Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài nhóm hình sự 2, đề 01 a và b (là nam giới), rủ nhau đi uống rượu khi đã ngà ngà say, a,b vào một chòi canh cá nghỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.5 KB, 11 trang )

BÀI LÀM
A-LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu để đấu tranh
phòng chống tội phạm. Đặc biệt trong tình hình thực tế hiện nay, cùng với xu thế phát
triển của xã hội thì tình hình tội phạm cũng đang diễn ra ngày càng phức tạp, trở thành
mối lo ngại của quốc gia thì càng cần có pháp luật hình sự kịp thời điều chỉnh . Trong
các nhóm tội phạm đang ngày càng phổ biến và có tính chất nguy hiểm gia tăng, không
thể không kể đến nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
con người. Để hiểu rõ hơn về nhóm tội phạm này, sau đây nhóm em xin phân tích tình
huống số 01 để làm rõ một ví dụ cụ thể thuộc nhóm tội này.
B-NỘI DUNG
1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao? (2 điểm)
Hành vi của A và B đã cấu thành tội hiếp dâm quy định tại Điều 111(nếu C từ
đủ 16 tuổi trở lên) hoặc tội hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 112 (nếu C dưới 16
tuổi).
Để làm rõ tội danh của A và B, dưới đây nhóm em xin được phân tích các dấu
hiệu pháp lý của tội này trong vụ án trên:
*Trường hợp 1: Nếu C từ đủ 16 tuổi trở lên thì hành vi của A và B cấu thành tội
hiếp dâm quy định tại Điều 111 BLHS.

 Mặt khách quan của tội phạm:
-

Hành vi khách quan

Hành vi khách quan của tội hiếp dâm là hành vi giao cấu với người phụ nữ, trái ý
muốn của họ, bằng thủ đoạn dùng vũ lực (dùng sức mạnh đè bẹp sự phản kháng của nạn
nhân như xô ngã, vật, giữ, đè…), đe dọa dùng vũ lực (uy hiếp về mặt tinh thần, làm bị
hại tê liệt sự chống cự , sự đe doạ có thể bằng lời nói hoặc bằng lời nói kết hợp với phô
trương hung khí: dọa giết, dọa gây thương tích), lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân( lợi dụng khi nạn nhân ốm, bị bại liệt, lợi dụng nạn nhân một mình


trong khu rừng vắng, trong đêm tối…) hoặc dùng thủ đoạn khác (có thể là lợi dụng
người phụ nữ đang trong tình trạng không có khả năng biểu lộ ý chí: nạn nhân bị tâm

Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 1


thần, bị say rượu, bị chuốc thuốc mê, hoặc có thể tình trạng trên do người phạm tội tự
mình tạo ra: cho nạn nhân uống rượu…).
Cụ thể, trong tình huống này, A, B đã lợi dụng việc C đang đi một mình trên quãng
đường vắng người qua lại, dụ C vào chòi khu nuôi cá, đe doạ nếu không đồng ý cho
giao cấu thì sẽ lột hết quần áo của C, đồng thời A dùng vũ lực cởi, xé quần áo chị C,
sau đó đè lên người chị C thực hiện hành vi giao cấu trái với mong muốn của nạn nhân,
nhằm thoả mãn dục vọng của mình. Như vậy trong trường hợp này, mặc dù không được
C đồng ý, mặc sự kháng cự của C (thể hiện bằng việc khi A, B đòi giao cấu C không
đồng ý và định hô hoán người cứu giúp; khi A cố tình giao cấu chỉ đã cố kháng cự lại
một cách yếu ớt), A và B đã dùng thủ đoạn để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn
với chị C. Cụ thể hành vi khách quan đồng thời là thủ đoạn để thực hiện hành vi giao
cấu trái ý muốn với C ở đây là hành vi dùng vũ lực (tức là dùng sức mạnh vật chất đè
bẹp sự kháng cự lại của chị C chống lại việc giao cấu) thể hiện bằng hành vi A đã dùng
sức mạnh của bản thân khống chế chị C, cởi quần áo của C sau đó vật chị C ra, đè lên
người chị thực hiện hành vi giao cấu, bằng việc đè lên người C, A đã thực hiện được
hành vi giao cấu trái ý muốn với C mặc cho sự phản kháng yếu ớt của C. Hành vi này
dễ dàng thực hiện được nhờ A, B đã lợi dụng hoàn cảnh xung quanh vắng vẻ (không có
ai để chị C kêu cứu) và C chỉ có một mình, là con gái, yếu ớt, không có khả năng chống
cự lại sức mạnh của hai người đàn ông.
- Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội hiếp dâm. Cấu thành tội phạm hiếp
dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với nạn nhân nhưng không đòi hỏi
hành vi này phải kết thúc về mặt sinh lí.


