Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong mối liên hệ với công ước quốc tế về quyền trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.43 KB, 18 trang )

Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Công ước quốc tế về quyền trẻ em
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004
Bộ luật dân sự
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
Bộ Lao động, thương binh và xã hội

Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

CRC
Luật BVCSGDTE
BLDS
BVCSGD
Bộ LĐTB&XH

Page 0


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
A – LỜI MỞ ĐẦU:
Trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, Liên Hợp Quốc đã Công bố
rằng, trẻ em có quyền được hỗ trợ và chăm sóc đặc biệt; và cũng chỉ ra trong Tuyên bố
về quyền trẻ em, “trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và
bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra
đời”. Hiểu rõ tầm quan trọng đó, Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã được thông qua
năm 1989. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế
giới phê chuẩn Công ước vào ngày 20/2/1990. Sau đó, vào năm 2004, Quốc hội nước ta
đã soạn thảo và thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm bảo đảm


quyền lợi cho trẻ em. Chính vì vậy, nhóm 5 xin chọn đề bài số 5: “Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em trong mối liên hệ với Công ước quốc tế về quyền trẻ em”.
B – NỘI DUNG:
I, Khái quát chung về Công ước quốc tế về quyền trẻ em:
1. Hoàn cảnh ra đời:
Công ước quốc tế về quyền trẻ em (the Convention on the Rights of the Child –
CRC) được thông qua ngày 20/11/1989 (còn gọi là Công ước Quyền trẻ em năm 1989)
theo Nghị quyết 44/25 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và có hiệu lực từ ngày
2/9/1990 theo điều 49 của Công ước. Đây là một văn kiện quyền con người mang đậm
tính nhân văn và được nhiều nước phê chuẩn nhất trên thế giới. Công ước quy định về
các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em. Hiện có 197 quốc gia
tham gia, các quốc gia phê chuẩn Công ước này chịu ràng buộc của các quy định Công
ước. Công ước còn để ngỏ cho các quốc gia tham gia ký kết, phê chuẩn và gia nhập.
Sự ra đời của Công ước quốc tế về quyền trẻ em là một bước tiến quan trọng
trong công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em trên toàn thế giới của Lên Hợp Quốc. Đây được
coi là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em trong thời điểm
hiện nay. Công ước ra đời là sự kế thừa, phát triển và bổ sung cho những văn kiện pháp
lý quốc tế trước đây. Trước đó, sự cần thiết phải dành cho trẻ em sự chăm sóc đặc biệt là
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 1


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
một yêu cầu, được khẳng định trong Tuyên bố Giơ-ne-vơ về quyền trẻ em năm 1924,
trong Tuyên bố về quyền trẻ em do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày
20/11/1959 và điều đó cũng được thừa nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
con người; trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (Điều 23 và 24);
trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (Điều 10);…
Công ước quốc tế về quyền trẻ em còn nhắc lại các điều khoản của Tuyên bố về

các nguyên tắc xã hội và pháp lý có liên quan đến bảo hộ và phúc lợi cho trẻ em, đặc
biệt đối với chế độ bố trí nuôi dưỡng và nhận con nuôi trong phạm vi quốc gia và quốc
tế; Những quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về áp dụng pháp luật đối với
người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) và Tuyên bố về bảo vệ phụ nữ và trẻ em
trong trường hợp khẩn cấp hoặc xung đột vũ trang. Đồng thời, Công ước cũng thừa
nhận, nhấn mạnh rằng “ở mọi quốc gia trên thế giới, vẫn còn trẻ em sống trong các
điều kiện đặc biệt khó khăn và những trẻ em đó cần nhận được sự quan tâm đặc biệt”
và “tầm quan trọng của hợp tác quốc tế đối với việc cải thiện điều kiện sống của trẻ em
ở mọi quốc gia, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển”.
2. Những nội dung cơ bản:
Ngoài lời nói đầu, nội dung của Công ước gồm 3 phần với 54 điều khoản (Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc, trong Nghị quyết số 50/155 ngày 21 tháng 12 năm 1995,
thông qua việc sửa đổi khoản 2, điều 43 của Công ước Quyền trẻ em. Việc sửa đổi này
có hiệu lực vào ngày 18 tháng 11 năm 2002 khi được chấp nhận bởi đa số 2/3 của các
quốc gia thành viên (128 trong 191)), bao quát được tất cả những khía cạnh liên quan
đến quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo quyền
của trẻ em, mối quan hệ giữa trẻ em và quyền con người nói chung.
Bốn nhóm Quyền của trẻ em theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em: 1.Quyền
được sống; 2.Quyền được bảo vệ; 3.Quyền được phát triển; 4.Quyền được tham gia.
Lần đầu tiên, vấn đề “trẻ em” được xác định, làm cơ sở cho việc thúc đẩy và bảo
vệ các quyền trẻ em trên thực tế. Một tập hợp các quyền trẻ em trên tất cả các lĩnh vực
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 2


