Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

A và b có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác để việc chiếm đoạt thuận lợi chúng môn luật hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.25 KB, 10 trang )

TÌNH HUỐNG
A và B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm đoạt thuận
lợi chúng cùng nhau tìm mua súng. Sau một thời gian tìm mua súng không được,
chúng ra một cửa hàng đồ chơi trẻ em mua một khẩu súng nhựa.
Một hôm, A và B đem khẩu súng này ra bờ sông (nơi thanh niên hay ngồi hóng
mát). Bọn chúng gặp C, D đang ngồi bên cạnh một chiếc xe máy. A rút súng ra doạ:
“ngồi im không tao bắn chết”. Tưởng đây là súng thật và lo lắng cho tính mạng nên
khi B lấy chiếc xe máy mang đi. C và D không có phản ứng gì. A, B đem xe máy bán
cho người quen là E được 8.000.000 đồng và ăn tiêu hết.
Hỏi: 1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao? (3 điểm)
2. Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy
được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế nào? Tại sao?
(2 điểm)
3. E có phạm tội không? Tại sao? (2 điểm)

1


GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao?
Hành vi của A và B cấu thành tội Cướp tài sản theo quy định tại Điều 133
BLHS 2009. Khẳng định như trên là bởi vì hành vi của A, B thỏa mãn các dấu hiệu
pháp lí sau:
* Về khách thể:
_ Tội cướp tài sản xâm phạm cả hai quan hệ là quan hệ nhân thân và quan hệ sở
hữu. Tuy nhiên, quan hệ nhân thân bị xâm phạm trước, thông qua quan hệ nhân thân
mà người phạm tội xâm phạm đến quan hệ tài sản.
_ Trở lại với tình huống trên, hành vi của A và B đồng thời xâm phạm hai quan
hệ là quan hệ nhân thân (tính mạng, sức khỏe con người) và quan hệ sở hữu.
A và B cùng nhau tìm mua súng giả với mục đích chiếm đoạt tài sản của người
khác. Khi gặp C và D đang ngồi cạnh chiếc xe máy, A liền rút súng ra doạ: “ngồi im


không tao bắn chết”. Như vậy, A đã có hành vi đe dọa “dùng vũ lực ngay tức khắc”
tác động mạnh vào tinh thần của C, D khiến C, D bị tê liệt khả năng phản kháng. Ở
đây, tinh thần của C, D bị tác động mạnh, như vậy, quan hệ nhân thân bị xâm phạm.
Trong khi A dùng súng giả để đe dọa, thì B lấy xe máy mang đi. A và B đã
chiếm đoạt trái phép tải sản của C và D (chiếc xe máy). Như vậy, quan hệ sở hữu bị
xâm phạm.
=> Hành vi của A và B thỏa mãn các dấu hiệu thuộc Khách thể của tội cướp tài sản.
* Về mặt khách quan
_ Hành vi khách quan
+ Hành vi khách quan của tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác khiến người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi đe dọa dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc ở tội cướp tài sản có tính chất mãnh liệt là làm cho
người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay nếu họ không giao tài sản. Họ không

2


hoặc khó có điều kiện tránh khỏi. Sự đe dọa này đã làm cho ý chí của người bị đe dọa
tê liệt, không còn khả năng chống cự.
Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các hành vi khác làm người bị
tấn công lâm vào tình trạng không thể kháng cự là tiền đề của hành vi chiếm đoạt tài
sản và luôn có trước hành vi chiếm đoạt.
+ Trong trường hợp này, hành vi của A là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc nhằm chiếm đoạt tài sản. Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời
nói hoặc hành động tác động vào tinh thần người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ
lực sẽ được thực hiện ngay. Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, làm tê liệt khả
năng phản kháng của người bị hại. Để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, A đã
dùng súng nhựa để uy hiếp tinh thần của C và D (C và D tưởng là súng thật) khiến họ
bị tê liệt khả năng phản kháng và buộc phải giao tài sản cho A và B.

_ Hậu quả
+ Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội cướp tài sản. Bởi vì tội
này có CTTP hình thức nên hậu quả chỉ có ý nghĩa là dấu hiệu để định khung hình
phạt hoặc là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt. Hậu quả đối với tội cướp
tài sản có thể là tài sản (tương ứng với quan hệ sở hữu bị xâm hại) hoặc tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (tương ứng với quan hệ nhân thân bị xâm hại).
+ Trong trường hợp này, hậu quả là A, B đã chiếm đoạt được chiếc xe máy của
C, D. Đồng thời, tinh thần của C, D cũng bị chấn động do hành vi đe dọa của A, B.
=> Hành vi của A và B thỏa mãn các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội
cướp tài sản
* Về mặt chủ quan:
_ Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Ý thức chiếm đoạt
của người phạm tội nảy sinh trước hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc hoặc hành vi khác khiến người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống
cự được. Mục đích cuối cùng của người phạm tội là chiếm đoạt tài sản.
_ Với tình huống trên, lỗi của A và B là lỗi cố ý trực tiếp. A và B có ý thức
chuẩn bị công cụ phương tiện nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Ý thức chiếm đoạt
3


