Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích quan điểm cơ bản của hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc (bài tập lớn tư tưởng HCM 8đ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.74 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC........................................................................................................................1
I. MỞ ĐẦU.......................................................................................................................2
II. NỘI DUNG.................................................................................................................2
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng.......................................................................2
2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng..........................................................4
3. Đại đoàn kết dân tộc để thực hiện khối đoàn kết toàn dân......................................................................5
4. Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng...................6

1


I. MỞ ĐẦU
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn
luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát
triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến
lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc
bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên
cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo,
phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh
nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong
sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài: “Phân tích quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc.” để làm bài tập học kỳ. vì mức độ nhận thức cũng như kỹ năng
còn nhiều hạn chế nên bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong
nhận được sự góp ý từ các thầy các cô để bài làm được hoàn thiện hơn.

II. NỘI DUNG
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng.


Tại sao lại khẳng định đại đoàn kết dân tộc là vấn đề cơ bản, lâu dài và xuyên
suốt toàn bộ quá trình Cách mạng Việt Nam? Trước hết phải thấy, tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc của Hồ Chí Minh trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với Cách mạng
trong nước. Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ra cuối thế kỳ
XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn kết
được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công
phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã
hội mới; muốn có lực lượng các mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng
cách mạng thành một khối vững chắc. Như chúng ta đã biết, Cách mạng Việt Nam đứng
trước nhiều kẻ thù, hơn chúng ta ở hầu như tất cả các phương diện khách quan. Về kinh
tế, chúng ta yếu kém hơn. Về kĩ thuật, chúng ta lạc hậu hơn. Và dời sống nhân dân hết
sức cực khổ cũng là một yếu tố khiến cuộc Cách mạng tại Việt Nam vào thời điểm đó
càng trở nên khó khăn...Đó cũng là thời điểm Hồ Chí Minh đặt ra vấn đề xây dựng khối
2


đại đoàn kết dân tộc. Đây là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhân dân, nhằm hình thành
sức mạnh to lớn, mọi thứ vũ khí đặc biệt của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
của dân tộc và giai cấp.
Do đó, đại đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố
bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chiến lược đó được Hồ Chí Minh tổng kết thành những luận điểm có tính chân lí như:
“ Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”
“ Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”
“ Đoàn kết..., là then chốt của thành công”
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công!”
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi
sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó
vạn lần dân liệu cũng xong”. Đồng thời, Người lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa

tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết
nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó, Người yêu cầu
Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp, tầng
lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao
động. làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và nhân
dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách mạng vô
sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản
vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó Người quan tâm
nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng.
Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng có thể và cần thiết
phải điều chỉnh lại chính sách, phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối
tượng khác nhau trong cộng đồng các dân tộc trên khắp cả nước. Đây cũng là một trong
những lí do để khẳng định tính lâu dài và xuyên suốt cần phải được xem xét tới đối với vẫn

đề đại đoàn kết dân tộc. Có như vậy, chiến lược đại đoàn kết dân tộc mới phát huy hết
được vai trò to lớn của mình. Đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Hồ Chí Minh nhận
thức là vấn đề sống còn của cách mạng, và thực tế lịch sử của chúng ta đã chứng minh,
Cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi và đạt được những thành tựu như ngày hôm
nay chính là nhờ một phần đóng góp to lớn của việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc.

3


2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy rõ việc
Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu của
cách mạng. Do đó, trước hết phải khẳng định đó là tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được
quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vì Đảng là lực lượng lãnh
đạo duy nhất đối với Cách mạng Việt Nam, sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết nhất trí và

sự đoàn kết của Đảng là hạt nhân đoàn kết trong tất cả các tổ chức chính trị- xã hội và trong
cả xã hội.
Thêm nữa, đại đoàn kết toàn dân cũng phải là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong
mọi giai đoạn phát triển của Cách mạng. Chỉ có quán triệt tư tưởng như vậy, đại đoàn kết
dân tộc mới thực sự phát huy được sức mạnh vốn có của nó.
Và cuối cùng, xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn
đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng.
Hồ Chí Minh còn cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân tộc. Mục tiêu của Đảng
được thể hiện trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951,
Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: Mục đích của Đảng Lao
động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ Quốc” và
nhiệm vụ là tuyên truyền, huấn luyện làm sao cho mọi người dân ai ai cũng hiểu được và
làm được. Ví dụ : “ Một là đoàn kết toàn dân. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bà là đấu
tranh thống nhất nước nhà”. Chỉ có như vậy thì mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng mới trở
thành mục tiêu, nhiệm vụ của cả dân tộc và đại đoàn kết dân tộc mới trở thành một đòi hỏi
khách quan của bản thân quần chúng trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, là sự nghiệp của
quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng.
Trong việc thực hiện mục tiêu nhiệm vụ ấy, Đảng có sứ mệnh thức tỉnh tập hợp, đoàn
kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự
do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người, hướng dẫn chuyển những đòi hỏi khách quan,

tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức và thành
sức mạnh.