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
(mà rất nhiều quyền chưa hề được đề cập ở các văn kiện trước đó) đã được Công ước
ghi nhận, bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ, chăm sóc một cách có hiệu quả; được phát
triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức và xã hội. Không chỉ đề cập đến

trẻ em nói chung, Công ước còn đề cập đến việc bảo vệ quyền của những nhóm trẻ em
đặc biệt (tàn tật, lang thang cơ nhỡ, bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang...); đồng thời,
xác định những biện pháp nhằm xóa bỏ những nguy cơ đang đe dọa nghiêm trọng cuộc
sống của nhiều trẻ em như bị lạm dụng tình dục, bóc lột sức lao động, ảnh hưởng của
chất ma túy và bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang... Cùng với các
điều đó, Công ước còn xác lập một cơ chế quốc tế để giám sát việc thực hiện các quyền
trẻ em trên thế giới, tạo điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ. Tóm lại có
thể thấy, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 có những điểm nổi bật sau:
Thứ nhất: Thời gian từ khi ký đến khi Công ước có hiệu lực rất ngắn (9 tháng 18
ngày) và là điều ước quốc tế đa phương có số lượng quốc gia thành viên lớn nhất so với
tất cả các điều ước quốc tế được ký trên thế giới. Điều này phản ánh tầm quan trọng của
vấn đề bảo vệ quyền trẻ em cũng như sự quan tâm của các quốc gia đối với thế hệ trẻ.
Thứ hai: Công ước Quyền trẻ em năm 1989 lần đầu tiên đã khái quát được các
khía cạnh của quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm
bảo quyền của trẻ em. Mối quan hệ giữa quyền trẻ em với quyền con người nói chung.
Thứ ba: Theo Điều 43 Công ước quyền trẻ em năm 1989, Ủy ban về quyền trẻ em
được thành lập nhằm xem xét sự tiến bộ mà các quốc gia thành viên đạt được trong việc
thực hiện các nghĩa vụ mà họ đã cam kết thông qua các báo cáo định kỳ. Đồng thời theo
Điều 45, bên cạnh Ủy ban về quyền trẻ em thì các cơ quan chuyên môn, UNICEF và
các tổ chức khác thuộc Liên Hợp Quốc cũng có thẩm quyền giám sát, giúp đỡ các quốc
gia thành viên trong quá trình thực hiện Công ước.
Với nội dung trên, Công ước được coi là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn
diện nhất về quyền trẻ em trong thời điểm hiện nay. Tuy vậy, để hỗ trợ cho Công ước
này, năm 2000, Liên Hợp Quốc còn thông qua hai Nghị định thư bổ sung, đề cập đến
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 3


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em

việc cấm sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và việc cấm buôn bán, bóc lột
mại dâm trẻ em và cấm văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em.
II, Khái quát chung về Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em:
1. Hoàn cảnh ra đời:
a) Giai đoạn trước khi Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ra đời:
Trong những ngày đầu mới thành lập đất nước, mặc dù còn phải đối phó với thù
trong giặc ngoài song Nhà nước đã quan tâm xây dựng hệ thống pháp luật để kịp thời
điều chỉnh các mối quan hệ, phục vụ quốc kế dân sinh, trong đó có vấn đề bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em trẻ em, tạo cơ hội cho trẻ em phát triển toàn diện, trở thành chủ
nhân tương lai của đất nước. Điều này thể hiện trong trong các bản Hiến pháp – văn
kiện pháp lí quan trọng nhất của nước ta.
Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã quy định những vấn
đề cơ bản của chế độ, trong đó có các quyền cơ bản của công dân và trẻ em là công dân
được hưởng các quyền đó. Hiến pháp năm 1946 đã giành 2 điều quy định ngắn gọn, rõ
ràng, thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của Nhà nước đối với trẻ em: Điều 14 quy định
“Trẻ em được săn sóc về mặt giáo dưỡng” và Điều 15 quy định “Nền sơ học cưỡng
bách và không học phí... học trò nghèo được Chính phủ giúp”.
Hiến pháp năm 1980, quy định việc bảo vệ trẻ em gắn liền với bảo vệ phụ nữ,
đồng thời khẳng định trách nhiệm và nghĩa vụ của gia đình, Nhà nước và xã hội đối với
sự nghiệp bảo vệ bà mẹ và trẻ em: Điều 47, “…Nhà nước và xã hội bảo vệ bà mẹ và trẻ
em; vận động sinh đẻ có kế hoạch”. Điều 64, “Gia đình là tế bào của xã hội...”.
Hiến pháp năm 1992, kế thừa các bản Hiến pháp trước đó, chế định bảo vệ, chăm
sóc trẻ em được tái khẳng định, đề cao trách nhiệm của gia đình, đặc biệt là trách nhiệm
của cha mẹ đối với con cái, đồng thời cũng quy định bổn phận của con cháu đối với ông
bà, cha mẹ: “Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Cha
mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính
trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 4



Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
phân biệt đối xử giữa các con ” (Điều 64).
Ngoài ra, các chủ trương, chính sách về trẻ em được quy định trong Luật hôn
nhân và gia đình và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan: Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1986; Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989 và nhiều nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn thực hiện có liên quan của
Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em được Quốc hội Khóa VIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 12/8/1991.
b) Giai đoạn sau khi Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ra đời:
Bước sang thế kỷ XXI cộng đồng quốc tế đã cam kết cùng nhau phấn đấu thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có mục tiêu vì trẻ em và kêu gọi toàn thể nhân
loại hãy bảo đảm cho trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn. Thực hiện cam kết này, Việt
Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, trong đó có chính sách về trẻ em, cụ thể là:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng, văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn thực hiện có liên quan đến trẻ em của Quốc
hội, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương. Và đặc biệt không thể không nhắc tới sự
ra đời của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (Luật BVCSGDTE) số
25/2004/QH11 được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004. Đây là
văn bản pháp lý cơ bản và hoàn thiện nhất về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt
Nam. Bởi nó không những kế thừa tinh thần của Công ước quốc tế về quyền trẻ em
1989 và các văn bản pháp lí trước đây về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Việt
Nam mà còn bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật cho phù hợp với hoàn cảnh,
thực tiễn của trẻ em Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành Nghị định số
36/2005/NĐ-CP, Nghị định số 71/2011/NĐ-CP thay thế Nghị định số 36/2005/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVCSGDTE.
Chính sách về trẻ em trong giai đoạn này nhằm mục tiêu bảo đảm cho trẻ em một
tương lai tốt đẹp hơn, với 5 nguyên tắc cơ bản là: Không phân biệt đối xử với trẻ em;

Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 5


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
các quyền của trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em là trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và toàn xã hội; dành lợi ích tốt nhất cho trẻ
em; trẻ em thuộc diện chính sách xã hội, có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp để được
hoà nhập với gia đình, cộng đồng.
Đồng thời, tổ chức bộ máy làm công tác BVCSGD trẻ em được quy định tại Nghị
định số 94/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em là cơ
quan ngang Bộ, cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
BVSCGD trẻ em; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực BVCSGD trẻ em.
Hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở. Hiện nay,
ở Trung ương, qua quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ
em không còn. Các chức năng của Ủy ban được chuyển giao sang một số bộ, ngành như
Bộ LĐTB&XH, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế ... trong đó, chức năng quản lý nhà
nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên phạm vi cả nước được giao cho Bộ LĐTB&XH.
2. Những nội dung cơ bản:
a) Những quy định chung:
Trước hết, Điều 1 Luật BVCSGDTE 2004 quy định: “Trẻ em quy định trong Luật
này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”. Quy định này kế thừa Luật
BVCSGDTE năm 1991, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện hành và
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ hai khái
niệm “trẻ em” theo Luật BVCSGD trẻ em và khái niệm “Người chưa thành niên” quy
định tại Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS). Điều 18-BLDS quy định: “Người từ đủ
mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa
thành niên”. Hai khái niệm này không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Người chưa thành
niên gồm có trẻ em (người dưới 16 tuổi) và nhóm người từ 16 đến dưới 18 tuổi. Điều

này có nghĩa là: Tất cả trẻ em công dân Việt Nam đều là người chưa thành niên nhưng
không phải tất cả người chưa thành niên đều là trẻ em.
Luật còn quy định các nguyên tắc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em: Không
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 6