 Mặt chủ quan của tội phạm:
- Lỗi của người phạm tội ở đây là lỗi cố ý trực tiếp. A và B đều biết rõ hành vi giao
cấu của mình là trái pháp luật, phi đạo đức, xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, quyền
tự do tình dục của phụ nữ,.. nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi trái pháp luật của mình.
Mặc dù biết rõ hành vi giao cấu của mình là trái ý muốn của chị C (thể hiện qua việc chị
C không đồng ý khi A đòi giao cấu và định hô hoán mọi người giúp; khi A thực hiện
hành vi giao cấu C đã cố gắng kháng cự) nhưng A và B vẫn tiếp tục thực hiện. Trước sự
Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 2


kháng cự của C, A và B vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó đến cùng bằng mọi thủ
đoạn (A đe dọa C, A dùng vũ lực và sức mạnh của mình khống chế C, cởi quần áo và đè
lên người C thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với C) đã cho thấy sự mong muốn,
bằng mọi thủ đoạn để đạt được kết quả cuối cùng là giao cấu trái ý muốn với C để thỏa
mãn dục vọng thấp hèn của mình. Lỗi của người phạm tội tội hiếp dâm luôn là lỗi cố ý.
 Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể cuả tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định
và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Ngoài ra, đối với tội hiếp dâm còn yêu cầu
người trực tiếp thực hiện tội phạm là chủ thể đặc biệt. Người thực hiện hành vi phạm tội
này chỉ có thể là nam giới. Nữ giới có thể tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với
vai trò là người xúi giục, người giúp sức hoặc người tổ chức.
Cụ thể, trong tình huống này, chủ thể tội phạm ở đây là A và B.
Do đề bài không xác định rõ và không đặt ra vấn đề về độ tuổi của cả A và B, vì thế
mặc nhiên ta coi A và B có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Đồng thời, theo đề bài, A và B đều là nam giới, đã thỏa mãn yêu cầu về chủ thể đặc
biệt của tội hiếp dâm.
Như vậy, A và B có đầy đủ các dấu hiệu thỏa mãn là chủ thể của tội hiếp dâm quy

định tại Điều 111 BLHS và phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình.
 Như vậy có thể khẳng định hành vi của A, B trong vụ án trên đã cấu thành tội
hiếp dâm theo Điều 111 BLHS.
*Trường hợp 2: Nếu C dưới 16 tuổi thì hành vi của A, B cấu thành tội hiếp dâm trẻ
em quy định tại Điều 112 BLHS.
Cũng giống với những nội dung đã xét ở trên nhưng với trường hợp C dưới 16 tuổi,
ta có thể thấy hành vi của A, B lại cấu thành tội hiếp dâm trẻ em theo quy định tại Điều
112 BLHS. Các căn cứ xác định tội phạm: mặt chủ quan, mặt khách quan, chủ thể,
khách thể đối với trường hợp này được xác định tương tự theo trường hợp 1 (Điều 112
BLHS đòi hỏi hành vi phạm tội như hành vi phạm tội được quy định ở Điều 111
BLHS), chỉ khác nhau về dấu hiệu độ tuổi nạn nhân. Do đề bài không quy định cụ thể
tuổi của C, mặc dù hành vi khách quan giống nhau nhưng căn cứ vào độ tuổi của người
bị hại thì sẽ cấu thành hai tội phạm khác nhau với khung hình phạt hoàn toàn khác nhau
Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 3


