Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

THUC TRANG DIEU HANH CHINH SACH TY GIA NHNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.41 KB, 41 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯƠNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

ĐỀ TÀI: TỪ THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA
NHNN VIỆT NAM, ĐỀ XUẤT NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CẦN
THIẾT NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA
NHNN GẮN VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THỜI KỲ HỘI NHẬP

Hà Nội, 2018

CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 1


MỤC LỤC

CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 2


TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do hóa thương mại, chính
sách tỷ giá có vai trò hết sức quan trọng, một công cụ điều tiết các quan hệ kinh tế
quốc tế và tác động tới tăng trưởng kinh tế thông qua tăng năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp (DN), cải thiện cán cân thanh toán cũng như các cân đối lớn trong nền
kinh tế. Chính sách tỷ giá được xem như chiếc “van” để điều tiết các hoạt động kinh tế
bên trong gắn với bên ngoài. Xét về nguyên lý, chính sách tỷ giá giữa các nước trong
từng thời kỳ thường có sự khác biệt nhất định, căn cứ vào các điều kiện kinh tế xã hội


trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn. Từ đó, việc lựa chọn chính sách điều hành
tỷ giá trở thành “kim chỉ nam” để dẫn dắt thị trường đi đúng hướng và tăng hiệu lực
của chính sách tiền tệ quốc gia. Tất cả các nước đều chú ý đến điều này.
Trên cơ sở được phân giao nghiên cứu về đề tài: Từ thực trạng điều hành
chính sách tỷ giá của NHNN Việt Nam, đề xuất những khuyến nghị cần thiết hoàn
thiện chính sách tỷ giá của NHNN gắn với tăng trưởng và phát triển kinh tế trong
quá trình hội nhập. Nhóm 1 đã thực hiện nghiên cứu các bài viết liên quan sau:
- “Kết quả điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam và một số vấn đề đặt ra
trong thời gian tới” của PGS.TS Kiều Hữu Thiện đăng trên Tạp chí khoa học và đào
tạo ngân hàng Số 162- tháng 11 năm 2015. Bài viết chỉ ra ưu khuyết điểm của từng
chính sách tỷ giá, đặt ra các vấn đề nền kinh tế nào sẽ phù hợp với chính sách tỷ giá
nào từ đó liên hệ tới thực tiễn áp dụng chính sách tỷ giá tại Việt Nam. Bài viết đã khái
quát những lý do mà hiện tại NHTW áp dụng chính sách tỷ giá cố định tại Việt Nam,
đồng thời chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong thời gian tới. Tuy nhiên bài viết chưa
nêu ra giải pháp giải quyết những vẫn đề đặt ra.
- “Việt Nam chuyển sang cơ chế tỷ giá hối đoái phù hợp hơn” của tác giả Lê
Văn Hinh đăng trên tạp chí ngân hàng ngày 02/3/2017. Bài viết đã phân tích diễn biến
tỷ giá của Việt Nam từ năm 2015 trở lại đây từ đó rút ra các đánh giá về cơ chế tỷ giá
của Việt Nam. Bài viết đã đóng góp một số kiến nghị cho chính sách tỷ giá trung hạn
như: tỷ giá nên được điều chỉnh linh hoạt hơn nữa; NTNN nên tập trung các giải pháp
chống đầu cơ ngoại tệ; NHNN không nên tuyên bố cam kết giữ VNĐ; hạn chế tác
động tỷ giá từ NHNN; tăng cường năng lực cạnh trang của hàng hóa xuất khẩu Việt
Nam bằng giải pháp tăng năng xuất…
- Bài viết “Chính sách tỷ giá hối đoái: lựa chọn nào cho Việt Nam” Của tác giả
Phạm Thế Anh và Đinh Tuấn Minh. Bài viết đăng trên tạp trí Kinh tế và Phát triển số
210 tháng 12 năm 2014. Bài viết phân tích chính sách tỷ giá ở Việt Nam trên nhiều
mặt và các tác động của tỷ giá tới cán cân thương mại, lạm phát và bất ổn Vĩ Mô. Từ
phân tích, tác giả đưa ra kết luận “Cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý có thể là sự lựa
chọn tốt nhất cho Việt Nam”.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cuộc tranh luận về sự lựa chọn cơ chế, chính sách

tỷ giá nào cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay đã được các tác
giả xem xét, đánh giá trên nhiều giác độ, khía cạnh khác nhau, tuy nhiên đều với nhằm
hướng đến mục tiêu tổng quát là sự ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế,
ổn định giá trị VND và bảo đảm an sinh xã hội.
Tuy nhiên trong bối cảnh cuộc chiến tranh thương mại hiện nay giữa Mỹ và
Trung Quốc chưa có hồi kết, áp lực về phá giá VND ngày một gia tăng. Như vậy câu
hỏi đặt ra là Ngân hàng Nhà nước sẽ thực thi, điều hành chính sách tỷ giá như thế nào
trong thời gian tới? Trên cơ sở phân tích thực trạng điều hành chính sách tỷ giá của
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 3


NHNN trong thời gian qua, kinh nghiệm của một số quốc gia, Nhóm 1 tập trung đề
xuất một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả chính sách tỷ giá.
Kết cấu bài viết gồm 3 phần:
Phần I: Tổng quan về tỷ giá và chính sách tỷ giá
Phần II: Kinh nghiệm thực thi chính sách tỷ giá ở các nước
Phần III: Thực trạng áp dụng chính sách tỷ giá ở Việt Nam

CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 4


PHẦN I:TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
I. Các khái niệm
1. Khái niệm tỷ giá:
Khối lượng thương mại quốc tế không ngừng tăng lên qua các năm làm cho các
nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Trong xu hướng toàn cầu hóa dần xóa nhòa

các đường biên giới quốc gia và làm cho các dòng tư bản lưu chuyển linh hoạt hơn.
Trong quá trình đó, mỗi quốc gia đề cô gắng đưa đồng nội tệ có thể chuyển đổi và tìm
kiếm một chính sách tỷ giá thích hợp.Vậy tỷ giá bắt đầu xuất hiện khi có thương mại
quốc tế. Nó là mức giá giữa hai nước mà tại đó họ trao đổi với nhau.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tỷ giá tùy cách tiếp cận. Dưới đây là định
nghĩa phổ biến nhất:Tỷ giá là số đơn vị đồng tiền định giá trên một đơn vị đồng tiền
yết giá;đối với một quốc gia cụ thể thì tỷ giá số đơn vị đồng nội tệ trên một đơn vị
ngoại tệ, nghĩa là đồng ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá còn đồng nội tệ đóng
vai trò là đồng tiền định giá. (Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến – Giáo trình tài chính
quốc tế)
2.Thị trường ngoại hối:
Thị trường ngoại hối có tên tiếng anh là: the foreign Exchage Market và được
viết tắt là Forezx hay FX.
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng của mình, cà do đó, trong một
hoạt động buôn bán quốc tế, ít nhất phải có một bên tham gia sử dụng ngoại tệ. Còn
nếu như đồng tiền của các bên tham gia đều không đổi được thì họ thỏa thuận sử dụng
một ngoại tệ chuyển đổi tự do để giao dịch với nhau. Để thực hiện các giao dịch này
các bên tham gia mua bán phải tìm gặp gỡ để thương lượng. Do vậy, cần phải có một
thị trường để chuyển đổi từ đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác.
Có thể khái quát: Thị trường ngoại hối là thị trường tiền tệ quốc tế trong đó
diễn ra các hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị
như ngoại tệ.
3. Khái niệm chính sách tỷ giá
Tỷ giá hối đoái theo Krugman và các cộng sự (2012) là giá của một đồng tiền
tính theo một đồng tiền khác. Đó chính là tỷ lệ mà tại đó một đồng tiền được sử dụng
để đổi lấy đồng tiền khác, cụ thể là số lượng ngoại tệ được dùng để mua một đồng tiền
nội tệ hoặc là chi phí tính bằng đồng tiền nội tệ để mua một đơn vị ngoại tệ. Luận án
sử dụng cách yết giá đồng ngoại tệ tính theo số đơn vị nội tệ, tức là tỷ giá tăng sẽ khiến
nội tệ mất giá còn ngoại tệ lên giá (và ngược lại). Riêng đối với trường hợp tính toán
truyền dẫn biến động tỷ giá đến các mức giá nhập khẩu ở cấp độ vi mô, cách yết giá

đồng nội tệ tính theo số đơn vị ngoại tệ được sử dụng.
Thuật ngữ “chính sách tỷ giá hối đoái” (exchange rate policy), cho đến nay,
không còn xa lạ trong các nghiên cứu liên quan đến tài chính quốc tế, tuy nhiên chưa
có một khái niệm chính thức nào về chính sách tỷ giá được đưa ra. Mặc dù vậy, các
nghiên cứu đều khá đồng thuận khi cho rằng việc điều hành tỷ giá là một bộ phận
trong chính sách tiền tệ nói riêng, các chính sách kinh tế vĩ mô nói chung cho nên khái
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 5


niệm, mục tiêu, nội dung của chính sách tỷ giá phải nhất quán với các chính sách kinh
tế.
Do vậy, chính sách tỷ giá hối đoái có thể hiểu là: Những hoạt động can thiệp
có chủ đích của Ngân hàng Trung ương thông qua một chế độ tỷ giá nhất định và
hệ thống các công cụ can thiệp để tác động tới cung cầu trên thị trường ngoại hối
nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối đoái chú trọng vào hai vấn đề lớn: Lựa chọn
chế độ tỷ giá và điều chỉnh tỷ giá thông qua hệ thống công cụ can thiệp phù hợp
4. Vai trò của chính sách tỷ giá
Chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết khối lượng
tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ ngân hàng
Trung ương có thể kiểm soát được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm
phát, ổn định sức mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác chính
sách tiền tệ còn là công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống các ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng.
- Tạo ra công ăn việc làm:Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh
doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất
nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Tình hình đó đặt ra cho

ngân hàng Trung ương trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần
tăng cường mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh đồng thời phải tham gia tích cực vào
sự tăng trưởng liên tục và ổn định khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức
tăng thất nghiệp tự nhiên.
- Tăng trưởng kinh tế:Lý thuyết kinh tế không trình bày một cách rõ ràng
cách thức việc điều hành tỷ giá hối đoái nói chung, chế độ tỷ giá nói riêng ảnh hưởng
như thế nào đến tăng trưởng kinh tế mà thường tập trung vào tác động gián tiếp thông
qua kênh đầu tư và kênh thương mại quốc tế (chủ yếu là xuất khẩu).
Thông qua kênh đầu tư, việc phá giá đồng nội tệ sẽ làm gia tăng tài sản của nhà
đầu nước ngoài so với nhà đầu tư trong nước, dẫn đến dòng vốn đầu tư vào trong nước
gia tăng. Đây chính là nhân tố kích thích tổng cầu, từ đó ảnh hưởng đến sản lượng đầu
ra trong nền kinh tế. Ảnh hưởng của tỷ giá đến hoạt động đầu tư còn thể hiện qua mức
độ rủi ro. Nếu mức độ rủi ro giảm xuống thì hoạt động đầu tư được gia tăng, vì thế tạo
ra nhiều việc làm. Do vậy, tỷ giá biến động mạnh đi kèm với rủi ro gia tăng sẽ là nhân
tố làm giảm sút dòng vốn đầu tư quốc tế của một quốc gia, ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng.
Thông qua kênh thương mại quốc tế, về mặt nguyên tắc, khi đồng nội tệ giảm
giá sẽ kích thích xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thương mại, thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng và ngược lại. Ngoài ra, mức biến động cao của tỷ giá sẽ không phải là môi
trường phù hợp cho hoạt động ngoại thương bởi khi xảy ra những sai lệch hoặc biến
động quá mức, các quốc gia có xu hướng lập nên các rào cản thương mại. Điều này
đến lượt nó sẽ bóp méo tín hiệu giá cả, dẫn đến sự phân bổ sai nguồn lực và gây ảnh
hưởng xấu tới thương mại quốc tế, dẫn đến sự suy giảm tốc độ tăng trưởng.
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 6