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
phân biệt đối xử với trẻ em (Điều 4); Tôn trọng và thực hiện các quyền của trẻ em
(Khoản 1 Điều 6); Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội
(Khoản 1 Điều 5); Dành lợi ích tốt nhất cho trẻ em (Khoản 1 Điều 5); Trẻ em thuộc diện
chính sách xã hội, có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp. Đây chính là kim chỉ nam cho
công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.
Điều 7 Luật BVCSGD trẻ em quy định 10 nhóm hành vi bị nghiêm cấm nhằm
bảo đảm cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh. Đây là 10 nhóm
hành vi vi phạm quyền trẻ em đặc thù đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Ngoài 10 nhóm hành vi được quy định, các hành vi vi phạm khác làm tổn hại đến quyền
và lợi ích của trẻ em đã được quy định và bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện
hành.
Điều 8 Luật BVCSGDTE quy định có tính nguyên tắc về trách nhiệm quản lý nhà
nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Khoản 1: “Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” với cơ quan giúp việc là Uỷ ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em. Ngoài ra, các bộ, ngành có liên quan thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo sự phân công của Chính phủ.
Điều 10 Luật BVCSGDTE quy định về nguyên tắc, chính sách, nội dung hợp tác quốc
tế về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
b) Quyền và bổn phận của trẻ em:
Chương 2: Pháp luật quy định các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em.
Các quyền cơ bản bao gồm: Quyền được khai sinh và có quốc tịch, Quyền được

có họ tên; Quyền được chăm sóc nuôi dưỡng, quyền sống chung với cha mẹ, Quyền
được tôn trọng , bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự, Quyền được chăm
sóc sức khoẻ, Quyền được học tập, Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ
thuật, thể dục, thể thao; Quyền được phát triển năng khiếu, Quyền có tài sản; Quyền
được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
Bên cạnh việc quy định các quyền cơ bản của trẻ em pháp luật cũng đặt ra cho trẻ
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 7


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
em những bổn phận nhất định. Cụ thể điều Điều 21: “Trẻ em có bổn phận sau đây:
1. Yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; kính trọng thầy giáo, cô
giáo; lễ phép với người lớn, thương yêu em nhỏ, đoàn kết với bạn bè; giúp đỡ người già
yếu, người khuyết tật, tàn tật, người gặp hoàn cảnh khó khăn theo khả năng của mình;
2. Chăm chỉ học tập, giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể, thực hiện trật tự công
cộng và an toàn giao thông, giữ gìn của công, tôn trọng tài sản của người khác, bảo vệ
môi trường;
3. Yêu lao động, giúp đỡ gia đình làm những việc vừa sức mình;
4. Sống khiêm tốn, trung thực và có đạo đức; tôn trọng pháp luật; tuân theo nội
quy của nhà trường; thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hoá; tôn trọng, giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc;
5. Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đoàn kết quốc tế.”
Pháp luật không đặt ra vấn đề nghĩa vụ với trẻ em. Vì xuất phát từ đặc điểm của
trẻ em là lứa tuổi chưa phát triển ổn định tâm sinh lý, không thể tự chăm sóc và bảo vệ
bản thân mình. Hơn nữa, khi trẻ em mắc lỗi, không thực hiện bổn phận của mình chỉ sử
dụng các biện pháp giáo dục chứ không phải áp dụng cơ chế hay biện pháp xử lý nào.
c) Trách nhiệm chăm sóc giáo dục, và bảo vệ trẻ em:

Xuất phát từ đặc điểm của trẻ em luôn cần được sự bảo vệ chăm sóc, do đó pháp
luật cũng đặt ra trách nhiệm cụ thể với từng cá nhân, tổ chức và của toàn thể cộng đồng.
Quy định này được ghi nhận tại Chương 3 Luật BVCSGDTE. Cụ thể: trách nhiệm đăng
kí khai sinh (Điều 23), trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng (Điều 24), Trách nhiệm bảo
đảm cho trẻ em sống chung với cha mẹ (Điều 25), Trách nhiệm bảo vệ tính mạng, thân
thể, nhân phẩm, danh dự (Điều 26).
d) Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt:
Khái niệm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở đây bao gồm: Trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 8


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm
việc nặng nhọc, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang
thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật.
Luật BVCSGDTE cũng đưa ra những biện pháp cụ thể để đảm bảo quyền lợi của
những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt này. Cụ thể: đã đưa ra các hình thức trợ giúp trẻ có
hoàn cảnh đặc biệt như: đóng góp bằng tiền , hiện vật; hay nhận nuôi, đỡ đầu hoặc nhận
làm gia đình thay thế chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tham gia giúp
đỡ tại các cơ sở trợ giúp trẻ, tổ chức các hoạt động hỗ trợ trẻ ở những hoàn cảnh này về
phục hồi sức khỏe, tinh thần.Ngoài ra pháp luật cũng xác định cụ thể cơ quan , tổ chức
có trách nhiệm trong việc bảo vệ đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: Cơ sở trợ giúp
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ( Điều 48, Điều 52 đến 58), với từng đối tượng trẻ có hoàn
cảnh đặc biệt khác nhau thuộc trách nhiệm của cá nhân , tổ chức khác nhau.
III, Mối liên hệ giữa Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Công ước
quốc tế về quyền trẻ em:



Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em được xây dựng và hoàn thiện

dựa trên cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng - Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em:
Ngày 26/01/1990, Việt Nam đã ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC) và
phê chuẩn theo Quyết nghị số 241 NQ/HĐNN7 của Hội đồng Nhà nước
ngày 20/2/1990 (không bảo lưu điều nào). Liên hợp quốc công nhận ngày phê chuẩn là
ngày 28/2/1990. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và là quốc gia thứ hai trên thế
giới phê chuẩn Công ước. Sau đó, ngày 20/12/2001, Việt Nam phê chuẩn 2 nghị định
thư bổ sung Công ước, đó là: Nghị định thư (không bắt buộc) về buôn bán trẻ em, mại
dâm trẻ em và văn hóa khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư (không bắt buộc) về sử dụng trẻ
em trong xung đột vũ trang.
Ngay từ sau khi phê chuẩn Công ước, Nhà nước Việt Nam có rất nhiều nỗ lực
trong việc thực hiện Công ước, như nâng cao nhận thức về quyền trẻ em; làm hài hoà
giữa Công ước Quyền trẻ em và luật pháp quốc gia; đẩy mạnh quản lý nhà nước về trẻ
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 9


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
em; tăng cường nguồn lực đầu tư cho trẻ em và đặc biệt là ngày càng quan tâm đến vai
trò của chính trẻ em và người chưa thành niên.“Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng đầu tư
vào trẻ em để thực hiện các quyền sống còn, bảo vệ, phát triển và tham gia của trẻ em
chính là đầu tư cho tương lai”. Tinh thần Công ước đã được đưa vào trong khuôn khổ
pháp lý của nước ta qua việc ban hành Luật BVCSGDTE. Có thể nhận thấy những điều
khoản trong Công ước đã được nội luật hóa vào pháp luật của nước ta như:
- Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em thì trẻ em là những người dưới 18tuổi
còn theo pháp luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì trẻ em là những người dưới
16 tuổi nhưng điều quan trọng là trong những văn bản pháp lí này đều khẳng định trẻ

em là những cá thể còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần, rất dễ bị tổn thương nên phụ
thuộc rất lớn vào sự chăm sóc của gia đình, nhà trường và xã hội.
- Không phân biệt đối xử và lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em là hai nguyên tắc
được quy định tại Điều 4 và Điều 5 Luật BVCSDGTE tương ứng với Điều 2 và 3 của
CRC cũng quy định.
Trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em có quy định bốn nhóm quyền của trẻ
em: 1.Quyền được sống; 2.Quyền được bảo vệ; 3.Quyền được phát triển; 4.Quyền được
tham gia với 28 quyền cơ bản. Những nhóm quyền này được pháp luật Việt Nam cụ thể
hóa trong việc quy định các quyền của trẻ em như:
- Quyền được khai sinh là một trong những quyền quan trọng đầu tiên của mỗi
người. Khoản 1 điều 11 Luật BVCSGDTE quy định: “Trẻ em có quyền được khai sinh
và có quốc tịch” tương ứng với Điều 7 của Công ước. Quyền được khai sinh là điều
kiện tiên quyết để khẳng định mỗi trẻ em sinh ra một công dân của một quốc gia, một
công dân bình đẳng, có những quyền và nghĩa vụ như những công dân khác.
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em: Tương ứng với các Điều 8, 18,
20, 24 của CRC thì Điều 12 của Luật BVCSGDTE quy định trẻ em có quyền được
chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, tinh thần và đạo đức. Để bổ sung cho điều
này Điều 7, 24 Luật BVCSGDTE đã có các quy định liên quan đến vấn đề này giúp cho
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 10


