Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Thừa kế theo di chúc trong quy định của bộ luật dân sự năm 2005 (BTL 8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.07 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Một số khái niệm về thừa kế.
II. Khái niệm di chúc và thừa kế theo di chúc.
1. Khái niệm di chúc.
2. Thừa kế theo di chúc.
III. Chủ thể của quan hệ thừa kế theo di chúc.
1. Người để lại di sản.
2. Người thừa kế.
3. Người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
4. Di sản không có người thừa kế thuộc nhà nước.
IV. Di sản thừa kế.
1. Tài sản riêng của người chết
2. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.
3. Di sản dành cho việc thờ cúng
4. Di tặng.
V. Di chúc chung của vợ chồng.
VI. Điều kiện có hiệu lực của di chúc.

0


1. Điều kiện về chủ thể.
2. Điều kiện về nội dung của di chúc.
3. Điều kiện về hình thức của di chúc.
VII. Thời điểm có hiệu lực của di chúc, thời hiệu khởi kiện về quyền
thừa kế.
1 . Thời điểm có hiệu lực của di chúc.
2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.


C. KẾT BÀI

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các tranh chấp về thừa kế nói chung và tranh chấp về thừa kế theo di
chúc nói riêng có xu hướng ngày càng tăng trong thực tế với tính chất ngày
càng phức tạp. Sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp tòa án,
sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế của các cá nhân là những yếu tố làm cho
tranh chấp về thừa kế theo di chúc ngày một tăng đồng thời làm cho các vụ
kiện tranh chấp về thừa kế bị kéo dài, không dứt điểm. Hơn nữa, khi đời
sống vật chất của con người càng cao, người ta càng nghĩ đến việc định đoạt
tài sản như thế nào trước khi chết thông qua việc lập di chóc.
Tuy vậy, nếu không hiểu rõ những quy định của pháp luật về thừa kế
theo di chúc để nhận thức được quyền định đoạt tài sản của mình chỉ được
thực hiện trong phạm vi nào, khi lập di chúc cần phải tuân thủ những điều
kiện gì thì việc để lại thừa kế theo di chúc của họ lại là nguyên nhân làm
bùng phát tranh chấp giữa những người thừa kế của họ về sau này. Việc định
đoạt tài sản của người lập di chúc không đúng phạm vi luật định có thể còn
làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của một số người khác dẫn đến những
tranh chấp như đã và đang xảy ra trong thực tế là một trong những nguyên
nhân làm tổn hại đến truyền thống đạo đức đã có từ lâu đời của dân tộc.
Em xin được phép chọn đề bài số 15 với nội dung “Thừa kế theo di
chúc trong quy định của Bộ luật dân sự năm 2005”.
Bài làm còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô góp ý, bổ sung để nhóm
hoàn thiện bài tập này cũng như trong những bài tập tiếp theo!

B. NỘI DUNG
I. Một số khái niệm về thừa kế.

Dưới khía cạnh xã hội: việc người chết để lại tài sản cho người còn
sống lo cuộc sống và nối tiếp thế hệ sau là một quy luật tồn tại từ bao đời
này, vì vậy việc pháp luật cụ thể hóa thừa kế thành một chương trong BLDS
là phù hợp với đời sống xã hội.

2


Dưới khía cạnh kinh tế: Thừa kế có mầm mống và xuất hiện ngay
trong thời kỳ sơ khai của xã hội, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu vì
thế thừa kế là một phạm trù kinh tế tồn tại ở bất kỳ xã hội nào kể cả khi xã
hội chưa có nhà nước và pháp luật.
Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự: trong đó các chủ
thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài
sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác.
Những người có quyền nhận di sản họ có thể nhận hoặc không nhận di sản
(trừ trường hợp pháp luật có quy định khác).
Thừa kế dưới góc độ là một chế định pháp luật dân sự: là tổng hợp
các quy phạm pháp luật, điều chỉnh về việc chuyển dịch tài sản của người
chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định đồng thời
quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và
nghĩa vụ của người thừa kế.
II. Khái niệm di chúc và thừa kế theo di chúc.
1. Khái niệm di chúc.
Theo Điều 646 BLDS 2005 quy định: “di chúc là sự thể hiện ý chí
của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết ”.
Đặc điểm của di chúc:
- Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là bất kỳ chủ
thể nào khác.
- Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di chúc nhằm