- Tỷ giá hối đoái và giá cả: Truyền dẫn biến động của tỷ giá hối đoái (exchange
rate pass through – ERPT) còn được gọi là chuyển dịch biến động tỷ giá hoặc tỷ giá

hối đoái chuyển qua là phần trăm thay đổi trong giá nhập khẩu (tính bằng đồng tiền
của bên nhập khẩu) gây ra bởi 1% thay đổi của tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của nước
xuất khẩu và nước nhập khẩu (Goldberg và Knetter, 1997). Phản ứng 1 – 1 của giá
nhập khẩu đối với sự thay đổi của tỷ giá (tức là 1% thay đổi của tỷ giá gây ra 1% thay
đổi trong giá nhập khẩu) được gọi là truyền dẫn hoàn toàn (full pass-through), trong
khi một mức độ phản ứng nhỏ hơn của giá nhập khẩu so với sự thay đổi của tỷ giá
được gọi là truyền dẫn từng phần hoặc không hoàn toàn (less pass-through). Nếu biến
động tỷ giá không có ảnh hưởng gì đến giá nhập khẩu thì gọi là không truyền dẫn (no
pass-through). Quan điểm trên giới hạn trong phạm vi mối quan hệ giữa biến động tỷ
giá và sự thay đổi của giá nhập khẩu. Hiểu theo nghĩa rộng hơn, ERPT là sự truyền
dẫn biến động của tỷ giá đến các mức giá nói chung, bao gồm chỉ số giá nhập khẩu,
chỉ số giá sản xuất (PPI) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) (theo Devereux và Yetman
(2002).
Tỷ giá tác động đến giá cả thông qua hai kênh chủ yếu: kênh gián tiếp (tác động
đến tổng cầu) và kênh trực tiếp (tác động đến tổng cung). Thông qua kênh trực tiếp,
quá trình truyền dẫn biến động tỷ giá đến giá cả trong nước có thể phân thành hai giai
đoạn. Trong giai đoạn đầu, biến động tỷ giá được truyền dẫn vào giá các hàng hóa
nhập khẩu. Ở giai đoạn thứ hai, sự thay đổi của giá cả hàng hóa nhập khẩu được
chuyển sang giá tiêu dùng. Mức độ truyền dẫn biến động tỷ giá đến giá nhập khẩu chịu
ảnh hưởng bởi hành vi định giá theo thị trường (pricing to market, PTM) và việc lựa
chọn đồng tiền sử dụng trong thanh toán.
Phản ứng của tỷ giá trước cú sốc giá cả: Nếu lạm phát trong nước tăng lên một
cách tương đối so với lạm phát nước ngoài sẽ gây ra một sự gia tăng nhu cầu đối với
hàng hóa nước ngoài, dẫn tới tăng cầu đối với đồng ngoại tệ. Nhu cầu của người nước
ngoài đối với hàng hóa trong nước giảm đi dẫn đến cầu nội tệ giảm, đồng nghĩa với
việc giảm cung ngoại tệ. Áp lực của việc tăng cầu ngoại tệ kết hợp với cung ngoại tệ
giảm khiến cho ngoại tệ tăng giá, tỷ giá tăng. Ngược lại, khi lạm phát nước ngoài tăng
lên một cách tương đối so với lạm phát trong nước thì ngoại tệ giảm giá, tỷ giá giảm.
Như vậy, các quốc gia có tỷ lệ lạm phát tương đối thấp thì giá trị đồng tiền của
nó có xu hướng tăng trên thị trường ngoại hối. Các quốc gia có lạm phát tương đối cao

thì giá trị đồng tiền của nó có xu hướng giảm trên thị trường ngoại hối.
- Ổn định lãi suất: Mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biến động
của lãi suất làm cho nền kinh tế bấp bênh và khó lập kế hoạch cho tương lai. Vì vậy,
ổn định lãi suất chính là thực hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh toán,
cho nền kinh tế quốc dân thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ
cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã hội và với một hệ thống lãi suất
mềm dẻo phải linh hoạt, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.
- Ổn định thị trường tài chính: Việc ổn định thị trường tài chính là mục tiêu rất
quan trọng trong công tác điều hành nền kinh tế của mỗi chính phủ, ổn định thị trường
tài chính cũng được thúc đẩy bởi sự ổn định lãi suất bởi vì biến động trong lãi suất có
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 7


thể gây nên sự mất ổn định cho các tổ chức tài chính. Trong những năm gần đây những
biến động mạnh của lãi suất là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các hiệp hội
tiết kiệm và cho vay đã gặp khó khăn về tài chính như chúng ta đã biết.
- Ổn định thị trường ngoại hối: Thị trường ngoại hối là thị trường mà ở đó tiền
tệ của các nước khác nhau được đem ra trao đổi với nhau, chính tại thị trường này tỷ
giá hối đoái được xác định. Việc tỷ giá ổn định không chỉ có tác động tích cực do một
phần vốn đầu tư USD trước đây có thể chuyển vào thị trường chứng khoán để “đánh
sóng” mà nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc củng cố niềm tin của nhà đầu tư nước
ngoài. Chính sách tỷ giá luôn là một yếu tố vĩ mô quan trọng để nhà đầu tư nước ngoài
xem xét khi họ có ý định đầu tư vào Việt Nam. Sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng
đến sức mua của đồng tiền, từ đó tác động ít hay nhiều đến hoạt động của nền kinh tế
tùy theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó.
- Cân đối bên trong và cân đối bên ngoài: Trong một nền kinh tế mở, mục
tiêu của việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô là đạt được cân đối bên trong và cân
đối bên ngoài. Tỷ giá hối đoái là một yếu tố có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến

những cân đối này nên việc điều hành chính sách tỷ giá cũng phải hướng đến hai mục
tiêu nói trên.
+ Mục tiêu cân đối bên trong: Là trạng thái mà ở đó các nguồn lực của một
quốc gia được sử dụng đầy đủ, đạt mức sản lượng tiềm năng, thể hiện ở trạng thái toàn
dụng nhân công (tỷ lệ bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) và giá cả ổn định.
+ Mục tiêu cân đối bên ngoài: Cân đối bên ngoài được xác định bởi một cán
cân thanh toán bền vững trong trung hạn, tức là mức thặng dư/thâm hụt tài khoản vãng
lai phù hợp với dòng chảy ra/vào của vốn trong dài hạn. Cân bằng bên ngoài khó xác
định hơn so với cân bằng bên trong, thông thường được thể hiện qua sự cân đối trong
tài khoản vãng lai (chủ yếu là cán cân thương mại). Tuy nhiên, trên thực tế, không có
sự thống nhất trong việc xác định chính xác tài khoản vãng lai nên cân bằng, hay nên
thâm hụt/thặng dư ở mức độ bao nhiêu mà chỉ có thể thống nhất rằng không nên để
xảy ra trạng thái thâm hụt hay thặng dư quá lớn. Mức thâm hụt này cần có sự cân đối
với lượng dự trữ ngoại hối (đạt được ít nhất 12 tuần nhập khẩu).
+ Trạng thái cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài có thể tồn tại đồng thời
và liên tục do sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tự động để phản
ứng với trạng thái mất cân bằng cán cân thanh toán có thể rất tốn kém chi phí. Do vậy,
các chính phủ nên có các chính sách điều chỉnh nhằm tác động tới sản lượng, việc làm,
giá cả và cán cân thanh toán. Những chính sách này đã được thống kê bao gồm: chính
sách thay đổi chi tiêu, chính sách chuyển hướng chi tiêu và những biện pháp kiểm soát
trực tiếp.
- Cán cân thương mại: Theo lý thuyết chuẩn về thương mại quốc tế: Nếu tỷ
giá thực trong nước tăng lên, tức là có một sự mất giá đồng nội tệ thì các hộ gia đình
trong nước mua ít hơn hàng hóa nhập khẩu trong khi các hộ gia đình ở nước ngoài
mua nhiều hơn một cách tương đối hàng hóa trong nước. Tỷ giá thực trong nước càng
cao thì quốc gia càng đạt được nhiều thặng dư thương mại.
Trong khi đó, theo cách tiếp cận hệ số co giãn (Elasticity Approach), sự điều
chỉnh cán cân thương mại được xem xét trên cơ sở hệ số co giãn của cầu về hàng hóa
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ


Page 8


nhập khẩu và xuất khẩu. Khi đồng nội tệ mất giá, mức giá tính bằng nội tệ thấp hơn
thông thường sẽ làm tăng cầu nước ngoài đối với hàng hóa trong nước, tuy nhiên điều
này chỉ đúng khi cầu nước ngoài là co giãn và ngược lại. Phân tích tương tự có thể áp
dụng đối với trường hợp hệ số co giãn của cầu trong nước. Nếu sự suy giảm trong giá
trị nhập khẩu lớn hơn sự giảm xuống trong giá trị xuất khẩu, cán cân thương mại sẽ
được cải thiện.
Trên cơ sở cách tiếp cận hệ số co giãn, lý thuyết đường cong J được Magee
(1973) đưa ra, tìm hiểu về tác động phá giá đồng tiền của một quốc gia đến cán cân
thương mại theo thời gian. Phản ứng năng động của cán cân thương mại thể hiện một
sự giảm sâu trong ngắn hạn và phục hồi trong dài hạn hình thành một đường cong
giống hình chữ J.
Cách tiếp cận tiêu dùng của trường phái Keynes: phá giá nội tệ mà khiến cho
tiêu dùng chuyển hướng sang hàng hóa trong nước làm thúc đẩy sản lượng đầu ra
mạnh hơn so với khả năng tiêu dùng nội địa thì cán cân thương mại được cải thiện (Ali
và cộng sự, 2014).
5. Đối tượng quản lý của chính sách tỷ giá
Đối tượng quản lý của chính sách tỷ giá chính là tiền. Theo quan niệm tỷ giá
của cơ chế thị trường thì thì tùy vào từng mục đích khách nhau mà phân chia tiền theo
nhiều phương thức, tiêu chuẩn khác nhau.
6. Nhân tố tác động đến chính sách tỷ giá:
- Tỷ lệ lạm phát:Theo nguyên tắc chung, khi một đất nước duy trì tỷ lệ lạm
phát ở mức thấp, giá trị của đồng tiền nước này sẽ tăng lên, bởi sức mua trong nước
tăng lên tương đối so với các đồng tiền khác. Trong nửa cuối của thế kỷ 20, những
nước có lạm phát thấp bao gồm Nhật Bản, Đức và Thụy Sĩ, còn Mỹ và Canada mãi về
sau mới đạt được mức lạm phát thấp. Còn đồng tiền của những nước có lạm phát cao
hơn thường mất giá so với với đồng tiền của các đối tác thương mại của mình. Hiện
tượng này cũng thường đi kèm với lãi suất cao hơn.