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
việc thực hiện quyền này của trẻ em được đảm bảo hơn.
- Quyền sống chung với cha mẹ của trẻ em: Điều 13 Luật BVCSGDTE đã cụ thể
hóa Điều 9 của CRC với nội dung: trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ, không ai có
quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ (trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ). Để cho quyền
này được đảm bảo trên thực tế, Điều 25 Luật BVCSGD trẻ em và các quy định trong
Nghị định 71/2011/NĐ-CP đã quy định về Trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em sống chung

với cha mẹ.
- Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của
trẻ em: Điều 14 của Luật BVCSGD trẻ em đã đưa nội dung của các Điều 16, 31, 34, 35,
36 của CRC thành quy định: trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ
tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự. Điều 7 của Luật cũng nghiêm cấm các hành
vi xâm phạm đến quyền trên của trẻ em còn Điều 24 thì quy định trách nhiệm của gia
đình, Nhà nước và xã hội phải bảo vệ quyền này của trẻ em (Nghị định 71/2011/NĐ-CP
cũng đã hướng dẫn cụ thể về quyền này).
- Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em: Được quy định tại Điều 25 CRC và
Điều 15 của Luật BVCSGDTE 2004 và các Điều 7, 27 Luật BVCSGDTE và Điều 18
của Nghị định 71/2011/NĐ-CP cũng quy định cụ thể và chi tiết về các quyền này.
- Quyền học tập của trẻ em: việc phổ cập giáo dục cho trẻ em và việc giáo dục
cho trẻ em phải được hướng tới những điều tốt đẹp cho các em cũng như xã hội được
quy định tại điều 28, 29 Công ước CRC và điều 28 Luật BVCSGDTE, Luật phổ cập
giáo dục, Luật giáo dục 2005. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật quốc tế thì miễn
phí học phí cho tất cả trẻ em nhưng pháp luật Việt Nam chỉ quy định miễn giảm học phí
cho các trường hợp thuộc đối tượng ưu tiên và nghèo, cận nghèo... Đây cũng là nét đặc
thù của pháp luật Việt Nam, do điều kiện kinh tế nước ta chưa phát triển cao như các
nước EU, Mỹ,… nên Nhà nước không đảm bảo miễn học phí cho tất cả trẻ em được.
Trên thực tế, việc thực hiện phổ cập giáo dục ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó
khăn nhất là ở các khu vực dân tộc miền núi. Việc trẻ em không đến trường mà ở nhà
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 11


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
phụ giúp gia đình diễn ra rất phổ biến. Mặt khác ở nhiều nơi cơ sở vật chất để đáp ứng
cho việc giáo dục cho trẻ em còn thiếu thốn, không đáp ứng được nhu cầu học tập cũng
như sinh hoạt văn hóa của các em.

- Quyền tự do biểu đạt, tự do tư duy, tôn giáo, tín ngưỡng, kết giao, hội họp một
cách hòa bình. Các quyền tự do này được pháp luật quốc tế quy định cụ thể tại các điều
13, 14, 15, 17 CRC. Tương ứng với nội dung các điều trên của CRC, Điều 20 - Luật
BVCSGDTE Việt Nam quy định, trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin phù hợp với
sự phát triển của trẻ, được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về những vấn đề mình quan tâm
cũng như được tham gia hoạt động xã hội phù hợp với nhu cầu và năng lực của mình.
- Quyền trẻ em trong lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội, y tế: Theo Điều 33
Công ước, phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp, bảo vệ trẻ em khỏi bị lôi kéo vào
việc sử dụng bất hợp pháp các chất ma túy và kích thích thần kinh để ngăn ngừa việc sử
dụng trẻ em vào việc sản xuất, buôn bán bất hợp pháp các chất đó; bảo vệ trẻ em trước
mọi hình thức bóc lột và lạm dụng tình dục như xúi giục, ép buộc, lợi dụng trẻ em tham
gia… Đảm bảo thực hiện tốt Công ước, Luật BVCSGDTE đã quy định những biện pháp
nghiêm cấm lôi kéo trẻ em đánh bạc, uống rượu, hút thuốc, dùng chất kích thích có hại
cho sức khoẻ; dụ dỗ, dẫn dắt trẻ em mại dâm, bán hoặc cho trẻ em sử dụng những văn
hoá phẩm đồi truỵ, đồ chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em.
- Quyền của các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như: trẻ em mồ côi không nơi
nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em khuyết tật, trẻ em nhiễm HIV/AIDS…CRC đã ghi
nhận quyền của những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại các điều 19, 20, 21, 22, 23, 25.
Cụ thể, các điều này quy định về quyền của trẻ em bị lạm dụng, sao nhãng; trẻ em bị
mất môi trường gia đình, trẻ em tị nạn, trẻ em khuyết tật. Tương ứng với nội dung các
điều 19, 20, 21, 23, 25 CRC, Luật BVCSGDTE Việt Nam đã dành hẳn một chương quy
định về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Cụ thể, từ điều 51
đến điều 58 đã quy định quyền cho các nhóm trẻ em: trẻ em mồ côi không nơi nương
tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 12


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em

nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc
hại, trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ
em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật.
Như vậy, dựa trên những quy định của pháp luật quốc tế, các quyền của trẻ em đã
được pháp luật Việt Nam cụ thể hóa cho phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho trẻ em này thực hiện những quyền cơ bản của mình.