tài sản này hình thành trước khi A dùng súng giả để đe dọa C và D (hình thành từ khi
đi mua súng làm công cụ để chiếm đoạt tài sản của người khác). A và B nhận thức
được hậu quả có thể xảy ra và mong muốn cho hậu quả xảy ra.
=> Hành vi của A và B thỏa mãn dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm
* Về chủ thể
_ Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường (có năng lực TNHS và đạt độ
tuổi theo luật định).
_ Đề bài trên không nêu rõ độ tuổi của A, B, nhưng bài viết này em chỉ phân
tích trong trường hợp cả A, B đều đạt tuổi chịu TNHS. Với giả định trên thì A và B là
đồng phạm và cùng là người thực hành, thuộc trường hợp đồng phạm không có thông

mưu từ trước. Khẳng định như trên là dựa vào các dấu hiệu pháp lí sau:
+ Thứ nhất: Dấu hiệu về mặt khách quan
Đồng phạm phải có ít nhất từ hai người trở lên và những người này có đủ các
điều kiện của chủ thể của tội phạm. Đồng thời, những người này phải cùng thực hiện
một tội phạm (cố ý). Nghĩa là người phạm tội phải tham gia vào tội phạm với một
trong bốn hành vi: hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm,
hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm, hành vi giúp sức người khác thực
hiện tội phạm.
A và B là đều có năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật định. Cả hai cùng có
hành vi thực hiện tội phạm: A có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với C
và D; còn B có hành vi lấy chiếc xe máy mang đi.
+ Thứ hai: Dấu hiệu về mặt chủ quan
Đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý và
phải có cùng một mục đích phạm tội.
Cả A, B đều thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện, tuy nhiên, họ
mong muốn hậu quả xảy ra. Cả A và B đều có cùng mục đích là chiếm đoạt chiếc xe
máy của C, D.
4


+ Thứ ba: Đây là trường hợp đồng phạm không có sự thông mưu từ trước.
Đồng phạm không thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong đó không có
sự thỏa thuận, bàn bạc với nhau trước giữa những người đồng phạm hoặc là có thỏa
thuận nhưng không đáng kể.
Đồng phạm không có thông mưu trước là hình thức đồng phạm đơn giản và có
sự cấu kết không chặt chẽ cuả những người cùng thực hiện tội phạm. Những người
đồng phạm không có sự bàn bạc trước với nhau về kế hoạch thực hiện tội phạm, đồng
thời giữa những người đồng phạm không có sự phân công vai trò (như: tổ chức, thực
hành, xúi giục, giúp sức) mà cơ bản, tất cả họ đều có một vai trò là những người đồng

thực hành, tức là mỗi người bằng chính hành vi của mình đều trực tiếp thực hiện hoặc
góp phần thực hiện tội phạm. Đồng thời, sự cố ý cùng cấu kết của những người
phạm tội không đáng kể và chỉ hạn chế ở chỗ - mỗi người đồng phạm chỉ biết về hoạt
động phạm tội của một (hoặc nhiều) người khác tại thời điểm bắt đầu thực hiện tội
phạm hay trong quá trình cùng thực hiện tội phạm.
Trong trường hợp này, rõ ràng A, B không có sự bàn bạc trước với nhau về kế
hoạch cướp chiếc xe máy. Ý định chiếm đoạt chiếc xe máy nảy sinh khi nhìn thấy C,
D ngồi cạnh chiếc xe máy trong công viên. Trước khi thực hiện tội phạm, hai người
không chuẩn bị kế hoạch cụ thể cho việc cướp chiếc xe máy này của C, D. Khi A
dùng súng giả đe dọa C, D thì B hiểu được ý đồ của A; và trong khi A khống chế tinh
thần của C, D thì B nhân cơ hội đó lấy chiếc xe máy đi. Như vậy, B chỉ biết về hoạt
động của A khi bắt đầu thực hiện tội phạm (khi A dùng súng đe dọa C, D)
=> Từ những phân tích trên ta thấy, A, B thỏa mãn các dấu hiệu về mặt khách
quan và chủ quan của đồng phạm. Vì vậy, A, B là đồng phạm của nhau và đều là
người thực hành.
***Trách nhiệm hình sự đối với A, B***
Tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố, xét xử về cùng tội danh, theo
cùng điều luật và trong phạm vi những chế tài điều luật quy định.
=> Từ những phân tích trên, hành vi của A và B cấu thành tội cướp tài sản theo
quy định tại Điều 133 BLHS năm 2009.
5