4


3. Đại đoàn kết dân tộc để thực hiện khối đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm đồng nghĩa thường được dùng là dân,

nhân dân, đồng bào, quần chúng nhân dân, quốc dân...ở đây, khái niệm “dân” được dùng
với tư cách khái niệm chung cho tất cả. Khái niệm “dân” vừa được hiểu là một tập hợp
đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ
mọi công dân nước Việt Nam, con Rồng cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ, trai, gái,
giàu, nghèo, quý, tiện, tín ngưỡng... Như vậy, “dân” được hiểu là chủ thể của đại đoàn
kết dân tộc. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người
dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Tuy nhiên, khái niệm “dân tộc”, với nghĩa
vốn có của nó lại bị giới hạn bởi phạm vi lãnh thổ quốc gia. Vì vậy, thực tế đại đoàn kết
dân tộc nói riêng chưa thực sự phát huy hết sức mạnh đoàn kết của nhân dân, mà phải
hướng tới mục tiêu cao hơn nó, đó là đại đoàn kết toàn dân. Toàn dân ở đây là kết hợp
giữa đồng bào cả trong và ngoài nước, cũng tức là kết nối được không chỉ người dân ở
trong nước mà còn cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Chỉ khi đó, khi mà
toàn thể nhân dân, không kể vùng miền, điều kiện, không kể tín ngưỡng, tôn giáo...đều
quy về một mối, hình thành sức mạnh đoàn kết không gì có thể phá vỡ. Hồ Chí Minh đã
nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta
còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ
quốc và phụng vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi,
Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối
đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn
giáo.
Muốn thực hiện được địa đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với
con người.Người đã nhiều lần nhắc nhở: “ Bất kì ai mà thật thà tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta
cũng thật thà đoàn kết với họ”. Để thực hiện đoàn kết người còn căn dặn: Cần xóa bỏ hết
mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục
vụ nhân dân.
Mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền độc lập,
thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống ự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và nền tảng
5



của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng đồng thời là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân,
là liên minh công, nông và lao động trí óc. Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên
minh công – nông – trí thức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối
đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ:
Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta
là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Người coi nông dân
cũng là nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các
tầng lớp dân tộc khác. “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông,
cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”.Về sau: người
nêu thêm: lấy liên minh công – nông – lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn
kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng
được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân
tộc.
4. Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách mạng
xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng
lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách
mạng, trở thành khẩu hiệu của toàn Đảng, toàn dân. Cũng theo Người, dân tộc hay quần
chúng nhân dân khi chưa được tổ chức và giác ngộ về lợi ích, mục tiêu, lí tưởng thì chỉ
là số đông chưa có sức mạnh. Nhưng khi được tổ chức, giác ngộ và hoạt động theo một
đường lối chính trị đúng đắn sẽ trở thành sức mạnh vô địch tức là cả dân tộc hay toàn
dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục
tiêu chiến đấu chung, được tổ chức thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường
lối chính trị đúng đắn; nếu không; quần chúng nhân dân có hàng triệu,hàng triệu con người
cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh. Quy tụ quần chúng nhân dân vào một tổ chức

yêu nước phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng là sự quan tâm ngay
từ đầu của Hồ Chí Minh và là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta.
6


Và thực tế đã cho thấy tổ chức thể hiện sức mạnh vật chất của khối đại đoàn kết dân
tộc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó, chính là sức
mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Mà sức mạnh mà Người đã tìm
được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc
đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng lớp,
từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo. Đó là các già làng, trưởng bản, các
hội ái hữu, tương trợ, công hội,nông hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi
đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc,công giáo yêu nước, các nghiệp đoàn,v…v…,
bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá
nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn cả những
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất kì phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng
về quê hương, đất nước, về Tổ quốc Việt Nam…
Mặt trận có thể có tên gọi khác nhau nhưng tựu chung lại chỉ là một tổ chức chính
trị rộng rãi tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức
và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu độc lập, thống nhất của
Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân, như: Hội phản đế đồng minh (năm 1930), Mặt
trận Liên Việt (năm 1946), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (năm 1960), Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (năm 1955 và 1976). Tùy theo từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng, Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kì,từng giai đoạn cách mạng.
Mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng và hoạt động theo những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh
công nông (về sau Người nêu thêm là liên minh công- nông- lao động trí óc), dưới sự lãnh