chuyển dịch tài sản cho người khác sau khi người lập di chúc chết.
- Di chúc là một loại giao dịch dân sự đặc biệt, chỉ có hiệu lực khi
người lập di chúc chết.
- Di chúc là một hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc,
do đó phải tuân thủ các điều kiện của giao dịch dân sự nói chung và điều
kiện của di chúc nói riêng.
3


2. Thừa kế theo di chúc.
Thừa kế theo di chúc là một trong hai hình thức thừa kế được pháp
luật quy định. Được hiểu là việc chuyển giao tài sản theo ý chí của người để
lại di sản thừa kế. Nội dung cơ bản của hành vi này là xác định rõ người
thừa kế, các điều kiện và phân chia di sản. Trong trường hợp cụ thể, quyền
định đoạt của người lập di chúc được pháp luật thừa nhận toàn bộ, nhưng
trong một số trường hợp khác thì quyền tự định đoạt của người lập di chúc
lại bị hạn chế.
Di chúc là giao dịch dân sự một bên, do vậy di chúc cũng cần thỏa
mãn các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Bộ luật dân sự năm 2005 được
thông qua kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI là cơ sở pháp lí vững chắc trong
việc quy định về thừa kế nói chung và các điều kiện có hiệu lực của thừa kế
theo di chúc nói riêng.
III. Chủ thể của quan hệ thừa kế theo di chúc.
1. Người lập di chúc.
a, Khái niệm
Là người mà theo quy định của pháp luật có quyền lập di chúc để định
đoạt khối tài sản của mình cho người khác sau khi chết với ý chí hoàn toàn
tự nguyện.
b. Độ tuổi của người lập di chúc và năng lực hành vi
Theo quy định tại Điều 647 BLDS, của người lập di chúc phải thỏa

mãn các điều kiện sau đây (khoản 1)
“Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó
bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di
chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý (Khoản 2)”.

4


Quy định trên đã làm sáng tỏ một số điều kiện và cũng là căn cứ để
xác định chủ thể lập di chúc. Nhìn chung, chủ thể lập di chúc là người định
đoạt tài sản của mình thông qua hành vi pháp lý đơn phương của họ. Vì vậy
điều kiện về độ tuổi và năng lực hành vi trí tuệ của cá nhân người lập di
chúc là điều kiện tiên quyết trong việc xác định di chúc có giá trị pháp lý hay
không có giá trị pháp lý. Một di chúc hợp pháp phải thỏa mãi không những
các điều kiện theo quy định tại Điều 652, mà còn phải thỏa mãn các điều
kiện của giao dịch dân sự quy định tại Điều 122 BLDS.
b, Quyền của người lập di chúc Người lập di chúc là cá nhân có các
quyền sau đây:
Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa
kế (khoản 1 điều 648).
- Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất cứ cá nhân hoặc tổ
chức, cơ quan Nhà nước nào.
- Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua
việc họ có thể truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật
(cha, mẹ, vợ, chồng, con cái..) mà không nhất thiết phải nêu lí do. Người lập
di chúc có thể truất quyền hưởng di sản thừa kể của mình đối với một hay
nhiều người.
Phân định phần di sản cho từng người thừa kế (khoản 2 điều 648).

Trong trường hợp có nhiều người căng được thừa kế, người lập di
chúc có quyền phân chia di sản cho mỗi người không nhất thiết là phải
ngang nhau và cũng không phải nêu lí do. Nếu không phân định di sản trong
di chúc thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di
chúc.
Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng
(khoản 3 điều 648).
Giao nghĩa vụ cho người thừa kế (khoản 4 điều 648).