- Lãi suất: Lãi suất, lạm phát và chính sách tỷ giá có mối tương quan chặt chẽ.
Bằng cách kiểm soát lãi suất, các ngân hàng trung ương sẽ gây ảnh hưởng đến cả lạm
phát và tỷ giá hối đoái. Ngoài ra, lãi suất thay đổi sẽ tác động đến lạm phát và giá trị
tiền tệ. Một nền kinh tế có lãi suất cho vay cao sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn cho chủ
nợ so với các nền kinh tế khác. Do đó, lãi suất cao thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
làm tỷ giá hối đoái tăng. Tuy nhiên, tác động của lãi suất cao sẽ trở nên tiêu cực, nếu
lạm phát trong nước cao hơn nhiều so với các nước khác, hoặc nếu có thêm những yếu
tố khác làm giảm giá trị đồng tiền. Ngược lại, lãi suất giảm có xu hướng làm giảm tỷ
giá hối đoái.
- Thu nhập quốc dân: Mức độ tăng/ giảm thu nhập quốc dân (TNQD) ở các
nước Nếu TNQD ở một nước tăng (TNQD của nước ngoài không đổi) thì nhu cầu về
hàng hóa và dịch vụ ở nước đó tăng (trong đó có nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ nhập
khẩu từ nước ngoài). Nhu cầu sử dụng ngoại tệ tăng, đồng ngoại tệ tăng giá (TGHĐ
tăng) hay đồng nội tệ giảm giá và ngược lại.
- Tác động của chính phủ: Thông qua chính sách tỷ giálà khi tăng hoặc giảm
mức cung tiền và lãi suất
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 9


- Kỳ vọng: Sự kỳ vọng về sự lên giá hoặc giảm giá của một đồng tiền của các
chủ thể tham gia vào thị trường ngoại hối.
PHẦN II: KINH NGHIỆM THỰC THI CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở MỘT SỐ
NƯỚC
I. Chính sách tỷ giá hối đoái của Hoa Kỳ:
Với vị trí số 1 về kinh tế và vai trò đồng đô la mạnh trong giao dịch tài chính
quốc tế, vì vậy bất cứ động thái nào liên quan đến sự biến động của USD đều được các
nước đặc biệt quan tâm và có tác động rất lớn đến thị trường tài chính quốc tế. Trong
những năm gần đây khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ bị chững lại, cùng với

đó là sự lên xuống bất thường của đồng USD, những diễn biến lên xuống về giá trị của
USD càng được quan tâm.
Vào cuối tháng 5 năm 2003, đồng EUR lên giá vượt cả mức ấn định ban đầu
(vào ngày 01 tháng Giêng năm 1999), lên 1,15 USD/1 EUR, sau khi đã rớt xuống mức
0,86 USD/1 EUR vào tháng 02/2002. Sự thay đổi chính sách của chính quyền Mỹ thể
hiện rõ trong tuyên bố của Bộ trưởng tài chính Jonh Snow tại phiên họp các Bộ trưởng
tài chính vào giữa tháng 05. Theo đó Chính phủ Mỹ chấp nhận giảm giá đồng USD
theo tác động của thị trường. Tuy nhiên, chỉ hai tuần sau, TT G.W.Bush đã đảo ngược
những tuyên bố của Chính phù khi nhắc lại quan điểm ủng hộ “chính sách đồng đô la
mạnh” trong cuộc họp thượng đỉnh G8 tại Evian, Pháp. Sau cuộc họp này đồng USD
lại đi vào ổn định.
Sự mất giá của đồng đô la được coi là diễn biến cần thiết và được mong đợi.
Vào đầu năm 2002, đồng USD đã đạt mức cao đến khó có thể chấp nhận trên thị
trường tài chính và gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, mức độ
mất giá của đồng đô la được cho là vẫn quá ít, không đủ bù đắp khoản thâm hụt
thương mại khổng lồ và nợ quốc tế ngày một tăng của Mỹ. Hiệu quả của USD mất giá
bị hạn chế ở 2 điểm. Trước hết, đồng Đôla mới chỉ mất giá một phần so với phần trị
giá nó đã tăng lên đối với một vài đồng tiền “mạnh” như đồng Euro (và các đồng tiền
tiền nhiệm) kể từ năm 1995. Thứ hai, rất nhiều đối tác thương mại quan trọng của Mỹ
đã cố định hoặc quản lý tỉ giá hối đoái không theo sự điều tiết theo thị trường, điều này
đã dẫn đến sự mất giá của đồng Đôla trong thời gian gần đây. So với các đồng tiền của
các nước đang phát triển- vốn chiếm gần một nửa thương mại với Mỹ- thì trong năm
2002 đồng Đôla thực tế đã lên giá, chứ không phải mất giá. Kết quả là, tỷ giá bình
quân của đồng Đôla với tất cả các đồng tiền khác giảm chưa đủ để bù đắp những thiệt
hại do tỉ giả hối đoái định sai trong vòng tám năm trước đó. Vì những lý do trên, tuyên
bố của chính quyền Bush về việc phục hồi lại “đồng Đôla mạnh” bị coi là một bước đi
sai lầm. cách. Đồng thời việc đồng Đôla rớt giá cũng dẫn đến một số nguy cơ, trong đó
có nguy cơ đồng Đôla có thể rớt giá quá nhiều và quá nhanh, vì thế có thể dẫn đến
khủng hoảng tài chính hoặc làm tăng giá ngoại tệ gây cản trở đến tăng trưởng kinh tế ở
Châu Âu và một số nơi khác. Bởi vậy chính phủ cần quản lý sự mất giá của đồng Đôla

một cách tích cực hơn cũng như hợp tác rộng rãi hơn nữa với các đối tác thương mại
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 10


để ổn định đồng Đôla và đảm bảo rằng việc điều chỉnh này sẽ khôi phục tăng trưởng
toàn cầu chứ không phải là ngược lại.
Việc đồng Đôla lên giá mạnh từ năm 1995 đến năm 2002 và sau đó mất giá đôi
phần trong năm 2002-2003 cũng chỉ là quy luật lên xuống của giá trị tiền tệ khi các
nước công nghiệp lớn chuyển sang áp dụng tỉ giá hối đoái thả nổi từ năm 1973. Đồng
Đôla đã mất giá hầu như trong suốt giai đoạn 1973-1979, nhưng sau đó lại lên giá
mạnh trong thời kỳ 1980 đến 1985, trước khi sụt giảm vào năm 1985-1987. Sau đó,
đồng Đôla mất giá từ từ cho đến giữa năm 1995, khi một lần nữa lại có sự đảo lộn đột
ngột về tỷ giá. Đồng Đôla bắt đầu tăng giá và vào đầu năm 2002 đạt mức cao kỷ lục
chưa từng có kể từ giữa những năm 80.
Việc mất giá đồng Đôla kể từ đầu năm 2002 chỉ lấy đi một phần trị giá nó đã
tăng lên sau năm 1995. Theo các tính toán “tổng quát”, gồm hầu hết các đồng tiền
khác của thế giới, đồng Đôla đã tăng 34% kể từ tháng 7/1995 đến tháng 2/2002, và chỉ
giảm có 9% kể từ 2002. Hình 1 cũng cho thẩy rõ rằng việc đồng Đôla giảm giá mạnh
như vậy vào năm 2003 mới chỉ làm đồng Đôla về ngang mức tỉ giá của năm 1999 chứ
chưa phải là về mức đầu và giữa thập kỷ 90. Mặc dù có nhiều lý do giải thích việc
đồng Đôla tăng giá vào cuối thập kỷ 90 song lý do căn bản nhất chính là sức mạnh của
nền kinh tế Mỹ trong thời kỳ bùng nổ “kinh tế mới”, thời điểm mà phần lớn các nền
kinh tế khác của thế giới đang khá trì trệ. Sức mạnh của đồng Đôla, xét về nhiều mặt,
là hình ảnh phản chiếu sự suy yếu trầm trọng của kinh tế bên ngoài và do đó dẫn đến
việc ngoại tệ mất giá. Mười năm thoái kinh tế của Nhật Bản; tăng trưởng kinh tế chậm,
thất nghiệp cao của Châu Âu lục địa, khủng hoảng tài chính ở Châu Á, và biến động
tài chính tiếp sau đó ở một số nước, từ Nga tới Argentina, khiến dòng vốn đầu tư ào ạt
rút ra khỏi các nước này và chảy vào một nơi “trú ẩn an toàn”: nước Mỹ. Trong khi đó

vào năm 1995-1999, kinh tế Mỹ đạt 6 năm tăng trưởng nhanh liên tiếp với mức lạm
phát thấp. Môi trường kinh doanh vững mạnh và thị trường chứng khoán bùng phát đã
góp phần thu hút đầu tư vào thị trường tài chính Mỹ, do vậy đẩy giá đồng Đôla lên. Sở
hữu nước ngoài đối với tài sản tài chính Mỹ tăng nhanh trong suốt giai đoạn 19962002 đã đẩy giá đồng Đôla lên mỗi năm một cao. Bên cạnh đó còn có một vài sự kiện
khác góp phần đẩy giá đồng Đôla lên cao. Vào giữa thập kỷ 90, chính phủ của một số
nước lớn, đặc biệt là Nhật Bản và Trung Quốc, đã can thiệp ngăn không cho đồng
Đôla tụt giá, tức là làm cho đồng nội tệ của họ lên giá. Những can thiệp này đã làm
tăng giá Đôla một cách hữu hiệu. Một sự kiện quan trọng khác nữa là khủng hoảng tài
chính Châu Á 1997-1998. Có thể hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của sự kiện này nếu
chúng ta phân tích riêng rẽ tỉ giá đồng Đôla với các “đồng tiền mạnh” của các nước
công nghiệp và tỷ giá đồng đô so với đồng tiền của các nước mà Cục Dự trữ Liên bang
gọi là “đối tác thương mại quan trọng khác” của Hoa Kỳ, tức các nước đang phát triển
và các nước trong quá trình chuyển đối kinh tế. So với các đồng tiền “mạnh” (đồng
Euro và các đồng tiền tiềm nhiệm, cộng với đồng Yên Nhật và đồng Bảng Anh và một
vài đồng tiền khác) đồng Đôla bắt đầu lên giá từ giữa năm 1995 và liên tục tăng cho
đến tháng 2 năm 2002. Sau đó, Đôla đã mất giá 17 % song điều này có nghĩa là nó mới
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 11


