Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

BT nhóm 2 hình sự 2 sau khi đi uống rượu với mấy người bạn, trên đường về nhà, đến đoạn đường qua một nghĩa trang, a gặp chị h là công nhân xí nghiệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.62 KB, 11 trang )

TÌNH HUỐNG
Sau khi đi uống rượu với mấy người bạn, trên đường về nhà, đến đoạn
đường qua một nghĩa trang, A gặp chị H là công nhân xí nghiệp giầy da đi
làm về một mình bằng xe đạp. A nảy sinh ý định hiếp dâm chị H. A chặn xe
chị H và nhanh chóng kéo ngã chị H xuống đất để thực hiện hành vi giao cấu.
Chị H chống cự lại thì bị A bóp cổ và đe dọa: “Im mồm, còn kêu nữa tao giết
chết”. Sau khi kết thúc hành vi giao cấu, chị H vội vã lấy chiếc xe đạp của
định bỏ chạy thì A quá: “Để chiếc xe đạp lại cho tao”. A đem chiếc xe đạp đi
bán được 1.500.000 đồng.
Hỏi:
1. Hãy định tội danh cho A .
2. Giả sử sau khi kéo ngã chị H xuống đất, chị H nói mình bị nhiễm HIV
nên A đã bỏ đi. Hành vi của A có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội không? Tại sao?
3. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành vật chất hay hình thức? Tại sao?

0


MỤC LỤC
Trang
1. Hãy định tội danh cho A

2

2. Giả sử sau khi kéo ngã chị H xuống đất, chị H nói mình

5

bị nhiễm HIV nên A đã bỏ đi. Hành vi của A có được coi
là nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Tại sao?


3. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành vật chất hay hình thức?

8

Tại sao?
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

10

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

1


GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Hãy định tội danh cho A
Hành vi của A thỏa mãn hai tội danh đó là tội hiếp dâm theo khoản 1
Điều 111 Bộ luật hình sự và tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 BLHS
1999.
Giải thích:
Theo khoản 1 Điều 111 “ hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng
thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ”.
Và khoản 1 điều 133 “cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm
vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”.
Dựa vào khái niệm trên, đối chiếu với các tình tiết trong tình huống ta

thấy hành vi mà A thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của từng tội như
sau:
 Đối với tội hiếp dâm ( khoản 1 Điều 111 Bộ luật hình sự 1999)
- Khách thể: hành vi hiếp dâm xâm phạm đến quan hệ nhân thân
được luật hình sự Việt Nam bảo vệ.Trong tình huống, bằng hành vi của mình,
A đã xâm phạm đến quan hệ nhân thân là: nhân phẩm, danh dự của chị H,
xâm phạm đến sức khỏe ( gồm cả sức khỏe về thể chất và sức khỏe về tinh
thần).
- Chủ thể: Chủ thể của tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111
BLHS ngoài các dấu hiệu của chủ thể thường như là người đạt độ tuổi quy
định, và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự thì còn được xác định là chủ thể
đặc biệt. Dấu hiệu đặc biệt ở đây là dấu hiệu về giới tính.Tức là chủ thể của
tội hiếp dâm chỉ có thể làm nam giới. Cụ thể, A là nam giới, và vì đề bài
không đặt ra vấn đề về chủ thể thường nên ta ngầm hiểu A đáp ứng điều kiện
chủ thể thường, và đồng thời thỏa mãn chủ thể của tội hiếp dâm.
2


- Mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội này là hành vi dùng
vũ lực, đe dọa dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của
nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác để giao cấu với họ nhưng không được sự
chấp thuận của họ ( trái với ý muốn của họ). Cấu thành tội phạm của tội hiếp
dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với nạn nhân nhưng
không đòi hỏi hành vi giao cấu phải kết thúc về mặt sinh lí. Hành vi giao cấu
là trái với ý muốn của người phụ nữ ( người phụ nữ không chấp nhận sự giao
cấu hoặc hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của người phụ nữ). Cụ thể
ở trường hợp này ta thấy:
 Hành vi khách quan : A đã có hành vi dùng vũ lực và đe dọa
dùng vũ lực nhằm uy hiếp, vô hiệu hóa khả năng chống cự của chị H ( làm tê
liệt sự kháng cự của chị). Cụ thể, A chặn xe của chị H và kéo ngã chị. Sau đó,