5


Đây là điểm mới của BLDS 2005 so với BLDS 1995. Quyền của
người lập di chúc không bị bó hẹp trong quyền giao nghĩa vụ cho người thừa
kế trong phạm vi di sản nữa, mà người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ như
chăm sóc ông bà, bố mẹ…hoặc có thể thanh toán nghĩa vụ về tài sản cho
mình vượt quá phần tài sản có của người lập di chúc để lại và được người
thừa kế đồng ý.
Trong trường hợp người lập di chúc giao nghĩa vụ cho một người mà
không cho họ hưởng di sản thì không bắt buộc người được giao nghĩa vụ
phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Chỉ định người giữ di chúc, người quản lí di sản, người phân chia
di sản (khoản 5 điều 648).
Người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lí
di sản, người phân chia di sản. Việc chỉ định hoàn toàn theo ý chí tự nguyện
của người lập di chúc. Tuy nhiên việc thực hiện hay không tùy thuộc vào ý
chí chủ quan của người được chỉ định. Đây không phải là nghĩa vụ pháp lí
mà nó là biểu hiện tinh thần tự nguyện, giúp đỡ người khác.
Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc (điều 662).
+ Sửa đổi di chúc : là việc người lập di chúc thay thế một phần quyết

định cũ của mình đối với các phần trong bản di chúc đã lập trước đó.
+ Bổ sung di chúc: Người lập di chúc có quyền bổ sung vào nội dung
của di chúc những quyết định mới của mình như việc thêm người thừa kế,
người giữ di chúc, người quản lí di sản…
+ Thay thế di chúc: Là việc người để lại di sản lập di chúc khác thay
thế cho di chúc cũ vì họ cho rằng những quyết định trong di chúc cũ không
còn phù hợp với ý chí của họ nữa.
+ Hủy bỏ di chúc: Là việc người để lại thừa kế từ bỏ di chúc của mình
bằng cách không công nhận di chúc do mình lập ra là có giá trị. Trong
trường hợp này được coi là không có di chúc.

6


Việc hủy bỏ di chúc có thể được thực hiện dưới 2 hình thức đó là:
Người lập di chúc tự tiêu hủy tất cả di chúc đã lập và người lập di chúc lập
một di chúc khác tuyên bố hủy di chúc đã lập.
2. Người thừa kế.
Theo quy định tại điều 635 – BLDS 2005 cho thấy người thừa kế theo
di chúc có thể là cá nhân hay tổ chức , cơ quan , nhà nước.
Người nhận di sản thừa kế là những người có quyền nhận di sản do
người chết để lại theo sự định đoạt trong di chúc, phải đảm bảo những điều
kiện sau đây :
Đối với cá nhân :
Thứ nhất, cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa
kế.
Thứ hai, nếu là thai nhi sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
thì phải thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Thứ ba, người thừa kế không thuộc trường hợp “ không được hưởng
quyền di sản” theo khoản 1 điều 643 BLDS 2005.

Đối với “người’’ thừa kế là cơ quan , tổ chức :
Điều kiện bắt buộc là cơ quan , tổ chức đó phải tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế .
Trong trường hợp cơ quan , tổ chức được người để lại di sản chỉ định
trong di chúc là người thừa kế mà không tồn tại vào thời điểm mở thừa kế
thì sẽ không được hưởng di sản .
Từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ sau
đây :
Quyền của người thừa kế ( điều 642 BLDS 2005 ):
+ Có quyền nhận di sản thừa kế.

7


+ Có quyền từ chối nhận di sản , trừ trường hợp việc từ chối này nhằm
để trốn tránh nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản , người từ chối
phải báo cho những người thừa kế khác , người được giao nhiệm vụ phân
chia tài sản . Công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân xã, phường , thị
trấn nơi mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản . Người thừa kế có nghĩa vụ
liên quan đến di sản thừa kế ( bảo quản , sửa chữa ) và các nghĩa vụ khác ,
cho nên pháp luật quy định thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ
ngày mở thừa kế . Sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế , nếu không từ chối
nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế .
Nghĩa vụ của người thừa kế ( điều 637 BLDS 2005 ) :
Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
trong phạm vi di sản do người chết để lại , trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.
Việc thực hiện những nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại được
tiến hành như sau:

Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những
người thừa kế.
Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần
tài sản mà mình đã nhận , trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Trong trường hợp Nhà nước , cơ quan , tổ chức hưởng di sản theo di
chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người
thừa kế là cá nhân
3. Người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Điều 669 BLDS 2005 quy định: “Những người sau đây vẫn được
hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp

8


luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được
người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn
hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy
định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản
theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng.
Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”
Nội dung của quy định này được hiểu là: Xét về nguyên tắc thì người
hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ không được hưởng
một phần di sản nào. Nhưng pháp luật cho phép họ hưởng hai phần ba của
một suất mà đáng lẽ ra họ được hưởng trong điều kiện bình thường. Một
suất thừa kế ở đây được tính bằng tổng di sản chia cho số người ở hàng thừa
kế thứ nhất. Căn cứ vào đó để xác định hai phần ba của một suất thừa kế
theo pháp luật.

Quy định này bảo vệ quyền được hưởng thừa kế của một số đối tượng
trước những quyết định bất lợi của người để lại di sản đối với họ. Tuy nhiên
nó lại nằm ngoài dự định của người để lại di sản và ảnh hưởng đến quyền lợi
của những người thừa kế khác
4. Di sản không có người thừa kế thuộc nhà nước.
Có hai trường hợp để Nhà nước đứng ra nhận di sản thừa kế của một
cá nhân:
TH1: Người có tài sản lập di chúc để lại di sản cho Nhà nước.
Trong trường hợp này, Nhà nước chính là người thừa kế theo di chúc
TH2: Di sản không có người nhận thừa kế. Điều 644 BLDS 2005: Tài
sản không có người nhận thuộc Nhà nước “Trong trường hợp không có
người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền
hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước”

9


Theo quy định này thì di sản đó sẽ thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước là
đại diện chủ sở hữu đối với phần di sản đó. Điều luật cũng xác định rõ ràng
trách nhiệm của cơ quan Nhà nước khi nhận di sản không người thừa kế:
phải thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại.
IV. Di sản thừa kế.
Dưới góc độ của khoa học luật Dân sự có thể hiểu di sản thừa kế là
toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người chết để lại, là đối
tượng của quan hệ pháp luật liên quan đến việc dịch chuyển tài sản của
người đó sang cho những người hưởng thừa kế được nhà nước thừa nhận và
bảo đảm thực hiện.
Theo Điều 634 BLDS 2005: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong phần tài sản chung với người khác”.

Các quyền về tài sản mà người chết để lại: Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền. Các quyền này thường phát sinh từ các giao dịch dân sự
mà khi còn sống người để lại di sản tham gia. Ví dụ: quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại đối với bên vi phạm hợp đồng, quyền đòi bồi thường thiệt
hại do gây thiệt hại, quyền được hưởng các lợi ích phát sinh từ quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sử dụng đất cũng được xác định là di
sản thừa kế. Tuy nhiên những quyền tài sản trong tương lai nhưng lại gắn
liền với nhân thân người chết không phải là di sản. Ví dụ: tiền lương hưu,
tiền trợ cấp thương tật, tiền cấp dưỡng…
1. Tài sản riêng của người chết
Tài sản riêng của người chết được hiểu là tài sản thuộc quyền sở hữu
của riêng người để lại di sản, người để lại di sản có toàn quyền trong việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản đó mà không chịu sự chi phối
hay sự ràng buộc nào với chủ thể khác.
Trong quan hệ vợ chồng, tài sản riêng của vợ , chồng bao gồm: tài sản
mà mỗi người có trước thời kì kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng

10


cho riêng trong thời kì hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ, chồng trong
thời kì hôn nhân, đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.
a) Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung hợp nhất.
Tại Khoản 1 Điều 217 BLDS 2005: “Sở hữu chung hợp nhất là sở
hữu chung mà trong đó phần sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác
định đối với tài sản chung” .
Theo Điều 27 Luật Hồn nhân và Gia đình 2000, tài sản chung của vợ
chồng là tài sản chung hợp nhất, bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp

pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung.
Trong trường hợp gia đình có con trưởng thành có thu nhập theo nghề
nghiệp, được tặng cho hoặc được thừa kế và có đóng góp công sức, tiền của
vào việc duy trì, phát triển khối tài san chung của gia đình thì họ cũng có
quyền sở hữu đối với tài sản chung của gia đình. Khi người này chết đi, phần
tài sản của họ trong khối tài sản chung với gia đình là di sản thừa kế của họ.
b) Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung theo phần
Khoản 1 Điều 216 BLDS 2005: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu
chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định
đối với tài sản chung”. Khi một trong các đồng chủ sở hữu chết thì phần tài
sản thuộc sở hữu của người đó trong khối tài sản chung (cộng với hoa lợi,
lợi tức nếu có) sẽ là di sản thừa kế của người này.
3. Di sản dành cho việc thờ cúng
Điều này được quy định taị điều 670 BLDS 2005, chúng ta thấy trong
trường hợp người lập di chúc có để lại phần di sản dựng vào việc thờ cúng

11


thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã
được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng.
Nếu người được giao quản lý di sản thờ cúng không thực hiện đúng di
chúc hoặc không theo thỏa thuận của người thừa kế thì được giao một phần
di sản thờ cúng cho người khác.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lí di
sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lí di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết
thì phần di sản dựng để thờ cúng thuộc về người đang quản lí hợp pháp di

sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Di sản thờ cúng chỉ được đem ra thanh toán nợ của người chết trong
trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thực hiện nghĩa vụ tài
sản của người đó.
Di sản thờ cúng có thể bị cắt giảm do sự có mặt của người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Vì những người này theo quy
định tại điều 699 BLDS 2005 họ được bảo đảm hưởng kỷ phần 2/3 suất của
người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp toàn bộ di sản được chia theo
pháp luật chứ không phải chia trên phần còn lại sau khi đã trừ đi một phần di
sản dành cho thờ cúng. Di sản thờ cúng cũng có thể bị cắt giảm nếu người
lập di chúc định đoạt toàn bộ di sản thừa kế dành cho thờ cúng. Vì người lập
di chúc chỉ được quyền trích một phần di sản vào thờ cúng.
4. Di tặng.
Theo điều 674 BLDS 2005 quy định:
Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho
người khác.Việc di tặng phải ghi rõ trong di chúc.
Người được tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần
được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ

12


tài sản của người di tặng, thì phần di tặng cũng đưuọc sử dụng để thực hiện
nghĩa vụ còn lại của người này.
Di tặng và hợp đồng tặng cho giống nhau đều là sự chuyển quyền sở
hữu tài sản của mình cho bên kia mà không cần đền bù. Tuy nhiên cũng có
sự khác biệt giữa di tặng và hợp đồng tặng cho. Nếu hợp đồng tặng cho là sự
thỏa thuận thống nhất ý chí của của cả người tặng và người nhận, các chủ
thể của hợp đồng phải còn sống và thể hiện ý chí của mình trong hợp đồng.
Còn trong di tặng lại khác, di tặng chỉ là hành vi pháp lý đơn phương của

người lập di chúc nhằm định đoạt tài sản của mình cho người khác. Di tặng
chỉ có hiệu lực khi di chúc có hiệu lực tức khi người lập di chúc chết và tại
thời điểm đó người được nhận di tặng còn sống Lúc này người được di tặng
mới được thể hiện ý chí của mình là nhận hay từ chối không nhận di sản.
Tài sản dựng để di tặng thì đó là một phần di sản hay một hiện vật
hoặc một số hiện vật trong khối tài sản người chết để lại. Đặc điểm quan
trọng của di tặng là không phải chụi bất cứ nghĩa vụ nào của người để lại di
sản. Đây cũng là điểm phân biệt cơ bản của di tặng với người thừa kế. Người
di tặng có thể di tặng toàn bộ hay một phần tài sản của mình.
Người được di tặng có thể là bất kỳ ai, có thể là cá nhân, tổ chức hay
pháp nhân.cá nhân có thể thuộc diện thừa kế hoặc là một người bất kỳ. họ
tên của người được di tặng và vật tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
V. Di chúc chung của vợ chồng.
 Quyền lập di chúc chung của vợ, chồng
Di chúc chung của vợ, chồng là loại di chúc đặc biệt xác lập do hai
người có tài sản chung hợp nhất, cùng định đoạt chung. Điều này được quy
định trong BLDS 2005 tại điều 663: “ vợ. chồng có thể lập di chúc chung để
định đoạt tài sản chung”
Được quy định tại điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Trên
cơ sở xác định tài sản chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất thì việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung thông thường dựa trên sự nhất

