứng hoặc chứng thực.
Trường hợp này có thể xảy ra tình huống là một người ốm đau, sức khoẻ
yếu, tuy nhiên vẫn minh mẫn và tự mình lập di chúc viết tay nhưng không có
người làm chứng và không chứng thực thì di chúc vô hiệu. Qui định trên mâu
thuẫn với Điều 655 BLDS - Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì
người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc, trường hợp này di chúc
không công chứng, chứng thực vẫn có hiệu lực.
 Di chúc chung của vợ chồng
Điều 668 BLDS qui định di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời
điểm người sau cùng chết. Qui định này nhằm bảo vệ quyền lợi của người vợ hoặc

người chồng còn sống tiếp tục được khai thác sử dụng tài sản chung của vợ chồng
có hiệu quả. Tuy nhiên, qui định này có một số bất cập là nếu người vợ hoặc chồng
sống lâu hơn mười năm kể từ thời điểm người chồng hoặc vợ chết, thì thời hiệu về
thừa kế đã hết, cho nên theo nguyên tắc chung người thừa kế theo di chúc mất
quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản theo di chúc. Mặt khác, qui định trên hạn chế
quyền nhận di sản và quyền sử dụng tài sản của người thừa kế theo di chúc.
 Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Điều 669 BLDS khoản 1 qui định người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc là cha, mẹ, vợ, chồng, nếu họ không được người lập di chúc cho
hưởng di sản, thì sẽ được 2/3 của một suất thừa kế nếu di sản chia theo pháp luật.
18


Qui định này dựa trên nhiều cơ sở, trong đó quan hệ huyết thống và hôn nhân là
căn cứ quan trọng, trên cơ sở đó buộc người để lại di sản có nghĩa vụ chăm sóc về
vật chất đối với những người thân thích trên. Ngược lại, qui định tại khoản 1 Điều
669 hạn chế quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc. Trường hợp này người
lập di chúc không để lại cho những người trên hưởng di sản phải có lý do chính
đáng như họ là những người có tài sản đủ sinh sống.Vì vậy, trường hợp trên cần
xem xét khả năng kinh tế của cha, mẹ, vợ, chồng, nếu họ không có khả năng lao
động và không có điều kiện kinh tế, thì pháp luật cho phép họ hưởng một phần di
sản là hợp lý.
 Truất quyền hưởng di sản của người thừa kế
Khoản 1, Điều 651 của Bộ luật Dân sự (BLDS) quy định người lập di chúc
có quyền truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Việc truất quyền hưởng di
sản có thể được thực hiện thông qua hai hình thức:
- Truất trực tiếp: Người lập di chúc nêu rõ trong di chúc truất (không cho) một cá
nhân nhất định được quyền thừa kế di sản.
- Truất gián tiếp: Người lập di chúc khi định đoạt phần di sản không chỉ định một
cá nhân nhất định để nhận di sản.

Vấn đề đặt ra là: trong nhiều trường hợp, người lập di chúc không định đoạt
hết tài sản của mình, hoặc trường hợp trong số những người thừa kế theo di chúc có
người chết trước hoặc chết cùng người lập di chúc, hoặc trường hợp có người thừa
kế từ chối nhận di sản. Khi này, những người bị truất quyền hưởng di sản có được
thừa kế phần tài sản cha được định đoạt hay không?
Nếu người thừa kế bị truất trực tiếp thì trong mọi trường hợp họ đều không
được quyền nhận di sản; nếu bị truất gián tiếp thì những người thừa kế đó cũng
được hưởng thừa kế như những người thừa kế theo pháp luật khác đối với những di
sản được chia theo pháp luật.
19


 Giao nghĩa vụ cho người thừa kế
Khoản 4, Điều 651 của BLDS quy định người lập di chúc có quyền “giao
nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản”
Nhà làm luật ở đây chỉ dự liệu trường hợp người lập di chúc giao nghĩa vụ về
tài sản cho người thừa kế, cha dự liệu trường hợp người lập di chúc giao nghĩa vụ
về “nhân thân” cho người thừa kế. Với quy định của pháp luật nh vậy, vô hình
trung khi người lập di chúc giao nghĩa vụ về “nhân thân” cho người thừa kế thì
những người này không nhất thiết phải thực hiện, kể cả trong trường hợp các nghĩa
vụ đó được coi như là những điều kiện để người thừa kế được chỉ định trong di
chúc nhận di sản.
Người lập di chúc vẫn có thể giao nghĩa vụ về tinh thần cho người thừa kế và
người thừa kế phải thực hiện, nếu nghĩa vụ đó không trái pháp luật và đạo đức xã
hội. Hơn nữa, việc quy định nh Khoản 4, Điều 651 là “thừa” vì tại Điều 640 đã quy
định người thừa kế nhận di sản chỉ phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết
để lại trong phạm vi di sản.
 Di chúc miệng
Điều 654 của BLDS quy định di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người

làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc
điểm chỉ.
Việc điều luật quy định người làm chứng có thể điểm chỉ là dự phòng những
người làm chứng không biết chữ. Tất nhiên, trong trường hợp này, những người
làm chứng phải nhờ người khác viết hộ. Vậy ai có thể viết hộ? thười hạn viết hộ kể
từ thười điểm người làm chứng nghe được lười di chúc là bao lâu? Đây là những
vấn đề pháp luật hiện hành cha có quy định cụ thể.
20


Theo đó, phạm vi những người viết hộ này cũng phải giới hạn như phạm vi
những người làm chứng9, và cũng cần quy định là những người làm chứng nếu
không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết hộ ngay sau khi
nghe di chúc miệng, người viết hộ và người làm chứng phải cùng ký tên, điểm chỉ.

KẾT BÀI
Nói tóm lại, vấn đề thừa kế theo di chúc ngày càng được quy định rõ ràng, cụ
thể hơn. Việc này làm hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về thừa kế góp
phần điều tiết, ổn định các quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự.
Tuy nhiên, các Điều luật quy định về vấn đề này vẫn chưa được chặt chẽ,
các nhà lập pháp cần có cách nhìn nhận đúng đắn, tổng quát hơn để sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện những mặt hạn chế, các “điểm trống” trong pháp luật thừa kế Việt
Nam; đưa ra được các quy định hợp lý, cụ thể và rõ ràng nhất để đảm bảo sự công
bằng và minh thị những quy định của pháp luật về thừa kế; cũng là góp phần thúc
đấy sự phát triển kinh tế, xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân Sự Việt Nam Tập 1,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 2006


2. Bộ luật dân sự 2005
3. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, 2008
4. Phạm Văn Tuyết, Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007

5. />
21


6. />
22



×