nên trong tình huống này ta cần phải xét thêm dấu hiệu tuổi của nạn nhân để có thể định
tội danh cho phù hợp.
 Như vậy nếu trong tình huống này C là người dưới 16 tuổi thì hành vi của A,
B trong tình huống trên cấu thành tội hiếp dâm trẻ em theo quy định tại Điều
112 BLHS.
2. Giả sử B mới 15 tuổi thì trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao? (2
điểm)
(Do chỉ đặt ra vấn đề đối với tuổi của B để xét về vấn đề đồng phạm nên mặc nhiên
coi A đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu chủ thể của tội phạm này)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 BLHS quy định “đồng phạm là trường hợp có 2
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Xét cụ thể trong tình huống trên, A, B dù đã ngà ngà say nhưng vẫn còn đủ tỉnh táo

để nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Nhận thức đó được thể hiện qua sự bàn
bạc, lên kế hoạch trước khi thực hiện tội phạm của A và B: “A bàn với B để thực hiện
hành vi giao cấu với chị C. Thực hiện kế hoạch đã bàn, A ra ngoài buông lời trêu ghẹo
chị C và dụ chị C vào chòi khu nuôi cá. Vào chòi cá, A, B đòi giao cấu với chị C…”
Từ tình huống trên có thể thấy:
Thứ nhất, người thực hiện tội phạm ở đây gồm hai người là A và B.
Thứ hai, cả hai người cùng thực hiện một tội phạm
Cùng thực hiện một tội phạm được hiểu là: tội phạm phải được thực hiện do sự nỗ
lực chung của một số người, hành động của mỗi người là điều kiện cần thiết cho sự hoạt
động của người khác, là một khâu trong sự hoạt động chung của tất cả những người
đồng phạm hay nói cách khác, là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của mỗi
người đồng phạm với hậu quả nguy hiểm cho xã hôi. Người đồng phạm phải tham gia
vào tôi phạm với ít nhất một trong bốn hành vi: hành vi thực hiện tội phạm; hành vi tổ
chức thực hiện tội phạm; hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm; hành vi giúp
sức người khác thực hiện tội phạm. Xét trong trường hợp này thì:

Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 4


+) A đóng vai trò là người thực hành: A là người trực tiếp thực hiện tội phạm, các
hành vi của A thực hiện được miêu tả trong cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm (Điều
111 BLHS). Cụ thể A đã thực hiện hành vi dùng vũ lực để thực hiện hành vi giao cấu
trái ý muốn đối với C thể hiện qua hành động mặc dù không được sự đồng ý của C, A
đã dùng sức mạnh của bản thân khống chế chị C, cởi quần áo của C sau đó vật chị C ra,
đè lên người chị thực hiện hành vi giao cấu. Bằng việc đè lên người C, A đã thực hiện
được hành vi giao cấu trái ý muốn với C mặc cho sự phản kháng yếu ớt của C.
+) B đóng vai trò là người giúp sức: Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần
hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 20 BLHS). Ở đây, B đã cùng

bàn bạc với A về việc thực hiện tội phạm, có đưa ra ý kiến cùng C để thực hiện hành vi
giao cấu với chị C. Cùng với đó, khi vào chòi cá, B đã cùng với A đòi giao cấu với C, do
có hai người nên tạo cho chị C có tâm lí hoảng loạn hơn và khiến cho việc thực hiện tội
phạm thuận lợi hơn.
Tuy nhiên sau đó, chỉ riêng A thực hiện hành vi giao cấu còn B chỉ đứng nhìn không
nói gì, sau đó ra khỏi chòi bảo vệ.
Do đề bài không nói rõ nhưng có thể hiểu theo hướng hành vi ra khỏi chòi bảo vệ ở
đây là hành vi giúp sức về mặt tinh thần. Trong khi A thực hiện tội phạm (thực hiện
hành vi giao cấu trái ý muốn với C) thì B ra ngoài đứng quan sát, trông chừng người qua
lại, cung cấp tình hình để đảm bảo cho A thuận lợi, dễ dàng thực hiện tội phạm.
Còn nếu coi hành vi của B là hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (mặc
dù tuy không có gì ngăn cản nhưng B đã tự ý mình không thực hiện tội phạm đến cùng),
cụ thể mặc dù trước đó B đã có sự bàn bạc với A và cùng A đòi giao cấu với C nhưng
khi A giao cấu với C, B lại từ bỏ ý định, không thực hiện hành vi giao cấu mà chỉ ra
ngoài đứng. Tuy nhiên, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với người đồng
phạm khác (không phải là người thực hành) trong đồng phạm phức tạp phải được thực
hiện trước khi người thực hành bắt tay vào việc thực hiện tội phạm và phải có những
hành động tích cực làm mất tác dụng của những hành vi trước đó của mình để ngăn
chặn việc thực hiện tội phạm. Trong tình huống trên, B chỉ chấm dứt việc thực hiện tội
Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 5