13


trí của vợ, chồng. Do đó, vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài
sản chung. Tuy nhiên việc lập di chúc cũng phải dựa trên cơ sở tự nguyện,
thống nhất ý chí của cả vợ và chồng nếu vợ chồng không thống nhất được ý
chí chung thì họ vẫn có thể lập di chúc riêng. Mỗi người được lập di chúc để
định đoạt một nửa khối tài sản chung và những tài sản thuộc sở hữu riêng

của người đó.
Việc pháp luật thừa nhận vợ, chồng có quyền lập di chúc đã phần nào
củng cố tình yêu và đoàn kết trong gia đình.
Việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của
vợ,chồng( điều 664 BLDS 2005)
Vợ chồng khi đã thống nhất ý chí lập di chúc chung thì họ cũng có
thể sửa đổi, bổ sung,thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. Điều này
đưuọc quy định tại điều 664 BLDS 2005.
Nếu vợ chồng muốn thay thế, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc thì
phải được sự đồng ý của người kia và nếu chồng hoặc vợ chết trước thì
người còn sống chỉ được sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan tới phần di sản
của mình. Quy định này tạo ra sự thống nhất cao cho việc lập di chúc chung,
cũng như việc sửa đổi bổ sung di chúc chung. Nếu một bên muốn sửa đổi
mà bên kia không đồng ý thì cũng không được quyền thay đổi. điều này làm
ảnh hưởng tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình. Mặt khác bản thân quy định này cũng chứa đựng sự mâu
thuẫn. Quy định này không cho phép một bên có quyền sửa đổi, bổ sung, di
chúc chung khi chưa được bên kia đồng ý, nhưng lại cho phép họ có quyền
sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi một bên đã chết. Người kia chỉ có thể sửa
đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần di sản của mình.
VI. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC.
1. Điều kiện về chủ thể.
Người lập di chúc phải có năng lực hành vi dân sự: Là người đã thành
niên ( tròn 18 tuổi trở lên) và hoàn toàn có khả năng nhận thức vào thời điểm

14


lập di chúc. Tuy nhiên, BLDS cũng quy định người từ đủ 15 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi, người lập di chúc có thể lập di chúc nhưng với điều kiện phải

được cha mẹ hoặc người dám hộ đồng ý.
Ý chí của người lập di chúc: Đây là một trong những điều kiện nhằm
đảm bảo di chúc thể hiện đúng ý nguyện, sự định đoạt, quyết định của người
lập di chúc về việc dịch chuyển tài sản của họ sau khi chết.
Theo đó, người lập di chúc phải tự nguyện lập di chúc, không bị lừa
dối, đe dọa hoặc cưỡng ép.
2. Điều kiện về nội dung của di chúc.
Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của pháp luật và không
trái với đạo đức xã hội, tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại Điều 8,
Điều 10, Điều 11 BLDS về tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đep tôn trọng
lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của người khác và
nguyên tắc tuân thủ pháp luật.
Theo Điều 653 BLDS 2005:
1.Di chúc phải ghi rõ:
- Ngày, tháng, năm lập di chúc
- Họ, tên, nơi cư trú của người lập di chúc;
- Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ
các điều kiện để cá nhân, tổ chức được hưởng di sản;
- Di sản để lại và nơi có di sản;
- Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ;
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc
gồm nhiều trang thì mỗi trang phải đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm
chỉ của người lập di chúc.
3. Điều kiện về hình thức của di chúc.