đạo của Đảng cộng sản. Phải dựa trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó mà mở rộng Mặt
trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một
khối vững chắc.
Thứ hai, mặt trận dân tộc thống nhất hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ,
lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ
sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và
thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vậy, phải làm cho mọi người
đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết. Mỗi bộ phận, mỗi cá nhân lại có lợi ích riêng
7


khác nhau, nếu lợi ích riêng chính đáng, phù hợp với lợi ích chung thì phái được tôn trọng,
nếu không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết bằng nhân thức về mối quan hệ giữa lợi ích
chung và lợi ích riêng.
Thứ ba, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ. Đó là sự đoàn kết chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các
đoàn thể, các nhân sĩ, tôn giáo.. trong Mặt trận, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Hồ Chí Minh đã viết: “ đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập
trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những
cái tốt của nhau, phê bình nhưng cái sai và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì
dân”1.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng
vẫn phải có những điểm khác nhau cần bàn bạc đi đến thống nhất, bên cạnh những yếu tố
tích cực vẫn còn những yếu tố tiêu cực cần khắc phục. Để giải quyết vấn đề này,một mặt,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tôn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái
riêng, cái khác biệt; mặt khác Người nêu rõ: “ Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để
tăng cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi
chiều, phải nêu cao tình thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt
chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ. Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập
trường cũng phải nhất trí. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân


tộc thống nhất, Đảng ta luôn chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh
thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được, đồng thời chống khuynh hướng đoàn
kết một chiều, đoàn kết mà không đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực
lượng lãnh đạo của Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.
Muốn lãnh đạo được, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và
thời đại, phải thực sự đoàn kết nhất trí. Đảng Cộng sản Việt Nam phải là Đảng của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam không có lợi
ích riêng mà là gắn liền với lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam cầm
quyền không phải vì lợi ích của giai cấp mình mà “phải trở thành dân tộc” mới có thể giải
phóng được dân tộc và giai cấp. Người viết: “ Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận
quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và
1

Hồ Chí Minh: Sđđ, t.9, tr137
8


chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa
nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vĩ
lãnh đạo”2.
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn,
phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì cách mạng.Đảng phải dùng phương pháp vận động,
giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh
thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh”. Sự đoàn kết trong Đảng
là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong Mặt trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết,
để dân tộc vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của
cách mạng.
Từ đó, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng Mặt trận ở Việt Nam

là Mặt trận đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt- Miên- Lào; Mặt trận nhân dân tiến bộ
thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống đế quốc xâm lược.

III.

KẾT LUẬN
Trong toàn bộ những bài báo bài viết của Hồ Chí Minh theo thống kê có đến 40% bài

báo, bài viết, bài nói về đại đoàn kết, qua đó ta thấy được tầm quan trọng của đại đoàn kết
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lời đầu tiên trong bản di chúc của Hồ Chí Minh cũng như lời
cuối cùng trong bản di trúc thì Hồ Chí Minh đều nhắc tới đại đoàn kết . Lời đầu tiên Người
nói: “Trước khi tôi qua đời tôi để lại vài lời dặn dò như sau: Trước hết nói về đoàn kết các
đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải gìn dữ sự đoàn kết như gìn giữ con ngươi của
mắt mình” còn lời cuối cùng của người: “ Điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng
toàn dân toàn quân ta đoàn kết xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh dân chủ độc lập
đóng góp xứng đáng vào cách mạng vô sản thế giới”. Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn,
có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách mạng nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003;
2. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội,
2005, 2009;
2

Hồ Chí Minh: Sđđ, t.3, tr139.
9


3. Nguyễn Khánh Bật (chủ biên), Những bài giảng về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh,

Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998;
4. Nguyễn Mạnh Tường (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một số nhận thức cơ bản,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009;
5. Nguyễn Mạnh Tường, “Về những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp
chí triết học, số 5/2005, tr.14 - 20;
6. Website:




10



×