Công ước quốc tế về quyền trẻ em tạo ra những ràng buộc về mặt pháp

lý đối với việc sửa đổi bổ sung Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em:
Tính chất tác động của Công ước quốc tế về quyền trẻ em đối với Luật
BVCSGDTE được đánh giá bằng thực tiễn thực thi nghĩa vụ thành viên điều ước quốc
tế của quốc gia, thể hiện ở những hoạt động cụ thể: Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy
định của luật quốc gia phù hợp với cam kết quốc tế về quyền trẻ em của Việt Nam.
Các văn bản pháp luật Việt Nam hiện nay về BVCSGD trẻ em đều thể hiện quan
điểm của Nhà nước Việt Nam trong việc nghiêm chỉnh tuân thủ và tôn trọng các nghĩa
vụ cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam chính thức ràng buộc, trên cơ sở bình
đẳng, có đi có lại, hợp tác phát triển. Việc Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về
quyền trẻ em sẽ tạo một hành lang pháp lý, một cơ sở vững chắc để chúng ta có thể sửa
đổi luật cho phù hợp với thực tế cuộc sống hơn.


Nhận xét:

Như vậy, qua việc phân tích tìm hiểu hoàn cảnh, nội dung của hai văn bản pháp lý
về BVCSGD trẻ em quan trọng là Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Luật
BVCSGDTE, nhóm đã tìm ra được những mối liên hệ giữa hai văn bản này. Có thể nói,
Công ước quốc tế về quyền trẻ em là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xây dựng và
hoàn thiện Luật BVCSGDTE và Công ước đã tạo ra những ràng buộc về mặt pháp lý

đối với việc sửa đổi bổ sung Luật BVCSGDTE. Điều này có thể thấy rõ ràng trong nội
dung của Luật BVCSGDTE 2004. Tuy còn một số khác biệt để phù hợp với hoàn cảnh,
thực tiễn của trẻ em Việt Nam nhưng trên hết, pháp luật Việt Nam đã cụ thể hóa và dựa
Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 13


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
trên đúng tinh thần của Công ước thể hiện ở việc quy định nguyên tắc, các quyền và bổn
phận của trẻ em,…. Qua gần 10 năm triển khai thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ
em theo quy định của Luật đã có những bước tiến rõ rệt. Năm 1996, chỉ có khoảng 60%
trẻ em được khai sinh đúng độ tuổi thì đến năm 2012 tỉnh thấp nhất đạt 75%, rất nhiều
địa phương tỷ lệ này đạt 100%. Chỉ sau một năm thực hiện Chương trình quốc gia bảo
vệ trẻ em thì tỷ lệ trẻ em phải lao động nặng nhọc và trong điều kiện nguy hiểm, độc hại
đã giảm. Hiện nay, các tỉnh miền núi đều có trường học nội trú dành cho các học sinh
dân tộc ít người. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi (thể nhẹ cân) ngày càng
giảm. Năm 2005, tỷ lệ này ở Lai Châu là 73,5%, đến năm 2012 giảm xuống còn 58% và
thể thấp còi giảm từ 9,5% năm 2005 xuống còn 8,3% năm 2012. Các địa phương triển
khai cấp thẻ BHYT cho trẻ dưới 6 tuổi, tỉnh có tỷ lệ cấp thẻ BHYT đạt cao nhất là 98%.
Tỷ lệ huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi ở các khối và trường được xây mới tăng hàng
năm. Nhiều tỉnh, tỷ lệ trẻ em 3- 5 tuổi đi mẫu giáo đạt 100% (Thái Bình, Vĩnh Phúc…).
Tuy nhiên, sau 10 năm đi vào cuộc sống, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Cuộc sống hiện nay đã nảy sinh nhiều vấn đề liên quan
đến trẻ em như bạo lực, xâm hại, bóc lột trẻ em. Theo thống kê 2013 của Bộ LĐTB&XH, có khoảng hơn 26.000 lao động trẻ em. Hàng ngàn trẻ em phải vất vả làm đủ
mọi nghề để phụ giúp gia đình và nuôi sống bản thân. Nhiều công việc quá sức lực và
lứa tuổi của các em như bốc vác, phục vụ trong các nhà hàng, phải làm việc trong môi
trường hóa chất độc hại... Có rất nhiều vụ đánh đập, ngược đãi trẻ em xảy ra như vụ
cháu Hào Anh 14 tuổi (cà mau) bị vợ chồng chủ trại nuôi tôm Minh Đức hành hạ một
thời gian dài bằng các hình thức dã man như dùng kìm bấm vào môi, bẻ răng… đã gây

nhức nhối dư luận một thời gian dài. Hay thực tế chất lượng chăm sóc, tiêm phòng tại
các nhà trẻ, bệnh viện đều khiến cho cộng đồng, xã hội bàng hoàng. Trước thực tế này,
Bộ LĐTB&XH đang tiến hành lấy ý kiến về sửa đổi Luật BVCSGDTE trình Quốc hội
xem xét.

Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 14


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em
Ông Đặng Hoa Nam, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Bộ
LĐTB&XH) cho biết, dự kiến Luật BVCS& GDTE sẽ tập trung vào 5 vấn đề: Thứ
nhất, tăng độ tuổi trẻ em từ 16 lên 18 tuổi; Thứ hai, quy định cụ thể hơn trách nhiệm,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội liên quan đến trẻ em; Thứ ba, tăng
cường chức năng giám sát của các tổ chức thành viên MTTQ Việt Nam, các cơ quan của
Quốc hội về thực hiện luật, các chương trình liên quan đến trẻ em; Thứ tư, quy định
công tác bảo vệ trẻ em rõ ràng, cụ thể, trong đó có các dịch vụ bảo vệ trẻ em; Thứ
năm, quy định rõ quyền tham gia của trẻ em, như trẻ em được tham khảo ý kiến, trẻ
được tham gia vào quá trình ra quyết định của chính quyền các cấp về các chính sách
liên quan đến trẻ em.
Tăng độ tuổi trẻ em từ 16 lên 18 tuổi nhận được nhiều sự quan tâm nhất khi đưa
ra lấy ý kiến. Theo ông Đặng Hoa Nam, nếu tăng độ tuổi thì trẻ em sẽ là người được
hưởng lợi rất nhiều. Đơn cử như 18 tuổi vẫn là trẻ em thì các em sẽ được hưởng lợi từ
các chính sách ưu đãi dành cho người chưa thành niên trong các lĩnh vực y tế, giáo dục,
phúc lợi xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực y tế, trẻ em sẽ được bảo đảm việc cung ứng các
loại thuốc thiết yếu chữa bệnh cho trẻ em; bảo đảm điều kiện và chất lượng khám bệnh,
chữa bệnh, được tiêm chủng phòng bệnh, phòng dịch... Để sửa đổi Luật BVCSGDTE
một cách toàn diện, bên cạnh việc lấy ý kiến các cơ quan, ngành…sẽ lấy ý kiến trực tiếp
của trẻ em thông qua nhiều hình thức như điện thoại, website, phiếu thăm dò để trẻ em

được bày tỏ ý kiến của mình. Dự kiến, dự thảo Luật sửa đổi bổ sung Luật BVCSGDTE
sẽ được trình lên Quốc hội vào cuối năm 2014.
C – KẾT LUẬN:
Trẻ em là trái tim của gia đình và là tương lai của xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần
quan tâm, tạo mọi điều kiện để trẻ em thực hiện các quyền cơ bản của mình. Muốn như
vậy, chúng ta cần xây dựng một hệ thống pháp luật về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ
em một cách hoàn thiện dựa trên cơ sở Công ước quốc tế về quyền trẻ em.

Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 15


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989.
2. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
3. Nghị định của Chính phủ số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVCSGDTE.
4. Nghị định của Chính phủ số 71/2011/NĐ-CP ngày 22/8/2011 hướng dẫn thi
hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thay thế Nghị định số
36/2005.
5. Đặc san tuyên truyền pháp luật số 02/2011 khái quát chung về Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em – Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
của Chính Phủ.
6. Một số trang web: duthaoluatonline.vn
baomoi.com
...


Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 16


Bài tập nhóm 1 môn Pháp luật về quyền trẻ em

MỤC LỤC
A – LỜI MỞ ĐẦU:……………..………………………………………………………1.
B – NỘI DUNG:
I, Khái quát chung về Công ước quốc tế về quyền trẻ em:…………………………..1-4.
1. Hoàn cảnh ra đời:
2. Những nội dung cơ bản:
II, Khái quát chung về Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em:……………..…4-9.
1. Hoàn cảnh ra đời:
2. Những nội dung cơ bản:
III, Mối liên hệ giữa Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Công ước quốc tế về
quyền trẻ em:...............................................................................................................9-15.
C – KẾT LUẬN:………………………………....……………..……….…….........….15.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:……………...………………....….......……16.

Nhóm 05 - Lớp N02 – TL01

Page 17



×