phạm khi A đã bắt đầu thực hiện tội phạm và B cũng không hề có những hành vi tích
cực nhằm ngăn chặn A thực hiện tội phạm, B chỉ đứng nhìn để mặc cho A tiếp tục thực
hiện tội phạm chứ không hề thuyết phục hay khuyên bảo A dừng việc phạm tội; hành vi
này không có ý nghĩa làm giảm bớt tính chất nguy hiểm của hành vi hiếp dâm của A.
Như vậy với vai trò người giúp sức, hành vi này của B không được coi là tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội.

Như vậy, A và B đã cùng thực hiện một tội phạm với những vai trò khác nhau. Có
thể thấy hành vi cùng bàn bạc, đưa ra ý kiến; uy hiếp, đòi giao cấu với C và trông chừng
người qua lại của B cho A thực hiện tội phạm là điều kiện cần thiết cho hành động của
A (thực hiện hành vi dùng vũ lực giao cấu trái ý muốn đối với C).
Thứ ba, cả A và B cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý
Cả A và B đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người khác
cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình.
Cả A và B đều mong muốn có hoạt động chung (cùng bàn bạc để cùng nhau thực
hiện tội phạm, cùng uy hiếp, đòi giao cấu với C). Cả hai cùng mong muốn hoặc cùng có
ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Như vậy, có thể kết luận rằng A, B đã cùng nhau thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Mặc
dù có đầy đủ dấu hiệu như có hai người trở lên thực hiện tội phạm, cùng nhau thực hiện
một tội phạm với lỗi cố ý nhưng để kết luận xem vụ án trên có đồng phạm hay
không còn phải xem xét dấu hiệu chủ thể của tội phạm này. Phải cả A và B đều phải
thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu chủ thể của tội phạm này do pháp luật quy định thì mới được
coi là đồng phạm trong vụ án trên.
Cụ thể ở đây đã đặt ra tình huống đối với tuổi của B khi thực hiện tội phạm (A mặc
nhiên đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu chủ thể của tội này), đó là khi thực hiện tội phạm, B
mới chỉ 15 tuổi. Để kết luận B có phải là đồng phạm trong vụ án này không thì cần
xét xem với độ tuổi 15, B có thỏa mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm này hay
không. Việc B thỏa mãn dấu hiệu của chủ thể phạm tội trong tội này và phải chịu trách

Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 6


nhiệm hình sự thì mới được coi là đồng phạm với A trong vụ án trên hay nói cách khác
vụ án trên mới có đồng phạm.
-


Căn cứ theo Điều 12 BLHS quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:

“1.Người nào đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Như vậy, trong tình huống trên B chưa đủ 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
-

Đồng thời căn cứ khoản 3 Điều 8 BLHS về phân loại tội phạm.