chỉ giảm có một phần ba nếu so với tỷ lệ 51% trị giá đã tăng so với các đồng tiền này
kể từ tháng 4 năm 1995 đến tháng 2 năm 2002. Tuy nhiên, so với các đồng tiền không
mạnh khác, đồng Đôla không hề lên giá cho tới tận cuộc khủng hoảng tài chính Châu
Á 1997-1998, khi một số đồng tiền lớn ở Châu Á và một số nơi khác bị phá giá đột
ngột (điển hình như đồng Bạt Thái, Đôla Đài loan, đồng Wôn Hàn Quốc, Rupia
Indonesia, Ringit Malaysia, Peso Philipin, Rúp Nga). Kết quả là đồng đô là đã lên giá
so với các đồng tiền này vào năm 1997-1998. Hầu hết các đồng tiền của Châu Á bị
mất giá trong thời gian này đã bắt đầu ổn định vào năm 1999. Tuy nhiên khủng hoảng
tiền tệ tiếp theo ở một số nước đang phát triển khác (như Braxil, Thổ Nhĩ Kỳ và

Argentina) và việc mất giá tiền tệ ở quy mô nhỏ hơn ở vài nơi (như Mexico) làm cho
đồng Đôla lại lên giá hơn nữa so với nhóm tiền tệ này.
Tính đến tháng 5/2003, tỷ giá Đôla so với đồng tiền của các nước đang phát
triển đã tăng 23% so với tỷ giá năm 1997 và không có dấu hiệu gì cho thấy đồng đô sẽ
mất giá. Đây là đồng tiền của những nước chiếm gần một 50% giá trị thương mại và
hơn một nửa thâm hụt thương mại của Mỹ. Chính vì vậy, việc đồng Đôla tiếp tục lên
giá so với các đồng tiền này đã góp phần đẩy giá trị chung của đồng Đôla lên và gây
tác động xấu đến thâm hụt thương mại Mỹ. Trên thực tế, đồng đô tiếp tục lên giá chứ
không phải mất giá so với đồng tiền của các nước chiếm phần lớn thâm hụt thương
mại của Mỹ. Một vài nước đang phát triển (như Argentina) gần đây bị khủng hoảng tài
chính và buộc phải phá giá tiền của mình. Nhưng lý do chính để đồng Đôla ở mức cao
so với các đồng tiền “khác” - đặc biệt là tiền của các nước Đông Á, những nước có
thặng dự lớn trong quan hệ thương mại với Mỹ, là chính phủ của nhiều nước này theo
đuổi chính sách can thiệp vào thị trường ngoại hối. Các nước này bỏ qua tác động điều
tiết của thị trường đối với đồng Đôla. Điều này hiện cũng đang diễn ra với đồng Euro
và các ngoại tệ mạnh khác. Nhiều nước Đông Á hoặc cố định tỷ giá tiền của nước
mình một cách thấp giả tạo hoặc can thiệp quá sâu để giữ tỷ giá thấp (nước áp dụng
biện pháp thứ 2 này là Nhật Bản, một nước có đồng tiền “mạnh”). Việc theo đuổi
chính sách hối đoái bị thao túng như vậy là một bước trong chiến lược tăng trưởng nhờ
vào xuất khẩu, qua đó liên tục đạt thặng dự thương mại với Mỹ và vì vậy xuất khẩu
một cách hữu hiệu thất nghiệp sang nước này. Không phải ngẫu nhiên mà những nước
ủng hộ triệt để chính sách này là những nước chiếm tỷ trọng lớn tới mức hết sức mất
cân đối, thâm hụt thương mại của Mỹ (chỉ riêng Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan
đã chiếm gần 40% thâm hụt thương mại Mỹ năm 2002). Các nước định giá đồng nội tệ
của mình thấp hơn giá trị thực tế (và giữ cho đồng Đôla định giá quá cao) bằng việc
mua Đôla dự trữ. Một vài các nước hàng đầu Châu Á có dự trữ ngoại tệ tăng lên nhanh
chóng kể từ năm 1995. Nhật Bản đã tăng giữ trữ ngoại tệ của mình lên 2,5 lần kể từ
năm 1995 đến năm 2002, vươn lên đứng đầu thế giới với con số 461,3 tỷ Đôla vào
cuối năm 2002. So sánh con số này trong bối cảnh chung có thể thấy dự trữ ngoại tệ
của Nhật Bản vào thời điểm đó gần gấp đối so với dự trữ ngoại tệ của toàn bộ khu vực

Euro (246,6 tỷ đô), cho dù so về nhiều chỉ tiêu kinh tế khác (ví dụ như tổng sản phẩm
quốc nội) khu vực Euro lớn hơn rất nhiều và dự trữ của các nước sẽ gia nhập khu vực
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 12


Euro trong tương lai còn vượt dự trữ của Nhật tại năm 1995 và các năm trước đó. Dự
trữ ngoại tệ của Trung Quốc tăng gần 4 lần kể từ năm 1995 đến năm 2002, đạt 291,2
tỷ, tức là cũng lớn hơn dự trữ của khu vực Euro vào cuối năm 2002. Dự trữ ngoại tệ
của Đài Loan, Hồng Kông và Singapo cũng thật khổng lồ so với quy mô khá nhỏ bé
của các nước này. Những con số này đã tăng lên đáng kể từ năm 1995 đến năm 2002.
Bốn nước công nghiệp mới (NIC) - Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, và Singapore
- tính tổng chung lại đã tích được 646,9 tỷ dữ trữ ngoại hối vào năm 2002, gấp đôi con
số họ có năm 1995 và hơn 2 lần so với khu vực Euro. Tất nhiên, dự trữ quốc tế tăng ở
mức độ nào đó là cần thiết để duy trì khả năng thanh khoản toàn cầu và thúc đẩy
thương mại. Khủng hoảng tài chính cuối thập kỷ 90 cho thấy các nước với dự trữ
ngoại hối lớn hơn đã thành công hơn trong việc tránh cho tiền của mình bị đầu cơ hoặc
chịu tác động bởi khủng hoảng từ các nước khác. Tuy nhiên có thể thấy ngay rằng, số
lượng dự trữ khổng lồ mà các nước Đông Nam Á đã tích cóp được cùng tốc độ tăng
nhanh chóng trong những năm gần đây của họ là bằng chứng cho thấy chính phủ các
nước này đang cố giữ cho đồng tiền của mình định giá thấp và ngăn không cho chúng
tăng tới tỷ giá hối đoái có thể dẫn đến quan hệ thương mại cân bằng hơn với Hoa Kỳ.
Mặc dù việc đồng đô lên giá vào cuối thập kỷ 90 có thể được giải thích bằng các nhân
tố như đã trình bày ở trên, nhưng đợt lên giá gần đây nhất của đồng đô trong thời gian
2000 đến đầu năm 2002 (đặc biệt là so với các đồng tiền mạnh) lại khó có thể giải
thích được. Tại thời điểm này, nền kinh tế Mỹ đã phát triển chậm lại và trải qua giai
đoạn suy thoái, sau đó lại hồi phục chậm chạp một cách bất thường. Cục Dự trữ Liên
bang bắt đầu cắt giảm lãi xuất vào năm 2001 như một nỗ lực nhằm đẩy lùi suy thoái và
thúc đẩy phục hồi kinh tế.

Thị trường chứng khoán Mỹ đã đạt đến đỉnh điểm vào mùa đông 1999-2000,
sau đó tụt giảm khi xảy ra vụ khủng bố tấn công 11 tháng 9 năm 2001 làm lung chuyển
lòng tin vào an ninh quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những biến động ngắn hạn, đồng
Đôla tiếp tục lên giá cho hết tháng hai năm 2002, thị trường chứng khoán lại một lần
nữa tụt giảm, sau một loạt bê bối trong ngành kiểm toán làm người ta không còn tin
vào bảng báo cáo lợi nhuận của các công ty lớn của Mỹ, Việc đồng Đôla tiếp tục lên
giá thậm chí ngay cả khi các chỉ số kinh tế khác không hậu thuẫn dẫn đến việc đồng đô
có thể phát triển theo kiểu “bong bóng đầu cơ” trong giai đoạn từ năm 2000 và đầu
năm 2002 (như đã từng xảy ra vào năm 1984-1985). Bong bóng đầu cơ là hiện tượng
xảy ra khi các nhà đầu tư mua và giữ tài sản với hi vọng rằng các tài sản này sẽ tăng
giá và do đó cầu về tài sản này tăng khiến cho giá của nó tăng như dự kiến. Người ta
gọi kiểu đầu tư này là “sự ước tính tự thành” và điều đó đã xảy ra đúng như vậy ở một
vài thị trường tài sản tài chính, bao gồm thị trường tiền tệ và cổ phiếu. Như đã nêu ở
trên, mặc dầu tồn tại những lý do khách quan dẫn đến việc đồng Đôla tăng giá vào
năm 1995-1999, song lại rất khó tìm ra lý do giải thích cho giai đoạn năm 2000-2001
và đầu năm 2002. Vậy cũng khá hợp lý khi chúng ta phỏng đoán rằng đồng Đôla vẫn
tiếp tục đà lên giá của thập kỷ 90 là do một loạt những “ước tính tự thành cho đến tận
đầu năm 2002. Tuy nhiên, một đặc tính tự nhiên của bong bóng đầu cơ là cuối cùng
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 13


bong bóng đó sẽ vỡ, bởi vì một cái bóng bóng cũng còn ý nghĩa rằng giá trị của một tài
sản đã tăng cao hơn trị giá thực của nó. Mặc dù có nhiều lý do giải thích vì sao đồng
Đôla liên tục lên giá trong suốt gần bẩy năm, song cũng tồn tại những lý do không
kém phần quan trọng khác giải thích vì sao đồng Đôla không thể duy trì mãi tỷ giá kỷ
lục của đầu năm 2002. Đồng Đôla định giá quá cao đã góp phần tạo ra một loạt bất cân
đối vĩ mô. Sự mất cân đối này ngày càng lớn và do vậy việc “điều chỉnh” lớn về trị giá
của đồng Đôla là không thể tránh khỏi. Chúng ta cũng có thể thấy rằng thâm hụt