chị H chống cự lại thì bị A bóp cổ. A còn có hành vi đe dọa dùng vũ lực, cụ
thể là hành vi dọa giết chị H ( A đe dọa chị H: “Im mồm, còn kêu nữa tao giết
chết”). Những hành vi của A làm ý chí của chị H bị tê liệt, buộc chị H phải
chịu sự giao cấu mà không dám kháng cự do lo lắng tính mạng của mình có
thể bị xâm hại. Do đó, hành vi khách quan của A thỏa mãn cấu thành tội phạm
của tội hiếp dâm theo khoản 1 Điều 111 BLHS.
 Hậu quả: Chị H bị A giao cấu trái ý muốn.
- Mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội hiếp dâm là lỗi cố ý. Cụ thể,
lỗi của A trong tình huống này là lỗi cố ý trực tiếp. A biết hành vi giao cấu của
mình là nguy hiểm cho xã hội và trái với ý muốn của chị H nhưng vẫn mong
muốn thực hiện hành vi đó đến cùng bằng cách dùng vũ lực và đe dọa dùng
vũ lực với chị H.
 Đối với tội cướp tài sản ( khoản 1 Điều 133 BLHS 1999)
- Khách thể: Khách thể của tội cướp tài sản bao gồm cả hai quan hệ
xã hội là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Bằng hành vi của mình, A đã
xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu chiếc xe đạp của chị H ( trị giá
1.500.000 đồng).
3


- Chủ thể: Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể bình thường nên chỉ
đòi hỏi có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định.Như đã
nói ở trên, ta ngầm hiểu A đã thỏa mãn điều kiện chủ thể thường.
- Mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội này là hành vi dùng
vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hành vi làm cho người bị
tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Trong đó hành vi đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là trường hợp người phạm tội bằng lời nói
hoặc bằng cử chỉ ( hoặc cả hai) để cho người bị tấn công biết rằng người
phạm tội có dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người bị tấn công có hành vi cản
trở việc chiếm đoạt tài sản; nhằm làm tê liệt ý chí kháng cự của người bị tấn

công. Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc ở tội cướp tài sản có tính
chất mãnh liệt là làm cho người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay, họ
không hoặc khó có điều kiện tránh khỏi. Cụ thể:
 Hành vi khách quan: Sau khi kết thúc hành vi giao cấu, chị H vội
vã lấy chiếc xe đạp của định bỏ chạy thì A quát: “Để chiếc xe đạp lại cho
tao”. Xét về nội dung lời nói của A, có thể thấy rõ mục đích chiếm đoạt tài
sản của A. Đây hoàn toàn có thể coi là lời đe dọa do thái độ của A là dứt khoát
( quát lên), tuy không nói sẽ dùng vũ lực nhưng ta hoàn toàn có thể hiểu nếu
chị H không để lại xe đạp cho A thì A sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc với chị H.
Lí do là trước đó, A đã có hành vi đe dọa dùng vũ lực với chị H ( dọa giết) để
thực hiện hành vi hiếp dâm chị H, điều này ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý chị
H khiến chị không thể bảo vệ tài sản của mình được. Do vậy, câu quát “Để
chiếc xe đạp lại cho tao” của A có tính chất của hành vi đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc. Dấu hiệu này chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử chỉ,
thái độ thể hiện ra bên ngoài là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc mà không đòi
hỏi họ phải thực sự có ý định sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng như phải có
đủ điều kiện để dùng vũ lực ngay tức khắc. Do đó, hành vi khách quan của A
thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133
BLHS.
4


 Hậu quả: A đã chiếm đoạt được tài sản của chị H ( là chiếc xe
đạp) và đã đem bán được 1.500.000 đồng.
- Mặt chủ quan:
 Lỗi: Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi
thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội biết mình có hành vi dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc biết mình có hành vi làm cho
người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể kháng cự được. Người phạm
tội cũng mong muốn hành vi đó đè bẹp hoặc làm tê liệt được sự chống cự của

người bị tấn công, để có thể thực hiện được mục đích chiếm đoạt tài
sản.Trong tình huống trên, A biết mình có hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay
tức khắc đối với chị H. A mong muốn hành vi đó đè bẹp hoặc làm tê liệt được
sự chống cự của chị H để có thể thực hiện mục đích chiếm đoạt tài sản. Vì
vậy, có thể nói lỗi của A là cố ý trực tiếp.
 Mục đích: chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc của tội cướp tài sản.
Việc thực hiện những hành vi khách quan được nêu trong điều 133 chỉ trở
thành hành vi phạm tội nếu những hành vi đó thực hiện nhằm mục đích chiếm
đoạt tài sản. Ở đây, A có mục đích chiếm đoạt điều này được thể hiện rất rõ
qua lời nói của A: “Để chiếc xe đạp lại cho tao”.
 Từ những phân tích trên, ta khẳng định hành vi của A đã đủ
điều kiện để cấu thành nên tội hiếp dâm theo khoản 1, Điều 111 và tội
cướp tài sản theo khoản 1, điều 133 BLHS 1999.
2. Giả sử sau khi kéo ngã chị H xuống đất, chị H nói mình bị nhiễm
HIV nên A đã bỏ đi. Hành vi của A có được coi là tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội không? Tại sao?
Giả sử sau khi kéo ngã chị H xuống đất, chị H nói mình bị nhiễm HIV
nên A đã bỏ đi.. Hành vi của A được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội. Bởi vì những lí do sau:


Điều 19 BLHS quy định:
5


“Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện
tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.Người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi
thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành một tội khác, thì người đó phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là sự tự kiềm chế của một
người để không thực hiện đến cùng hành vi phạm tội mà họ đã bắt đầu mặc
dù họ biết là có khả năng làm việc đó và không có gì ngăn cản họ.
Một người không thực hiện hành vi phạm tội nữa và được coi là tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi thỏa mãn những dấu hiệu:
Thứ nhất : Việc chấm dứt việc phạm tội phải là tự nguyện và dứt khoát
Để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, trước hết đòi hỏi việc
chủ thể dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm phải hoàn toàn do động lực
bên trong chứ không phải do trở ngại khách quan. Sự chấm dứt được coi là tự
nguyện nếu xác định được rằng hành vi đó được thực hiện là theo ý chí riêng
của người phạm tội, do cá nhân suy nghĩ, do người thân khuyên bảo…, không
kể vì động cơ gì, mặc dù họ có khả năng khách quan thực hiện tội phạm đến
cùng và họ biết rằng có khả năng đó. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn tin
rằng, hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể tiếp tục thực hiện tội phạm.
Thứ hai: Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ có thể
xảy ra trong trường hợp tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm
tội chưa đạt chưa hoàn thành.
Khi tội phạm đã ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành thì cũng có nghĩa
người phạm tội đã thực hiện hết những hành vi mong muốn và do vậy không
thể có việc tự ý nửa chừng không thực hiện tiếp tội phạm. Tại thời điểm chưa
đạt đã hoàn thành, hậu quả của tội phạm tuy chưa xảy ra nhưng sẽ xảy ra mà
không cần có hành vi gì tiếp nữa ( theo ý chủ quan của chủ thể). Như vậy,
việc chủ thể chỉ dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm rõ ràng không có ảnh
hưởng gì đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Trong trường hợp người
phạm tội từ bỏ ý định phạm tội ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành,
6


mặc dù họ có khả năng thực hiện tội phạm đến cùng thì họ cũng không được
coi là tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội, mà chỉ được coi là sự “hối hận tích

cực” đáng được cân nhắc, giảm nhẹ khi quyết định hình phạt.
Khi tội phạm đã hoàn thành thì cũng không thể có tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội được, vì khi đó, hành vi phạm tội đã có đầy đủ những đặc
điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện. Việc
dừng lại lúc này hoàn toàn không làm thay đổi tính chất nguy hiểm của hành
vi phạm tội đã thực hiện.
 Đối chiếu với tình huống trên ta thấy:
Sau khi nghe chị H nói mình bị nhiễm HIV A đã dừng lại. Sự chấm dứt
của A được coi là tự nguyện bởi vì đó là theo ý chí riêng của A; trong trường
hợp này, A có hai sự lựa chọn: thực hiện tiếp hành vi của mình ( dù biết H bị
nhiễm HIV) hoặc dừng lại. A biết mình có đủ khả năng để thực hiện hành vi
giao cấu trái ý muốn với chị H ( do A đã kéo ngã được chị H cũng như không
gian xung quanh là vắng vẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho A thực hiện tội
phạm). Tuy nhiên, A lại không thực hiện hành vi đó đến cùng mà lại quyết
định bỏ đi. Việc A dừng lại là sự tự nguyện và dứt khoát, xuất phát từ suy nghĩ
của A chứ không phải do một nguyên nhân khách quan nào khác. Ở đây, A đã
bỏ hẳn ý định phạm tội ( có thể là do sợ lây nhiễm bệnh từ chị H), chấm dứt
hành vi phạm tội một cách triệt để . Sự chấm dứt của A được thể hiện bằng
hành động “bỏ đi” chứ không phải bằng lời nói.
Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể do
những động cơ khác nhau thúc đẩy như hối hận, sợ bị phát hiện, sợ bị trừng
trị… nhưng Luật hình sự không đòi hỏi người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội phải thực sự hối hận… Do vậy, không cần phải biết trong tình huống
trên, A có thực sự hối hận hay không mà chỉ cần xem xét sự tự nguyện và dứt
khoát trong hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của A mà thôi.
Bên cạnh đó, ở trong trường hợp này, có thể thấy hành vi thực hiện tội
phạm của A đang ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành. A chưa thực hiện hết
7