Dựa vào hai quy định trên, để xác định trách nhiệm hình sự của B trong tình huống
này ta xét các trường hợp sau đây:
 Trường hợp người bị hại C đủ 18 tuổi trở lên: hành vi phạm tội của B thuộc
khoản 1 điều 111 BLHS. Mà mức cao nhất của khung hình phạt tại khoản này là
đến 7 năm tù. Như vậy, B chỉ phạm tội nghiêm trọng nên căn cứ theo khoản 2
Điều 12 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, B không phải chịu TNHS, vụ án trên
không có đồng phạm.
 Trường hợp người bị hại C thuộc trường hợp đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, hành vi
của B thuộc khoản 4 Điều 111 BLHS. Mức cao nhất của khung hình phạt tại
khoản này là đến 10 năm tù, như vậy B phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, B
phải chịu TNHS và vụ án trên có đồng phạm.
 Tương tự, nếu người bị hại C có độ tuổi thuộc các trường hợp tại khoản 1 Điều
112 (từ 13 đến dưới 16 tuổi) hoặc khoản 4 Điều 112( dưới 13 tuổi) thì B phạm tội
hiếp dâm trẻ em. Mức cao nhất thuộc khung hình phạt tại khoản 1 (Điều 112) là
đến mười lăm năm thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, mức cao nhất của khoản
4( Điều 112) là tử hình thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Mà đối với tội
này, người phạm tội luôn có lỗi cố ý. Như vậy, căn cứ vào Điều 12 về độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự thì ở cả 2 trường hợp này, mặc dù 15 tuổi thì B vẫn phải

chịu trách nhiệm hình sự. Vì thế, vụ án trên có đồng phạm.
Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 7


Như vậy, trong trường hợp B thực hiện tội phạm khi mới chỉ 15 tuổi thì cần xét hành
vi mà B thực hiện thuộc loại tội phạm nào để xét xem với độ tuổi này, B có phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi đó hay không hay không. Có thể thấy, căn cứ vào tuổi
của C, nếu tội phạm B thực hiện thuộc khoản 1 Điều 111 thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự. Còn nếu tội phạm B thực hiện thuộc khoản 4 Điều 111 hoặc khoản 1
Điều 112 hoặc khoản 4 Điều 112 thì B phải chịu trách nhiệm hình sự. Và chỉ khi B phải
chịu trách nhiệm hình sự thì vụ án trên mới có đồng phạm.
3. Nếu khi A thực hiện hành vi giao cấu với chị C, còn B giữ chân tay chị C thì B
được coi là người giúp sức, đúng hay sai? Tại sao? (2 điểm)
Sai. B không được coi là người giúp sức mà đóng vai trò là người thực hành.
Có thể khẳng định như vậy là vì:
“Người giúp sức là người tạo ra điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực
hiện tội phạm”( khoản 2 điều 20 BLHS).
Từ đó có thể hiểu hành vi của người giúp sức trong đồng phạm là hành vi tạo ra
những điều kiện cho người thực hành thực hiện hành vi phạm tội, người giúp sức có
thể giúp sức về mặt vật chất hoặc tinh thần, giúp sức về mặt vật chất có thể là cung
cấp công cụ, phương tiện hoặc khắc phục những trở ngại…để tạo điều kiện cho
người thực hành thực hiện tội phạm được dễ dàng, thuận lợi hơn.Giúp sức về mặt
tinh thần có thể là chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình,hứa hẹn sẽ che giấu tội
phạm…tạo tác động tích cực vào quá trình thực hiện tội phạm.
Trong tình huống này, ta thấy B không phải là người giúp sức, hành vi giữ chân
chị C để cho A thực hiện hành vi giao cấu của B là hành vi dùng vũ lực trực tiếp thực
hiện tội phạm mà ở đồng phạm với vai trò là người giúp sức không thể có hành vi
này.Giống với vai trò của A, hành vi mà B thực hiện cho thấy B cũng đóng vai trò là

người thực hành vì trong vụ phạm tội cố ý có thể có nhiều người cùng tự mình thực
hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm, hành vi của B tuy không thỏa
mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội hiếp dâm ( đó là có hành vi dùng vũ
lực nhưng không có hành vi giao cấu) nhưng trong đồng phạm với vai trò là người
Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 8