15


Theo qui định tại Điều 649 BLDS: “Di chúc phải được lập thành văn
bản, nếu không thể lập thành văn bản thì có thể di chúc miệng”.

Về ngôn ngữ của di chúc, thông thường được lập bằng tiếng phổ
thông ( tiếng kinh) tuy nhiên “người thuộc dân tộc thiểu số ở nước ta có
quyền lập di chúc bằng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình” ( Điều 649
BLDS) . Ngoài ra, cá nhân mang quốc tịch Việt Nam không nói và viết được
Tiếng Việt thì có thể lập di chúc bằng tiếng nước ngoài. Người lập di chúc
có thể sử dụng tiếng nói và chữ viết mà mình biết do đó trong trường hợp
này di chúc vẫn được công nhận.
Như vậy về hình thức, di chúc có thể tồn tại ở hình thức di chúc
miệng hoặc di chúc bằng văn bản. Cụ thể:
Di chúc bằng văn bản:
Điều 650 quy định di chúc bằng văn bản gồm 4 loại:
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (điều 655): cũng có
giá trị pháp lý nếu nội dung của di chúc tuân theo quy định tại điều 653
BLDS. Di chúc này phải do chính người lập di chúc tự tay viết và kí.
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (Điều 656): là trường hợp
người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người
khác viết và có ít nhất hai người làm chứng. Người làm chứng phải là người
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, từ đủ 18 tuổi trở lên. Người thừa kế theo
di chúc, người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc cũng không
được làm người làm chứng. Ngoài ra, người làm chứng không phải là những
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tới nội dung của di chúc như con
nợ, chủ nợ...
Di chúc có công chứng và chứng thực (điều 657): là việc người lập di
chúc có thể yêu cầu công chứng viên, Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng thực
vào bản di chúc do mình lập ra. Người lập di chúc phải tự mình mang bản di
chúc đến cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực. mà không được
ủy quyền cho người khác đi công chứng. Trong trường hợp di chúc được lập

16



tại cơ quan công chứng hoặc UBND cấp xã thủ tục đã được quy định tại điều
658 BLDS. Trong một số trường hợp, Công chứng viên và người có thẩm
quyền của UBND cấp xã, phường, thị trấn không được công chứng, chứng
thực di chúc theo qui định tại điều 659 BLDS.
Ngoài ra, một số trường hợp đặc biệt di chúc không thể đem công
chứng, chứng thực (điều 660) thì không cần công chứng viên hoặc người có
thẩm quyền của UBND cấp xã công chứng, chứng thực, di chúc vẫn có giá
trị (quân nhân tại ngũ; người đang đi trên máy bay, tàu biển…)Những di
chúc này chỉ cần có chữ kí của người phụ trách cơ sở nơi người đó đang có
mặt.
Di chúc miệng
Di chúc miệng là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản
thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho người
khác sau khi chết.
Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật
hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có
thể di chúc miệng.
Người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt
ít nhất hai người làm chứng (người làm chứng phải thoả mãn quy định tại
điều 654 BLDS) và ngay sau đó người làm chứng ghi chép lại một cách
trung thực, sau đó đọc cho người lập di chúc nghe và kí tên hoặc điểm chỉ.
Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc thể hiện ý chí cuối cùng thì
bản di chúc phải được đem công chứng hoặc chứng thực theo trình tự thủ
tục.
Sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn
sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ. (khoản 2
Điều 651). Vấn đề đặt ra ở đây là theo quy định tại khoản 2 điều 651 BLDS
ở trên, pháp luật chỉ quy định trường hợp quá thời hạn ba tháng nếu người
còn sống minh mẫn mà không qui định trường hợp người đó sống quá ba