các hành vi mà A mong muốn. A mới chỉ kéo chị H xuống đất, khi chị H nói
là mình bị nhiễm HIV thì A liền bỏ đi, hành vi giao cấu của A vẫn chưa xảy
ra. Hay nói cách khác, hậu quả nguy hiểm cho xã hội chưa xảy ra.
 Từ những phân tích trên có thể khẳng định: Hành vi của A
được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
3. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành vật chất hay hình thức? Tại
sao?
Tội hiếp dâm theo Điều 111 BLHS là tội có cấu thành hình thức.
Cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức là hai
dạng của cấu thành tội phạm khi phân loại cấu thành tội phạm dựa vào đặc
điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan.
Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu của
mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả.
Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu
của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Để xét xem tội hiếp dâm là tội có cấu thành vật chất hay cấu thành hình
thức. Ta dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản của tội hiếp dâm và xem xét các
dấu hiệu của mặt khách quan như sau:
Về mặt khách quan của tội phạm: Đó là "người nào dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân
hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ…"
 Dùng vũ lực là dùng sức mạnh về thể chất như vật ngã, đè, giữ tay,
chân, bịt miệng, bóp cổ, đấm đá, trói, giằng xé quần áo… của nạn nhân nhằm
làm mất hoặc hạn chế khả năng phòng vệ, tự vệ, chống trả của nạn nhân.

8


 Đe dọa dùng vũ lực là dùng lời nói, cử chỉ, động tác nhưng chưa tác

động vào người nạn nhân, nhưng làm cho nạn nhân hiểu rằng nếu người phạm
tội không giao cấu được thì sẽ sử dụng ngay tức khắc vũ lực.
 Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là những
trường hợp như nạn nhân đi một mình trong đêm vắng, đi một mình trong
rừng…
 Dùng thủ đoạn khác là những trường hợp người phạm tội đe dọa,
khủng bố tinh thần làm cho nạn nhân khiếp sợ, dùng thuôc gây mê, thuốc kích
dục, say rượu hay các chất kích thích khác làm cho nạn nhân hạn chế hoặc
mất khả năng chống cự.
 Giao cấu trái ý muốn của họ là việc giao cấu nhưng không được sự
đồng ý của nạn nhân.
Ta có thể nhận thấy, ở mặt khách quan của tội hiếp dâm không có mô tả
hậu quả xảy ra, đồng thời lại mô tả rất rõ hành vi. Các hành vi này đều mang
tính chất nguy hiểm, có khả năng xâm hại cao tới các quyền nhân thân của
con người và đặc biệt là phụ nữ. Ngay cả khi người phạm tội mới thực hiện
hành vi dùng bạo lực, đe dọa dùng bạo lực hoặc sử dụng các thủ đoạn khác để
giao cấu trái ý muốn của nạn nhân, nhưng chưa kịp giao cấu vì những nguyên
nhân ngoài ý muốn của người phạm tội như đã bị ngăn chặn thì họ vẫn phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm. Chính vì vậy tội phạm được coi là
hoàn thành từ thời điểm có các hành vi nhằm giao cấu với nạn nhân ngoài ý
muốn, không phụ thuộc vào việc đã giao cấu được hay chưa được.
 Có thể nói, tội hiếp dâm là một tội phạm có cấu thành hình
thức.

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Giáo trình “ Luật hình sự Việt Nam, Tập 1” - trường Đại học Luật

Hà Nội – Nhà xuất bản Công an Nhân dân – năm 2012.
2.

Giáo trình “ Luật hình sự Việt Nam, Tập 2” - trường Đại học Luật

Hà Nội – Nhà xuất bản Công an Nhân dân – năm 2009.
3.

Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 – Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia – năm 2012.
4.

Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung 2009 – ThS. Đinh Thế Hưng, TS. Trần
Văn Biên – Viện nhà nước và pháp luật – Nhà xuất bản Lao Động – 2013.
5.

Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, phần chung – Đinh

Văn Quế - Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 2000.
6.

Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm, tập II –

Đinh Văn Quế - Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 2002.
7.


Mô hình Luật hình sự Việt Nam , Nguyễn Ngọc Hòa, NXB Công

an nhân dân
8.

Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp số 02/2001/TTLT-TANDTC-BCA-BTP
ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV
“ Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999.
Đường

link:

/>
tich/Thong-tu-lien-tich-02-2001-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-huongdan-ap-dung-quy-dinh-tai-chuong-XIV-Cac-toi-pham-xam-pham-so-huu-cuaBo-luat-hinh-su-1999-vb48801t24.aspx

10



×