thực hành không đòi hỏi mỗi người phải thực hiện chọn vẹn hành vi được mô tả
trong cấu thành tội phạm mà có thể mỗi người đó chỉ thực hiện một phần hành vi
đó.Cụ thể, B đã trực tiếp tham gia vào việc hiếp dâm chị C với vai trò người thực
hành nhưng hình thức tham gia của B vào tội này khác với A, đó là B chỉ “ giữ chân
tay” để C không thể chống cự, đè bẹp sự phản kháng của chị C để giúp A dễ dàng
thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với nạn nhân. B đã trực tiếp tác động đến cơ
thể nạn nhân, thực hiện hành vi “ dùng vũ lực”(dùng sức mạnh của mình để giữ chặt
chân tay chị C) được mô tả trong cấu thành tội phạm tội hiếp dâm tức là B cũng là
“người trực tiếp tham gia” việc thực hiện tội phạm, mặc dù hành vi chỉ riêng của A
hoặc của B không thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội hiếp dâm
nhưng hành vi tổng hợp của cả hai người này thì thỏa mãn hết các dấu hiệu đó.
Cùng với việc B thực hiện hành vi được ghi trong cấu thành tội phạm tội hiếp
dâm, B cũng đã đáp ứng điều kiện về chủ thể đặc biệt đối với người thực hành của
tội này đó là “nam giới”( theo đề bài).
 Như vậy, đây là trường hợp đồng phạm giản đơn, trong đó cả A và B
đều đóng vai trò là người thực hành, nói cách khác, trong tình huống
này, B là đồng phạm của A với vai trò là người thực hành chứ
không phải là người giúp sức.
4. Giả sử sau khi bị bắt, A được xác định dương tính với vi rút HIV thì khung
hình phạt áp dụng đối với A có thay đổi không? Tại sao? (1 điểm)
Cụ thể đối với tình huống trên, có thể chia thành hai trường hợp như sau:

(Do đề bài không nói rõ về độ tuổi của A, C nên mặc nhiên ta coi A và C đều từ 16
tuổi trở lên)
+ Trường hợp 1: Nếu có căn cứ cho rằng nếu A bị nhiễm HIV thật nhưng A
không biết về việc mình bị nhiễm HIV trước đó; sau khi phạm tội và bị bắt, cơ quan Y
tế mới xét nghiệm thấy A bị nhiễm HIV thì trong trường hợp này không áp dụng quy
định tại điểm b Khoản 3 Điều 111 BLHS vì ý thức chủ quan của A không thuộc lỗi cố ý.
Việc A không biết mình bị HIV do đó hoàn toàn không thể thấy được hết mức độ nguy
Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 9


hiểm của hành vi mình gây ra đối với C. Việc C bị lây nhiễm HIV hoàn toàn nằm ngoài
ý muốn chủ quan của C. Do vậy, khung hình phạt áp dụng với A vẫn giữ nguyên được
quy định tại Khoản 1 Điều 111 BLHS:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn
của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
+ Trường hợp 2: A biết mình nhiễm HIV mà vẫn thực hiện hành vi hiếp dâm tức
là cố ý lây truyền HIV cho người khác bằng hành vi giao cấu, làm cho tính chất và mức
độ của hành vi hiếp dâm nguy hiểm hơn nhiều so với trường hợp hiếp dâm bình thường
(Ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng của nạn nhân chứ
không đơn thuần chỉ xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, quyền tự do tình dục của phụ
nữ ). Đây là trường hợp thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội, (biết trước mức độ
nguy hiểm và nghiêm trọng mà vẫn cố tình thực hiện và mong muốn hậu quả đó xảy ra)
nên các cơ quan tố tiến hành tố tụng cần phải xác định người phạm tội biết rõ mình bị
nhiễm HIV thì mới thuộc trường hợp này. Và như vậy, khung hình phạt áp dụng với A
sẽ thay đổi, A sẽ bị áp dụng khung hình phạt ở mức cao hơn của tội hiếp dâm được quy
định tại điểm b Khoản 3 Điều 111 BLHS:
“3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai mươi năm

hoặc tù chung thân:
b. Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;”.
C-KẾT LUẬN
Trên đây là những lập luận cách giải quyết của nhóm chúng em về tình huống số 01,
do kiến thức còn nhiều hạn chế nên rất mong được sự góp ý của thầy cô để bài làm của
nhóm được hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 10


1. Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009
2. Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 1-Nxb công an nhân dân năm 2013

Bài tập nhóm số 01 môn Luật Hình Sự Việt Nam II

Page 11



×