Trong tình huống trên, A và B đã dùng súng giả để thực hiện hành vi cướp tài
sản. Có quan điểm cho rằng, nếu người phạm tội sử dụng vũ khí giả như súng nhựa,
súng gỗ để đe dọa người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản và người bị hại cũng tưởng
là súng thật nên quá sợ hãi mà giao tài sản cho người phạm tội thì trường hợp này
người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điểm d Khoản 2 Điều 133
BLHS thuộc trường hợp “sử dụng thủ đoạn nguy hiểm khác”. Theo em, quan điểm
này chưa hợp lý bởi vì:

Căn cứ theo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTCBCA-BTP ngày 25/12/2001 về các tội phạm sở hữu thì: “Thủ đoạn nguy hiểm khác
quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS là ngoài các trường hợp sử dụng vũ khí,
phương tiện nguy hiểm để thực hiện việc cướp tài sản, người phạm tội có thể dùng
thủ đoạn khác nguy hiểm đối với người bị tấn công hoặc những người khác như
dùng thuốc ngủ, thuốc mê với liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe
của nạn nhân; đầu độc nạn nhân; nhốt nạn nhân vào nơi nguy hiểm đến tính mạng,
sức khỏe; dùng dây chăng qua đường để làm cho nạn nhân đi mô tô, xe máy vấp ngã
để cướp tài sản…”.
Như vậy, theo quy định của Thông tư thì “thủ đoạn nguy hiểm khác” phải chứa
đựng khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của nạn nhân, tức là tự nó
phải có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra những thiệt hại cho đối tượng mà người phạm
tội tác động đến. Nhưng trong trường hợp này, bản thân chiếc súng nhựa không chứa
đựng khả năng gây nguy hiểm cho người khác. Vì vậy, theo em, trong tình huống này
A và B sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cướp tài sản theo Khoản 1 Điều
133 BLHS năm 2009, theo đó A, B có thể phải chịu mức phạt tù từ ba năm đến
mười năm.
2. Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy được tài
sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế nào? Tại sao?
Đối với trường hợp này, A, B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1
Điều 133 BLHS năm 2009. Bởi các lí do sau:
6


Tội cướp tài sản là tội có CTTP hình thức, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt
buộc của tội này. Vì vậy chỉ cần người phạm tội thực hiện một trong các hành vi
khách quan được mô tả trong CTTP thì tội phạm đã hoàn thành, không cần xét xem
hậu quả đã xảy ra hay chưa.
Ngay từ khi A thực hiện hành vi “đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” đối với C,
D thì tội phạm đã hoàn thành. Việc A, B có chiếm đoạt được xe máy hay không thì
cũng không ảnh hưởng đến việc định tội danh.

Theo đó, A và B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự như trường hợp đã phân tích
ở câu 1. Đó là theo Khoản 1 Điều 133 BLHS năm 2009 với hình phạt là từ ba năm
đến mười năm tù.
3. E có phạm tội không? Tại sao?
Trường hợp 1: E không biết chiếc xe máy là do A, B phạm tội mà có.
Trong trường hợp này, E không phạm tội vì không có lỗi.
Lỗi là dấu hiệu chủ quan bắt buộc của tội phạm, đồng thời là điều kiện chủ quan
không thể thiếu được của trách nhiệm hình sự.
Theo nguyên tắc trách nhiệm do lỗi: không ai có thể phải chịu TNHS về hành vi
nguy hiểm cho xã hội cũng như về việc gây nên hoặc đe dọa thực tế gây nên thiệt hại
cho lợi ích được bảo vệ bằng pháp luật hình sự mà không phải do lỗi của mình.
Một người không có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
luật hình sự cấm thì không thể bị coi là chủ thể của tội phạm, tức là không có tội và
không phải chịu TNHS
Trong trường hợp này, E không hề biết chiếc xe máy này là do A, B phạm tội
mà có, nên ta không thể đặt ra vấn đề lỗi với E. E được coi là không có lỗi và không
phải chịu TNHS. Vì vậy, trong trường hợp này, E không phạm tội.
Trường hợp 2: E biết chiếc xe máy là do A, B phạm tội mà có nhưng không có
hứa hẹn trước về việc bán chiếc xe.
_ Trong trường hợp này, E có hành vi tiêu thụ tài sản (mua bán chiếc xe máy)
mặc dù biết đó là tài sản mà A, B chiếm đoạt của người khác.
7