tháng và không còn minh mẫn, sáng suốt. Tuy nhiên có thể hiểu rằng quá
17


thời hạn ba tháng mà người đó không còn minh mẫn, sang suốt thì di chúc
vẫn có hiệu lực pháp luật. Điều này nhằm đảm bảo sự thể hiện ý chí của
người lập di chúc.
VII. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC, THỜI HIỆU KHỞI
KIỆN VỀ QUYỀN THỪA KẾ.
1.Thời điểm có hiệu lực của di chúc.
Theo điều 667 BLDS 2005 quy định: “ Di chúc có hiệu lực pháp luật
kể từ thời điểm mở thừa kế ”.
Theo quy định tại khoản 1 Điểu 633 BLDS thì thời điểm mở thưà kế
là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một
người đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định
tại khoản 2 điều 81 BLDS.
Việc xác định thời điểm mở thừa kế là rất quan trọng. Kể từ thời điềm
đó, xác định được chính xác tài sản, quyền và nghĩa vụ về tài sản của người
để lại thừa kế.
Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản,
nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi
có toàn bộ hoặc phần lớn di sản (khoản 2 Điều 633 BLDS). Địa điểm mở
thừa kế được xác định theo đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã, phường, thị
trấn)
Theo Điều 668 BLDS 2005 quy định: Hiệu lực pháp luật của di chúc
chung của vợ chồng. “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm
người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.”
Quy định như vậy nhằm bảo vệ quyền lợi của người chồng hoặc vợ
còn sống, đảm bảo cho họ sử dụng tài sản chung có hiệu quả.
Điều 667 BLDS 2005 di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ

hoặc một phần trong các trường hợp sau:

18


a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc
b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào
thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều
cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào
thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan,
tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.
Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa
kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế
chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu
lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với 1 tài sản thì chỉ bản di
chúc sau cùng có hiệu lực Pháp luật.”
2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
Theo Điều 645 BLDS quy định: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa
kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền
thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về
tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Có hai trường hợp không tính thời hiệu:
Thứ nhất là trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà
các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và có văn bản cùng

xác nhận là đồng thừa kế thì tài sản thành di sản chung. Khi xảy ra tranh
chấp thì không tính thời hiệu và tòa sẽ tiến hành chia tài sản theo di chúc
hoặc chia theo thỏa thuận của các đồng thừa kế.
19


Thứ hai là di sản người chết để lại nhưng do người ngoài quản lý, còn
các thừa kế không quản lý, không biết gì về di sản. Thực tế có những trường
hợp do nhiều nguyên nhân khác nhau mà sau một thời gian dài đương sự
mới phát hiện đó là tài sản của cha mẹ và chưa chia, nay họ muốn đòi lại thì
không tính thời hiệu khởi kiện.
Mốc để tính thời hiệu khởi kiện về thừa kế còn hay hết là vào lúc
đương sự có đơn khởi kiện tại tòa án chứ không phải từ thời điểm thụ lý như
một số tòa vẫn áp dụng. Khi giải quyết, tòa chỉ phân chia theo yêu cầu của
các bên đương sự đối với phần di sản còn thời hiệu khởi kiện, phần di sản
hết thời hiệu thì không “đụng” tới.
Thời hiệu khởi kiện thừa kế có yếu tố nước ngồi: Theo điều 777 Bộ
luật dân sự 2005: "Thời hiệu khởi kiện đối với quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà pháp luật nước đó
được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tương
ứng". Vậy nên ta cần xác định thẩm quyền xét xử với vụ án thừa kế đó mới
có thể biết thời hiệu.

C. KẾT BÀI
Quan hệ Thừa kế là một trong những quan hệ pháp luật có nội dung
kinh tế, xã hội sâu sắc, tồn tại và phát triển song hành cùng với sự phát triển
của loài người. di chúc là hình thức để cá nhân tuyên bố ý định của mình sau
khi chết thì di sản sẽ được giải quyết như thế nào thông qua hai hình thức là
di chúc bằng văn bản và di chúc miệng.
Chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự 2005 đã có sự tiến bộ, bình

đẳng, chặt chẽ và hoàn thiện hơn. Tuy nhiên để đáp ứng sự phát triển không
ngừng của xã hội, chế định này cần phải hoàn thiện hơn nữa, trong đó có
hình thức của di chúc; đồng thời tạo điều kiện cũng như khuyến khích mọi
người tạo ra của cải vật chất nhiều hơn cho xã hội.

20



×