thương mại đã gần như theo sát xu hướng vận động của đồng Đôla, với biên độ chậm
hơn khoảng một năm. Vào giữa thập kỷ 80 thâm hụt thương mại tăng khi đồng Đôla
lên giá mạnh. Sau đó cán cân thương mại cân bằng dần vào cuối năm thập kỷ 80 và
đầu thập kỷ 90 khi đồng Đôla tụt giá. Đến cuối thập kỷ 90, đầu thập kỷ 20 thậm hụt
thương mại lại tăng lên sau đợt tăng giá gần đây nhất của đồng đô. Thâm hụt thương
mại trong những năm gần đây ngày một gia tăng. Chiều hướng tiêu cực này không chỉ
giới hạn trong thương mại hàng hoá, mà còn thể hiện (thậm chí là khá rõ ràng) trong
nhiều chỉ tiêu lớn khác như cán cân thương mại hàng hoá - dịch vụ và tài khoản vãng
lai trong cán cân thanh toán.Từ năm 1995 đến năm 2002, trong khi thâm hụt thương
mại hàng hoá tăng gần gấp ba, thâm hụt hàng hoá và dịch vụ tăng hơn bốn lần và thâm
hụt tài khoản vãng lai gần gấp năm lần. Số tiền Mỹ phải vay muợn mỗi năm để trang
trải thâm hụt tài khản vãng lai đã tăng lên 5 lần, từ khoảng 100 tỷ USD năm 1995 đến
hơn 500 tỷ USD năm 2002. Kết quả của việc vay muợn liên tục tăng này là nợ quốc tế
ròng của Mỹ (tức là “tài khoản đầu tư quốc tế ròng” - mức chênh lệch giữa tài sản của
Mỹ có ở nước ngoài và tài sản nước ngoài ở Mỹ - ở mức âm) đã nhảy vọt từ 496 tỷ
USD vào cuối năm 1995 lên 2,400 tỷ vào cuối năm 2002. Tổng tài sản tài chính nước
ngoài ở Mỹ: cổ phiếu, tài khoản ngân hàng, chứng khoán v.v trừ đầu tư trực tiếp cũng
tăng hơn hai lần, từ 3300 tỷ vào cuối năm 1995 lên 7700 tỷ vào cuối năm 2002. Việc
các chỉ số này ngày một xấu đi cho thấy tình hình tài chính đối ngoại của Mỹ rất dễ bị
ảnh hưởng. Theo như tình hình hiện nay, Mỹ đã phải vay hơn 500 tỷ USD/năm tức là
khoảng 5% GDP, chỉ để trả cho khoản chênh lệch giữa nhập khẩu và xuất khẩu. Người
ta cũng cần phải trả lãi cho các khoản nợ nước ngoài ngày càng tăng này và do đó cán
cân thanh toán của Mỹ lại càng kiệt quệ hơn. Khi thâm hụt và các khoản nợ thấp hơn,
có thể thị trường tài chính chưa có phản ứng. Tuy nhiên đến năm 2002, con số này đã
đạt tỷ trọng lớn đến mức nó bắt đầu rung chuông cảnh báo đối với các nhà giao dịch
tiền tệ và đầu tư quốc tế khác. Khủng hoảng lòng tin vào hoạt động kế toán của một số
công ty lớn của Mỹ cộng với việc thị trường chứng khoán New York liên tục suy giảm
chắc chắn đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn ra khỏi ra thị trường Mỹ
và do vậy đẩy đông Đôla tụt giá. Trên thực tế, các con số thâm hụt thương mại của một
vài năm gần đây đã đạt mức mà người ta thường cho là ở ngưỡng của khủng hoảng

tiền tệ, mức 5% GDP. Ở một số nước như Mexico vào năm 1994 và Thái lan năm
1997, mức thâm hụt thương mại vượt quá ngưỡng trên đã trở thành tín hiệu để thị
trường tài chính bán tháo những đồng tiền này và đầu cơ dựa vào việc sự phá giá của
chúng. Một khi các nhà đầu cơ trên thị trường tài chính tin rằng một đồng tiền sẽ mất
giá, họ sẽ bán tháo đồng tiền đó, và do đó ép đồng tiền đó sụt giá đúng như dự kiến. Vì
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 14


nước Mỹ áp dụng tỉ giá hối đoái thả nổi (ít nhất là đối với các đồng tiền mạnh như
đồng Euro), nên ngay lập tức có thể thấy tác động tiêu cực của nền kinh tế đến giá trị
của đồng Đôla, không giống như các nuớc khác như Mêhicô hay Thái Lan vốn áp
dụng tỉ giá kìm hãm, những tác động này chỉ thấy ở quỹ dự trữ ngoại hối giảm do các
ngân hàng trung ương cố gắng bảo vệ tỉ giá hối đoái không ổn định. Trong tuơng lai,
các nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần cắt giảm một phần nhỏ các khoản đầu tư tài chính ở
Mỹ là đã có thể tạo ra sức ép đáng kể khiến đồng Đôla giảm giá. Với các khoản nợ quá
hạn trị giá 7,1 tỉ Đôla và thâm hụt tài khoản vãng lai cần bù đắp khoảng 500 triệu
Đôla, việc cắt giảm chỉ khoảng 7% số tài sản nước ngoài này cũng sẽ làm kiệt quệ hệ
thống tài chính Mỹ. Nếu nước Mỹ không tìm ra biện pháp nào khác để bù đắp những
thâm hụt nói trên thì nền kinh tế Mỹ sẽ cần đến những điều chỉnh thật sự khắc nghiệt
(ví dụ đồng Đôla mất giá nghiêm trọng, lãi suất cao, và khủng hoảng kinh tế trầm
trọng) nhằm cân bằng tài khoản vãng lai - như trường hợp xảy ra ở Mêhicô năm 1995,
khủng hoảng kinh tế ở các nước Châu Á năm 1997-98 và ở Ác-hen-tina năm 20012002, khi các khoản cho vay quốc tế dành cho các nước này bị cắt giảm. Khi cân nhắc
những vấn đề do đồng Đôla định giá quá cao gây ra, cũng cần nhận rõ những lợi ích
mà đồng Đôla giá cao mang lại cho nước Mỹ và những lý do khiến cho các quan chức
Mỹ buộc phải thả nổi tỉ giá trong những năm gần đây. Đồng Đôla giá cao đã góp phần
kìm hãm lạm phát trong giai đoạn bùng nổ kinh tế cuối thập kỷ 90 thông qua việc giữ
giá nhập khẩu thấp. Giá nhập khẩu thấp mang lại lợi ích cho người tiêu dùng Mỹ. Lạm
phát thấp đến lượt nó lại khiến cho Cục dữ trữ liên bang phải hạ lãi suất. Lưu lượng

vốn đẩy giá đồng Đôla lên cao hơn cũng góp phần bù đắp thâm hụt thương mại và thúc
đẩy đầu tư trong nước vốn đang phải đối mặt với tiết kiệm nội địa giảm. Đầu tư nước
ngoài vào Mỹ góp phần làm tăng giá trị tài sản, mang lại lợi nhuận cho các thị trường
tài chính Mỹ. Trong khi đó các nhà đầu tư Mỹ lại thu được lợi nhuận từ sức mua bị
lạm phát của đồng Đôla tại thị trường nước ngoài. Trong khi các nhà sản xuất trong
nước, đặc biệt là khu vực sản xuất công nghiệp, chịu tác động của đồng Đôla giá cao,
thì các tập đoàn đa quốc gia lại có thể tránh được những tác động tiêu cực này nhờ
chuyển hoạt động sản xuất ra nước ngoài. Thông qua việc tiến hành hoạt động sản xuất
ở các nước có tỉ giá hối đoái thấp, nghĩa là chi phí sản xuất tính bằng đồng Đôla thấp,
các tập đoàn đa quốc gia Mỹ vẫn có thể thu được lợi nhuận thực sự từ đồng Đôla giá
cao, tuy nhiên các công nhân Mỹ của họ (và cả các công ty không di chuyển hay
không thể di chuyển hoạt động sản xuất ra nước ngoài, ví dụ như ngành công nghiệp
thép) lại không được hưởng những lợi nhuận đó. Tuy nhiên lợi nhuận có được từ đồng
Đôla giá cao không thể duy trì một cách vô hạn định. Trái ngược với những huyền
thoại "nền kinh tế mới" vào cuối thập kỷ 1990, sự lên giá của đồng Đôla trong những
năm 1995-2002 cũng không làm những quy luật kinh tế tài chính quốc tế cơ bản mất đi
giá trị của nó. Bất kỳ nước nào có thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài gia tăng liên
tục cuối cùng cũng phải đối mặt với những điều chỉnh lớn, thường là những điều chỉnh
liên quan tới mất giá tiền tệ và giảm thu nhập. Tình hình cho thấy nước Mỹ cũng khó
có thể tránh được khả năng mất giá của đồng Đôla như trước đây đã phải đối mặt với
sự suy yếu thị trường chứng khoán và khủng hoảng kinh tế – chỉ có điều là mất giá
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 15


tiền tệ thường xảy ra chậm hơn. Nếu nước Mỹ không tiến hành các biện pháp tích cực
hơn nhằm kiểm soát sự mất giá của đồng Đôla thì nguy cơ đầu cơ sẽ xuất hiện, các nhà
đầu tư bắt đầu bán ra Đôla, mua vào Euro và các ngoại tệ khác do dự đoán đồng Đôla
sẽ tiếp tục mất giá thêm nữa. Do tầm quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô của các