_ Hành vi của E thỏa mãn các dấu hiệu của Tội Tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có theo Điều 250 BLHS năm 2009. Cụ thể:
+ Về khách thể: Hành vi của E xâm phạm quan hệ vi tiêu thụ tài sản do A và B
phạm tội mà có của E đã xâm phạm đến trật tự công cộng và trật tự pháp luật XHCN.
+ Về mặt khách quan: Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là biết rõ
đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn nhận hoặc mua để dùng, nhận

để bán lại hoặc giới thiệu người khác mua, chuyển tài sản đó cho người khác theo
yêu cầu của người phạm tội,… Mặt khác, hành vi tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có được thực hiện mà không có sự thỏa thuận, hứa hẹn trước. Trong
trường hợp này, E biết rõ chiếc xe máy mà mình mua là do A và B đi cướp được mà
có nhưng vẫn nhận mua với giá 8.000.000 đồng và giữa E và A, B không có sự thỏa
thuận, hứa hẹn trước bởi A và B đã cướp chiếc xe máy trước, sau đó mới đem bán
cho E để lấy tiền ăn tiêu.
Tuy nhiên, người tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ bị truy cứu
TNHS theo Điều 250 nếu hành vi phạm tội của “người khác” đó đã tới mức bị truy
cứu TNHS. Trong trường hợp này, hành vi của A, B đã gây ra hậu quả nghiêm trọng
và bị truy cứu TNHS về tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS năm 2009.
Vậy hành vi của E thỏa mãn dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội Tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có.
+ Về mặt chủ quan: Lỗi của E trong trường hợp này là lỗi cố ý. E biết rõ tài sản
mà mình tiêu thụ là tài sản do A và B phạm tội mà có nhưng vẫn cố ý nhận tiêu thụ.
+ Về chủ thể: E là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật định.
=> Vì vậy, E có phạm tội và phải chịu TNHS về tội Tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có – Điều 250 Khoản 1 BLHS năm 2009: “Người nào không hứa
hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì
bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Theo đó thì E có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng,
phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
8


Trường hợp 3: E biết chiếc xe máy là do A, B phạm tội và ba người đã có hứa
hẹn trước với nhau về việc bán chiếc xe.
Trường hợp này, A, B, E là đồng phạm của nhau, mỗi người đóng một vai trò
nhất định trong việc thực hiện tội phạm: A, B đóng vai trò là người thực hành, E

đóng vai trò là người giúp sức.
Đoạn 5 Khoản 2 Điều 20 BLHS 2009: “Người giúp sức là người tạo những
điểu kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm” - bằng cách cung cấp
thông tin, phương tiện hay công cụ thực hiện tội phạm, hoặc hứa hẹn trước về việc
che giấu người phạm tội hay các dấu vết của tội phạm hoặc những tài sản hay đồ vật
do phạm tội mà có, cũng như hứa hẹn trước về việc mua, bán hoặc tiêu thụ những tài
sản hay đồ vật đó.
Trong trường hợp này, A, B thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, E là người
chịu trách nhiệm tiêu thụ tài sản mà A, B chiếm đoạt được. Giữa A, B, E có mối liên
kết chặt chẽ với nhau, cùng bàn bạc, thỏa thuận, lên kế hoạch cụ thể trước với nhau
về việc thực hiện tội phạm, cũng như việc mua bán, tiêu thụ tài sản sau khi phạm tội.
Việc E hứa hẹn sẽ tiêu thụ tài sản mà A, B chiếm đoạt được tuy không tạo điều kiện
thuận lợi cụ thể nhưng nó góp phần củng cố ý định phạm tội, củng cố quyết tâm
phạm tội và phạm tội đến cùng của A, B. Trong tình huống trên, sau khi A, B chiếm
đoạt được chiếc xe máy, thì E đã mua lại chiếc xe đó, như vây, không chỉ hứa hẹn
đơn thuần mà E đã thực hiện việc tiêu thụ tài sản của đồng bọn đúng như lời hứa hẹn
từ trước với A, B.
Theo nguyên tắc của Luật Hình sự Việt Nam thì tất cả những người đồng phạm
đều bị truy tố, xét xử về cùng tội danh, theo cùng điều luật và trong phạm vi những
chế tài điều luật quy định.
Như vậy với vai trò là đồng phạm trong trường hợp này, E phạm tội và sẽ phải
chịu TNHS về tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS năm 2009. Tùy theo mức độ
tham gia phạm tội của mình mà E sẽ phải chịu các mức án khác nhau.

9


BẢNG VIẾT TẮT
BLHS : Bộ Luật Hình sự
TNHS: Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội – năm 2009
2. Giáo trình luật hình sự Việt Nam Module 2
Trường ĐH Luật Hà Nội
NXB Công an nhân dân

3. Bình luận khoa học về bộ luật hình sự - Phần các tội phạm tập II, tập IX
Th.S. Đinh Văn Quế
NXB Tp. Hồ Chí Minh.
4. />5. />
10



×