nước trong việc quyết định giá trị đồng tiền nước họ so với đồng Đôla, chính phủ Mỹ
đã đàm phán với các đối tác thương mại yêu cầu họ chấp nhận các chính sách cho
phép duy trì liên tục sự tăng giá đồng nội tệ. Đối với các nước Châu âu, Nhật Bản và
các khu vực kinh tế suy thoái, nước Mỹ trước hết thuyết phục họ khôi phục nền kinh tế
thông qua việc sử dụng các biện pháp kích cầu nội địa cũng như thông qua các cải
cách cơ cấu. Có như vậy các nước này mới không cần phải dựa vào đồng nội tệ giá trị
thấp nhằm thúc đẩy xuất khẩu vào nước Mỹ. Những chính sách khuyến khích như vậy
sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu của Mỹ (và các nước đang phát triển) và ngăn chặn
suy sụp kinh tế toàn cầu. Thêm vào đó,nước Mỹ cũng thuyết phục các nước rằng điều
chỉnh tỉ giá đồng nội tệ của họ với đồng Đôla giá trị thấp hơn sẽ có ích trong việc giải
quyết những tranh chấp thương mại với nước Mỹ, ví dụ như cuộc tranh chấp về thép.
Nước Mỹ sử dụng đòn bẩy chính trị nhằm ép các nước này chấm dứt thao túng tỉ giá
hối đoái. Ví dụ, những hỗ trợ cho nỗ lực tự do hoá thương mại trong tương lai và việc
tiếp cận thị trường Mỹ nên được gắn liền với việc thiết lập một tỉ giá hối đoái cho phép
một mối quan hệ thương mại cân bằng hơn.Thêm vào đó, chính phủ Mỹ còn sử dụng
luật thương mại Mỹ 1988, luật này yêu cầu Bộ trưởng Bộ tài chính phải " hàng năm
phân tích chính sách tỉ giá của các nước khác và xem xét liệu các nước ..... có can
thiệp " vào tỉ giá hối đoái của họ hay không. Nếu xuất hiện sự can thiệp, Bộ trưởng Bộ
tài chính được yêu cầu đàm phán với các nước có thặng dư thương mại đáng kể với
nước Mỹ. Điều khoản này được áp dụng cho ba nước (Hàn Quốc, Đài Loan và Trung
Quốc) trong thời chính quyền Bush I, và đã đạt được những mức độ thành công khác
nhau (thành công nhất là trường hợp của Hàn Quốc và ít thành công nhất là với Trung
Quốc). Tuy nhiên điều khoản này lại không được đưa vào sử dụng kể từ năm 1992 cho
đến nay. Ngân hàng trung ương Mỹ cũng tiến hành cải cách cơ cấu tổng thể có thể
ngăn chặn được sự tái diễn của việc điều chỉnh sai tỉ giá hối đoái mà nước Mỹ đã phải
chịu đựng trong vòng tám năm. cho việc ổn định. Mặc dù trong phạm vi của bài viết
này không thể nêu một kế hoạch cụ thể, nhưng có thể thấy, quan trọng nhất là phải
điều chỉnh tỉ giá ở mức mang lại cán cân thương mại cân bằng hơn và cho phép tất cả
các quốc gia phát triển ở mức đáng kể mà không có nạn thất nghiệp. Sự phục hồi hoàn
toàn và ổn định của nền kinh tế toàn cầu phụ thuộc vào tất cả các quốc gia và không

cho phép một số nước phát triển nhanh hơn, thuê nhiều nhân công hơn nhưng chi phí
lại do các đối tác thương mại của họ gánh chịu do họ định giá thấp các sản phẩm.
II. Chính sách tỷ giá của các nước đang phát triển trong khu vực Châu Á
1. Chính sách tỷ giá của các nước Châu Á trong cuộc Khủng hoảng kinh tế
năm 1997
Trong thập kỷ trước thời kỳ khủng hoảng tài chính Châu Á, các quốc gia như
Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Philippin….chủ yếu áp dụng chính sách
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 16


tỷ giá cố định. Các nước này cố định đồng nội tệ vào đồng USD, được gọi là “Asian
dollar standard”.


Tại Thái Lan, nước này duy trì cơ chế tỉ giá cố định có thể điều chỉnh. Trong
giai đoạn 1992-1996, chính phủ Thái Lan duy trì tỷ giá hối đoái cố định gắn với
đồng USD ở mức 1 USD= 25 Baht. Tại mức tỷ giá này, Baht được đánh giá là
có giá trị cao hơn mức cân bằng tính theo USD. Trong năm 1995, đồng USD đã
tăng giá khoảng 20%. Bên cạnh đó, lạm phát ở Thái Lan cao hơn Mỹ (5% so
với 3%) dẫn đến làm đồng Baht càng chịu áp lực tăng giá so với đồng USD.



Tại Ấn Độ, lúc đầu đồng Rupee được điều hành theo cơ chế tỷ giá cố định. Tuy
nhiên, thời kỳ 1976-1998, Ấn độ điều chỉnh tỷ giá theo một chế độ trung gian,
theo đó đồng Rupee và Đô la được thả nổi với một biên độ cố định.




Tại Trung Quốc, thời kỳ 9/1/1981 đến 1/11/1985, biên độ dao động tỷ giá là
rất rộng. Sau đó, Trung Quốc cũng chuyển sang chế độ neo tỷ giả với đồng
USD. Dù Trung Quốc tuyên bố về sự thay đổi của chính sách tỷ giá hối đoái từ
việc cố định với USD đến cố định theo một rổ tiền tệ, tức hướng đến chính sách
tỷ giá thả nổi, nhưng thực tế Trung Quốc vẫn chỉ thực hiện vài thay đổi nhỏ
trong việc điều hành tỷ giá hối đoái và gần như vẫn áp một tỷ giá cố định đơn
giản với USD.



Tại Hàn Quốc, từ năm 1981 đến đầu năm 1995, trên thực tế tỷ giá hối đoái
được neo chặt theo USD. Năm 1995, Hàn Quốc gia tăng tính linh hoạt trong
chính sách tiền tệ làm biên độ giảm xuống còn 0,65. Đây là một chế độ tỷ giá
với sự linh hoạt hơn rất nhiều so với Ấn Độ.
2. Chính sách tỷ giá hiện tại của một số quốc gia Châu Á
2003

2008

2012

Cơ chế tỷ
giá

Chính
sách tiền
tệ

Cơ chế tỷ

giá

Chính
sách tiền
tệ

Cơ chế tỷ
giá

Chính
sách tiền
tệ

Brunei

Hội đồng
tiền tệ

Cố định
vào SGD

Hội đồng
tiền tệ

Cố định
vào SGD

Hội đồng
tiền tệ


Cố định
vào SGD

Cambodia

Thả nổi
điều tiết

Mục tiêu
tổng cung
tiền

Thả nổi
điều tiết

Cố định
vào USD

Thả nổi
điều tiết

Cố định
vào USD

China

Cố định
truyền
thống
khác


Mục tiêu
tổng cung
tiền

Neo
trườn bò

Cố định
vào USD

Neo
trườn bò

Cố định
vào USD

HongKong

Hội đồng
tiền tệ

Cố định
vào USD

Hội đồng
tiền tệ

Cố định
vào USD


Hội đồng
tiền tệ

Cố định
vào USD

Indonesia

Thả nổi

Mục tiêu

Thả nổi

Mục tiêu

Thả nổi

Mục tiêu

Quốc Gia

CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 17


điều tiết


tổng cung
tiền

điều tiết

lạm phát

Laos

Thả nổi
điều tiết

Chính
sách tiền
tệ khác
của IMF

Thả nổi
điều tiết

Cố định
vào USD

Ổn định
tỷ giá

Khác

Malaysia


Cố định
truyền
thống
khác

Cố định
vào USD

Thả nổi
điều tiết

Cố định
vào USD

Khác

Khác

Myanmar

Thả nổi
điều tiết

Cố định
vào USD

Thả nổi
điều tiết

Cố định

vào USD

Cơ chế
điều tiết
khác

Khác

Philippines

Thả nổi
hoàn toàn

Mục tiêu
lạm phát

Thả nổi
hoàn toàn

Mục tiêu
lạm phát

Thả nổi
hoàn toàn

Mục tiêu
lạm phát

Singapore


Thả nổi
điều tiết

Hỗn hợp

Thả nổi
điều tiết

Hỗn hợp

Cơ chế
điều tiết
khác

Hỗn hợp

Thả nổi
hoàn toàn

Mục tiêu
lạm phát

Thả nổi
hoàn toàn

Mục tiêu
lạm phát

Thả nổi
hoàn toàn


Mục tiêu
lạm phát

ThaiLand

Thả nổi
điều tiết

Mục tiêu
lạm phát

Thả nổi
điều tiết

Mục tiêu
lạm phát

Thả nổi

Mục tiêu
lạm phát

VietNam

Thả nổi
điều tiết

Cố định
vào USD


Cố định
truyền
thống
khác

Cố định
vào USD

Ổn định
tỷ giá

Hỗn hợp

South
Korea

lạm phát

Nguồn: Báo cáo cuối năm của IMF (2003,2008,2012)
3. Phân tích chính sách tỷ giá tại Trung Quốc
Chính sách tỷ giá của Trung Quốc thay đổi liên tục trong vài thập kỷ gần đây, từ
áp dụng một tỷ giá đến đa tỷ giá, từ neo vào USD, thả nổi đến thả nổi có kiểm soát.
3.1 Trước năm 1978
Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc trong giai đoạn này thể hiện rõ rệt
đặc tính chính sách tỷ giá hối đoái mà hệ thống các quốc gia Xã hội chủ nghĩa lúc
đó đang áp dụng. Đặc tính này bao gồm: áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định, sử
dụng nhiều loại tỷ giá trong cùng một nền kinh tế, quản lý chặt chẽ ngoại hối và
điều chỉnh tỷ giá hối đoái không hoàn toàn tuân theo các tín hiệu thị trường.
3.2. Thời kì chuyển từ tỷ giá cố định sang thả nổi 1981-1993

Diễn biến tỷ giá NDT luôn gắn liền với các chính sách cải cách tỷ giá của Trung
Quốc và có thể minh họa qua biểu đồ 1:
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 18


Biểu đồ 1: Tỷ giá hối đoái giữa NDT với Đô la Mỹ giai đoạn 1980 – 2010
Nguồn:
Quỹ Tiền
quốc tế
IMF

tệ




m

1979-1980: Tỷ giá được giữ cố định, 1USD = 2RMB.
Năm 1981-1985: Trung Quốc bước đầu thực hiện chế độ chính sách tỷ giá duy
nhất “phá giá”. Đồng NDT hạ giá, từ 1USD = 2RMB lên tới 1USD = 3 RMB.
• Năm 1986-1990: Tiếp tục với với chính sách thả nổi đồng NDT, RMB tiếp tục
được phá giá cao, từ 1USD =3 RMB lên tới 1USD ≈ 4RMB.
• Năm 1991-1993: Chính sách thả nổi mang lại hiệu quả nhất định, đồng NDT tiếp tục
được hạ giá với biên độ rộng, từ 1USD = 4RMB lên 1USD ≈ 6 RMB.


Từ 1/1/1981, Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải cách tỷ giá lần đầu tiên với việc

áp dụng một tỷ giá cho các giao dịch thương mại nội bộ. Năm 1981 cũng là năm mà
thị trường trao đổi ngoại hối của Trung Quốc ra đời thúc đẩy mạng lưới thanh toán dựa
vào thị trường ngoại hối chính thức trên phạm vi toàn quốc. Cũng kể từ thời điểm này
trở đi Trung Quốc tiến hành hàng loạt các biện pháp phá giá đồng NDT và những cải
cách trong điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Từ năm
1984 đến 1993, Trung Quốc xóa bỏ chính sách tỷ giá mang đặc tính quan liêu, bao cấp.
Trung Quốc để cho tỷ giá ấn định linh động theo sát với những diễn biến của tỷ
giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố thị trường vào trong cơ
chế xác định tỷ giá đối với hầu hết các nước tiến hành chuyển đổi cơ chế quản lý nền
kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và định hướng
của nhà nước.
3.3 Chính sách tỷ giá của Trung Quốc giai đoạn 1994-1997.
Đây là thời kỳ Trung Quốc phá giá mạnh đồng NDT và thống nhất 2 tỷ giá
hướng tới 1 đồng NDT có khả năng chuyển đổi.
Năm 1994 chứng kiến nhiều cải cách kinh tế vĩ mô lớn, bao gồm cả những đổi
mới trong thị trường ngoại hối - chế độ đa tỷ giá được thay bằng một tỷ giá. Ngày
1/1/1994, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc công bố thống nhất tỷ giá chính thức và
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 19


tỷ giá trao đổi thực tế trên thị trường của đồng NDT. Tỷ giá đồng NDT từ 5.8
NDT/USD xuống 8.7 NDT/USD, tỷ lệ điều chỉnh (thực chất là phá giá đồng NDT) lên
tới 50%. Kết hợp với tỷ lệ đồng CNY bị đánh giá thấp 0,14% thời kỳ 1990 - 1993, tỷ
lệ phá giá thực tế là 50,14%.
Chế độ tỷ giá theo như công bố của NHTW đã được chuyển sang thả nổi có
quản lý. Theo đó, chỉ còn lại một loại tỷ giá do thị trường quyết định, đó là tỷ giá liên
ngân hàng. Trong thời gian sau đó, đồng NDT đã tăng giá khoảng 4,8%. Tuy nhiên,
thực chất vẫn là chế độ tỷ giá cố định neo với USD. Trong suốt thời gian xảy ra khủng

hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997, đồng NDT được neo cố định ở mức 8.28
NDT/USD.
3.4 Chính sách tỷ giá giai đoạn từ 1997 đến tháng 07/2005
Với mục tiêu duy trì ổn định đồng NDT yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu, tăng
trưởng kinh tế cao và giảm những cú sốc từ bên ngoài, chính sách tỷ giá duy trì ổn
định đồng NDT “yếu” trong giai đoạn 1997-7/2005 tiếp tục phát huy tác dụng.
Đến cuối năm 1996, NDT đã có thể được chuyển đổi hoàn toàn trên tài khoản
vãng lai để phục vụ cho các mục đích liên quan đến thương mại. Tỷ giá hối đoái danh
nghĩa của CNY so với USD tăng ở mức chậm nhưng đều đặn lên 8,3 NDT đổi 1USD
vào năm 1997. Sau khủng hoảng tài chính châu Á, Chính phủ Trung Quốc đã cố định
tỷ giá ở mức 8,27 NDT/ 1USD. Trong 8 năm tiếp theo (đến tháng 7/2005), tỷ giá này
vẫn được duy trì ở mức 8,5NDT/USD, với biên độ dao động nhỏ nhằm tạo ra môi
trường ổn định cho ngoại thương và đầu tư vào quốc gia này.
3.5. Chính sách tỷ giá của Trung Quốc giai đoạn từ 2005 đến nay
- Từ tháng 7/2005 đến tháng 7/2008
Với mục tiêu cân bằng cán cân vãng lai, tự do hóa dòng vốn, ngày 21/7/2005,
NHTW Trung Quốc tuyên bố áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, chuyển từ chế
độ tỷ giá hầu như cố định sang chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao động
rộng được điều chỉnh định kì, thể hiện:
 Tỷ giá xác định dựa trên một rổ gồm 11 đồng tiền: USD, Euro, Bảng Anh, Yên

Nhật, Won Hàn Quốc, Ruble Nga, Đô Hồng Kông, Đô Úc, Đô Canada, Franc
Thụy Sỹ, Bath Thái.
 Đồng NDT tăng giá 2,1% ở mức 8,11 NDT/USD (trước đó đồng NDT được neo

cố định với tỷ giá 8,28 NDT/USD ) và có biên độ dao động là 0,3%.
 Tỷ giá này được NHTW Trung Quốc kiểm soát và điều chỉnh định kỳ.

- Từ tháng 7/2008 đến tháng 6/2010
Sau 3 năm thả nổi tỷ giá, đồng NDT đã tăng giá đều đặn, tỷ giá NDT/USD đã

tăng thêm khoảng 20% ở mức 6,83 NDT/USD. Đến tháng 7/2008, Chính phủ và
NHTW Trung Quốc đã thu hẹp biên độ dao động của đồng NDT, quyết định quay trở
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 20


lại chế độ tỷ giá cố định, tỷ giá được giữ tương đối ổn định ở mức 6,8 NDT/1 USD,
với mục tiêu khuyến khích xuất khẩu nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính toàn
cầu, ổn định kinh tế và cân bằng cán cân vãng lai.
- Từ tháng 6/2010 đến 8/2015
Tháng 6/2010, khi tình hình kinh tế trong nước và thế giới ổn định, Trung Quốc
quay trở lại thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Trong cuộc cải cách lần này,
tỷ giá được xác định vẫn dựa trên quan hệ cung cầu thị trường có tham chiếu đến rổ
các đồng tiền, nhằm mục tiêu hạn chế xuất khẩu, kích cầu tiêu thụ nội địa, đảm bảo ổn
định thị trường tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Ngày 22/06/2010, sau khi Trung Quốc cho phép tỷ giá linh hoạt trở lại, đồng
NDT tăng giá lên mức 6,7980 NDT/USD, với biên độ dao động 0,5%. Trong giai đoạn
này, Trung Quốc duy trì chế độ tỷ giá thả nổi, tăng giá đồng NDT và đã 2 lần thực hiện
nới lỏng biên độ dao động đồng NDT, tháng 4/2012, biên độ được nâng từ 0,5% đến
1% và tiếp tục nâng lên 2% vào tháng 3/2014.
Kể từ năm 2010, tỷ giá giữa đồng NDT và USD đã có nhiều thay đổi. Đồng
NDT có xu hướng tăng giá ngày càng mạnh so với đồng USD. Tính đến thời điểm
ngày 26/10/2014, tỷ giá giữa đồng NDT và USD là 6,1193 NDT/USD, tăng giá hơn
nhiều so với mức 6,7980 NDT/USD năm 2010. Tuy đồng NDT đã lên giá rất nhiều so
với đồng USD kể từ khi Trung Quốc thực hiện cải cách chế độ tỉ giá năm 2005, nhưng
thực chất đồng NDT vẫn được định giá thấp hơn so với thực tế. Trong nửa đầu năm
2014, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện nghiệp vụ mua ngoại tệ với quy mô lớn nhằm
kìm hãm sự giảm quá mức của tỉ giá NDT/USD.
- Từ tháng 8/2015 đến nay

Từ 2015 đến nay, nhằm theo đuổi mục tiêu quốc tế hóa đồng CNY, chính phủ
Trung Quốc tuyên bố kiên trì theo đuổi cơ chế điều hành tỷ giá Thả nối có kiểm soát tỷ giá được xác định bởi thị trường, nghĩa là không có tỷ giá chính thức được công bố;
NHTW chủ động can thiệp để làm mềm sự biến động của tỷ giá; Chính phủ có một
mức tỷ giá mục tiêu ngầm với tỷ giá.
Theo đó, tỷ giá tham chiếu của đồng tiền này sẽ được Ngân hàng Nhân dân
Trung Quốc (PBOC) ban hành vào đầu mỗi phiên dựa trên kết quả giao dịch của phiên
hôm trước và cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do
vẫn sẽ xoay quanh mốc tỷ giá tham chiếu với tỷ lệ 2%.
Ngày 11/8/2015, NHTW Trung Quốc thiết lập tỷ giá tham chiếu ở mức 6,2298
NDT/USD, thấp hơn 1.9% so với mức tỷ giá ngày 10/8, đánh dấu mức sụt giảm sâu
nhất trong 20 năm. Tiếp đó ngày 12/8, NDT tiếp tục mất giá 1,6% và ngày 13/8 mất
giá mạnh xuống mức 6,4010 NDT/USD, sau đó NHTW Trung Quốc điều chỉnh tăng
giá nhẹ 0,05% lên 6,3975 NDT/USD.

CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 21


Với động thái phá giá đồng nội tệ lên đến 4,6% chỉ trong 4 ngày, Trung Quốc
đã gây rung động thị trường tiền tệ nhiều nước trên thế giới, hàng loạt quốc gia, bao
gồm Việt Nam, đã phải điều chỉnh tỷ giá nhằm đối phó với ảnh hưởng này.
PHẦN III: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
I. Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá trong những năm gần đây
1. Năm 2013
Trong năm 2013, bằng những biện pháp điều hành chính sách tỷ giá của Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) được thực hiện nhất quán và linh hoạt đã mang lại thành công trên
thị trường ngoại hối. Đây là cơ sở để NHNN duy trì sự ổn định tỷgiá VND/ USD, thị
trường ngoại hối, chống “đô la hóa”.
Những thành công đạt được trong điều hành chính sách tỷgiá VND/USD được

thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, NHNN đã chủđộng vàtựtin trong điều hành nhịp nhàng chính sách tỷ
giávà thị trường ngoại hối; Chủ động đưa ra những cam kết mạnh mẽ trong điều hành
chính sách ổn định tỷgiá để thể hiện quyết tâm của cơ quan điều hành, ổn định tâm lý
thị trường và định hình kỳ vọng về tỷgiá của công chúng. Kết quả là, kết thúc năm
2013, tỷgiá chỉ được điều chỉnh biến động ở mức trên dưới 1% (cam kết điều chỉnh
không vượt quá 2-3%), phù hợp với cân đối vĩ mô và cán cân thanh toán quốc tế; Thực
hiện các biện pháp tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước và chống “đô la hóa” trong nền
kinh tế thành công.
Thứ hai, NHNN đã chủ động thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất trong những
tháng cuối năm. Đây là biện pháp nổi bật nhất trong công tác điều hành chính sách
tỷgiá trong suốt năm 2013. Điều này đã góp phần tháo gỡ khó khăn, giảm áp lực chi
phí vay vốn của các doanh nghiệp và hộ dân, qua đó hỗ trợ tăng tổng cầu của nền kinh
tế. Cùng với đó, phối hợp giữa điều hành lãi suất và tỷgiá hướng tới đảm bảo lợi ích
nắm giữ đồng nội tệ (VND), khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu bán lại ngoại tệ
cho các tổ chức tín dụng, ổn định kỳ vọng lạm phát và ổn định tỷgiá theo cam kết điều
hành.
Thứ ba, chênh lệch giữa tỷ giáchính thức vàtỷ giátrên thịtrường tựdo vẫn tiếp
tục duy trì khoảng cách thu hẹp là dưới 50 VND/1USD. Có thể thấy, diễn biến tỷgiá
trong năm 2013 chịu áp lực tăng giá theo bối cảnh thị trường tài chính trong nước và
quốc tế. Trong đó, đáng chú ý là đợt tăng giá dài nhất hồi cuối tháng 4/2013, khi một
số ngân hàng thương mại (NHTM) đã nâng giá USD lên kịch trần cho phép (21.036
VND/USD), thậm chí tăng giá mua bằng giá bán lên kịch trần 21.036 VND, giá bán
USD trên thị trường tự do lên tới 21.320 VND.

Tuy nhiên, đến cuối tháng 5/2013, dù NHNN đã bán ngoại tệ can thiệp nhưng
trên thị trường tỷgiá vẫn tăng và diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, ngày
27/6/2013, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷgiá bình quân liên ngân hàng thêm 1% lên
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ


Page 22


mức 21.036 VND/USD, sau hơn 1 năm ổn định ở mức 20.828 VND/USD. Đồng thời,
NHNN cũng điều chỉnh tỷgiá mua ngoại tệ lên 21.100 VND từ ngày 7/8/2013 và tiếp
tục mua ngoại tệ từ các tổ chức tín dụng tại mức giá này. Diễn biến tỷgiá trong những
tháng cuối năm 2013 có xu hướng ổn định khi giá USD giao dịch tại các NHTM giao
động quanh mức 21.140 VND. Trên thị trường tự do, giá USD phổ biến ở mức 21.180
- 21.200 VND.
Như vậy, NHNN đã điều hành chính sách tỷgiá ổn định, tỷgiá dao động trong
biên độ cho phép, không có đột biến về nhu cầu ngoại tệ trên thị trường. Chênh lệch
tỷgiá chính thức và tỷgiá trên thị trường tự do được thu hẹp, tỷlệ “đô la hóa” giảm
mạnh. Tỷgiá ổn định đã góp phần tích cực trong việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư
nước ngoài, tăng dự trữ ngoại hối.
2. Năm 2014
Năm 2014 là năm được đánh giá là năm thành công trong vấn đề ổn định tỷ giá
của NHNN, khi mà mức biến động tỷ giá chỉ ở mức 1% (Tỷ giá bình quân liên ngân
hàng trong giai đoạn tháng 6/2014 đạt mức 21.246 VND). Với cam kết cứng rắn rằng
sẽ ghim giữ tỷ giá ổn định, NHNN đã thực hiện rất tốt lời hứa của mình đồng thời tạo
ra được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, bằng chứng là chỉ số lạm phát trong năm
2014 rất thấp (khoảng 3,95%) mức thấp nhất trong 15 năm trở lại đây.
Theo đánh giá của giới chuyên gia, năm 2014 được xem là năm khá ổn định của
cặp tỷ giá USD/VND. Dẫu vậy, từ đầu năm đến nay, tỷ giá USD/VND có 3 đợt “tăng
nóng” bất thường.
Đợt “sóng” đầu tiên diễn ra vào khoảng thời gian từ cuối tháng 5 đầu tháng 6,
sau khi liên tục duy trì sự ổn định trong suốt quý I cũng như tháng 4, thị trường ngoại
hối có dấu hiệu nóng lên và đã có những biến động khá mạnh. Đến chiều 18/6, Ngân
hàng Nhà nước đã công bố điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt
Nam và USD áp dụng từ ngày 19/6 từ mức 21.036 VND/USD lên 21.246 VND/USD,
tương đương tăng 1%.

Với biên độ tỷ giá +/- 1% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá trần tại
ngân hàng thương mại kể từ ngày 19/6 là 21.458 USD/VND, tỷ giá sàn là 21.034
USD/VND. Đây là lần đầu tiên trong gần một năm, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ
giá trước những biến động trên thị trường.
Đợt “sóng” thứ 2 xuất hiện là do kỳ vọng điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà
nước sau phiên trả lời chất vấn Ủy ban Thường trực Quốc hội (29/9) của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước. Tại phiên đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề cập đến khả
năng nếu có điều chỉnh thì năm nay ở khoảng 1-1,43%; tức vẫn còn 0,43% chưa dùng
tới.
Ngay sau phiên trả lời chất vấn, từ 1/10, tỷ giá đã biến động, có ngân hàng đã
điều chỉnh tăng thêm 10 VND/USD. Tuy nhiên, với sự can thiệp của Ngân hàng Nhà
nước bằng thông điệp sẽ không điều chỉnh tỷ giá trong năm nay, thị trường đã đi vào
ổn định.
CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 23


Đợt “sóng” thứ 3 mới diễn ra vào ngày 18/11, khi tỷ giá USD/VND biến động
mạnh, có thời điểm đạt mức 21.420 đồng/1 USD. Mức tăng tới 50 VND chỉ trong
vòng 1 giờ đầu ngày - gây bất ngờ vì mức tăng quá đặc biệt, vì sự mạnh bạo đó thường
chỉ có ở những thời điểm xáo trộn từ 2011 trở về trước.
3. Năm 2015
Với kết quả của năm 2014, NHNN tiếp tục đặt chỉ tiêu không để tiền đồng mất
giá quá 2% so với USD trong năm 2015.Tuy nhiên chỉ trong vòng hơn 1 tháng kể từ
khi bước sang năm mới ngân hàng nhà nước đã nâng tỷ giá thêm 1% trước sức ép phục
hồi của kinh tế Mỹ. Chưa dừng lại ở đó, ngay trong tháng 5, NHNN lại tiếp tục nâng tỷ
giá thêm 1%. Điều này cũng đã được dự báo trước chính sách điều chỉnh tỷ giá của các
quốc gia khác khi đồng USD tăng giá.
Trên thực tế, ngay sau khi NHTW Trung Quốc bất ngờ phá giá đồng CNY vào

ngày 11/8/2015, ngày 12/8/2015, NHNN đã linh hoạt, kịp thời điều chỉnh biên độ tỷ
giá giữa Đồng Việt Nam và Đô la Mỹ tăng từ +/-1% lên +/-2%. Tiếp đó, để tiếp tục
chủ động dẫn dắt thị trường, xóa bỏ tâm lý kỳ vọng, đón đầu các tác động bất lợi của
khả năng Fed tăng lãi suất và biến động của thị trường tài chính thế giới, ngày
19/8/2015, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam
và USD thêm 1%, đồng thời mở rộng biên độ tỷ giá từ +/-2% lên +/-3%1. Việc điều
chỉnh cũng đã được truyền thông rất rõ ràng đến thị trường nhằm giải thích rõ lý do
điều chỉnh là nhằm trung hòa, bảo vệ nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài. Kết quả
là thị trường đã đón nhận động thái này một cách hoan nghênh, các tổ chức tài chínhtiền tệ quốc tế (IMF, WB), Ngân hàng quốc tế (HSBC, ANZ, Standard Chartered,
Citibank…) ủng hộ và đánh giá cao là phản ứng “chủ động”, “cần thiết”, “nhanh
nhạy” và “kịp thời”. Tỷ giá và thị trường ngoại hối đã nhanh chóng đi vào ổn định,
tâm lý thị trường được giải tỏa.Theo đó, đến cuối năm 2015, tỷ giá USD/VND là
22.500.
Thêm vào đó, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã khiến đầu cơ, găm giữ
đồng USD trở thành một thói quen trong nền kinh tế. Khi thị trường quốc tế biến động,
tâm lý găm giữ tăng cao, các tổ chức kinh tế chưa có nhu cầu USD thực cũng đẩy
mạnh mua ngoại tệ để phòng thủ, tạo ra vấn nạn cầu ảo đối với đồng USD, gây áp lực
lên tỷ giá. Để giải quyết vấn đề này, NHNN đã có những bước đi và giải pháp được
đánh giá là sáng tạo nhằm hạn chế hoạt động đầu cơ đồng USD trên thị trường. Trong
đó đáng chú ý nhất là việc giảm lãi suất đối với đồng USD qua đó tăng tính hấp dẫn
của tiền đồng, điều chỉnh lãi suất tiền đồng trên thị trường liên ngân hàng ở mức phù
hợp nhằm hạn chế các ngân hàng đầu cơ ngoại tệ và ban hành Thông tư 15/2015/TTNHNN quy định các TCTD chỉ được bán kỳ hạn cho các nhu cầu ngoại tệ trước ngày
thanh toán từ 3 ngày trở lên nhằm xóa bỏ tình trạng cầu ảo do các doanh nghiệp mua
ngoại tệ trước hạn. Kết quả là thị trường ngoại tệ ổn định, tỷ giá trên thị trường giảm
xuống dưới mức tỷ giá bán của NHNN và phản ánh sát hơn cung-cầu thực của nền

CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 24



kinh tế. Các TCTD đã tự cân đối được ngoại tệ và gần đây không phải xin mua ngoại
tệ từ NHNN.
Với việc điều hành tỷ giá mang tính chủ động và linh hoạt hơn, tỷ giá và thị
trường ngoại tệ trong giai đoạn này đã ổn định hơn so với giai đoạn trước, tỷ giá giao
dịch của các NHTM diễn biến linh hoạt trong biên độ cho phép. Thanh khoản ngoại tệ
toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam được cải thiện, lòng tin vào giá trị của đồng Việt
Nam được củng cố, tình trạng đô la hóa giảm mạnh, các TCTD có xu hướng mua ròng
ngoại tệ từ khách hàng và bán lại cho NHNN, cán cân thanh toán cải thiện dần và đang
thặng dư ở mức cao. NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung tăng dự trữ ngoại
hối nhà nước.

(Diễn biến tỷ giá năm 2014-2015)

4. Năm 2016
Ngày 31/12/2015, NHNN đã ban hành Quyết định số 2730/QĐ-NHNN về việc
công bố tỷ giá trung tâm của Đồng Việt Nam với Đô la Mỹ, tỷ giá tính chéo của Đồng
Việt Nam với một số ngoại tệ khác. Theo cơ chế này, tỷ giá trung tâm của VND với
USD do NHNN công bố hàng ngày là cơ sở để các NHTM xác định tỷ giá mua, tỷ giá
bán của VND với Đô la Mỹ. Từ ngày 04/01/2016, Việt Nam thực hiện cơ chế tỷ giá
trung tâm, theo đó NHNN công bố tỷ giá trung tâm hàng ngày với biên độ +/-3%, bám
sát diễn biến trên thị trường trong nước và quốc tế.
Tỷ giá trung tâm được NHNN tính toán dựa trên 3 cấu phần, bao gồm: (i) Diễn
biến tỷ giá trên thị trường quốc tế của 8 đồng tiền của các nước, vùng lãnh thổ có quan
hệ thương mại, đầu tư lớn với Việt Nam (gồm Nhân dân tệ (Trung Quốc), Baht (Thái
Lan), SGD (Singapore), Euro (EU), Won (Hàn Quốc), TWD (Đài Loan), Yên (Nhật
Bản) và USD); (ii) Diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng ngày hôm trước; và (iii) Các cân đối tiền tệ vĩ mô. Cân đối vĩ mô liên quan
đến các vấn đề cả kinh tế trong nước lẫn quốc tế, bao gồm về đầu tư, thanh toán,
thương mại. NHNN sẽ không can thiệp bằng tay một cách chủ quan lên tỷ giá (Tùng

CH27L/NHÓM 1/CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

Page 25


×