Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Phân tích các loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.87 KB, 29 trang )

Mục lục

I. MỞ ĐẦU:
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không tồn tại pháp luật nhưng lại có những
quy tắc ứng xử chung thống nhất. Đó là những tập quán và các tín điều tôn giáo. Khi
chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành các giai cấp thì các quy tắc, tập quán
không còn phù hợp nữa. Trong điều kiện xã hội có phân chia giai cấp và mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước ra đời. Nhà nước muốn duy trì trật tự xã
hội thì cần có pháp luật và pháp luật đã ra đời. Pháp luật không tách rời với nhà nước
và đó chính là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Chính vì vậy, pháp luật không phải là hiện tượng bất biến, vĩnh cửu mà phải thay
đổi theo sự biến đổi của xã hội và bản thân nó luôn chịu sự tác động của các sự vật,
hiện tượng khác nhau trong đời sống xã hội. sự thay đổi về tính chất, quan niệm và vai
trò của pháp luật luôn kèm theo sự biến đổi của nguồn pháp luật. bởi pháp luật và
nguồn pháp luật là hai phạm trù luôn có mối tác động qua lại chặt chẽ với nhau và
được coi là song hành về bản chất. các nguồn của pháp luật ở Việt Nam được sử dụng
1


rất phong phú, đa dạng. trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa thì hệ thống pháp luật
Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và có những đổi mới theo hướng tích cực để phù
hợp với xã hội hiện tại.
Về vấn đề này thì Tiến sĩ. Mai Văn Thắng – khoa Luật, ĐHQGHN đã bàn về việc
“Đa dạng hóa các loại nguồn pháp luật ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách
quan” hay bài nghiên cứu “Về khái niệm nguồn của pháp luật” của Tiến sĩ Nguyễn Thị
Hồi. Các bài nghiên cứu nói trên đã đi sâu vào mội vài khía cạnh của nguồn pháp luật
Việt Nam. Trong khuôn khổ của bài luận này, chúng ta sẽ tập trung phân tích các loại
nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay để từ đó thấy được tiến trình hội nhập của đất
nước và công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, củng cố đất nước.

2




II. NỘI DUNG:
1. Định nghĩa:
1.1. Định nghĩa pháp luật:
Pháp luật là hệ thống các quy định (quy tắc) chung cho xã hội (bao gồm các quy
tắc xử sự chung và các nguyên tắc, các khái niệm pháp lý) do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện để điều hành và quản lý xã hội nhằm thiết lập, giữ gìn
trật tự xã hội và thực hiện các mục tiêu của lực lượng cần quyền.
1.2. Định nghĩa nguồn pháp luật:
Nguồn pháp luật là tất cả các căn cứ được sử dụng làm cơ sở để xây dựng, giải
thích, thực hiện và áp dụng pháp luật.
2. Nguồn pháp luật
Ngày nay, các nguồn pháp luật được sử dụng ở các quốc gia rất phong phú và đa
dạng. Mỗi quốc gia xác định cho mình các nguồn pháp luật khác nhau. Tuy vậy, có
những nguồn pháp luật mà hầu hết các quốc gia đều thừa nhận và sử dụng như tập
quán, án lệ, văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế. Ngoài ra, ở một số quốc
gia còn có các nguồn luật khác như học thuyết pháp lý, đường lối, chính sách của
đảng, tín điều tôn giáo,…
- Văn bản quy phạm pháp luật
- Tập quán pháp
- Tiền lệ pháp
- Văn kiện của các tổ chức phi nhà nước
- Các tư tưởng, học thuyết pháp lý
- Pháp luật quốc tế
- Pháp luật nước ngoài
- Nguyên tắc pháp luật, chính sách pháp luật
3



- Các hợp đồng, giao kèo
- Các quan điểm luật học của các chuyên gia
3. Nguồn pháp luật Việt Nam
Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự kết hợp hài hòa
giữa pháp luật truyền thống dân tộc và pháp luật quốc tế. Chính vì vậy, nguồn của
pháp luật Việt Nam cũng được hợp thành từ nguồn pháp luật của dân tộc và chọn lọc
những nguồn pháp luật của thế giới sao cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội, điều
kiện của đất nước.
Giống như pháp luật của các nhà nước xã hội chủ nghĩa khác, nguồn chủ yếu của
pháp luật Việt Nam là văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra trong pháp luật Việt Nam
tập quán pháp vẫn được áp dụng, nhất là trong quan hệ dân sự và hôn nhân gia đình.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, nhà nước Việt Nam đã chú trọng
nhiều hơn tới án lệ và các loại nguồn pháp luật khác như pháp luật quốc tế, pháp luật
nước ngoài, tư tưởng, học thuyết pháp lý.
3.1. Văn bản quy phạm pháp luật:
3.1.1. Định nghĩa:
Đây là loại nguồn hình thức chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của pháp luật, bởi
lẽ, các cơ quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý thực tế thuộc
thẩm quyền của mình đều chủ yếu dựa vào các VBQPPL. VBQPPL là văn bản do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có
quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
VBQPPL ở nước ta bao gồm nhiều loại với giá trị pháp lý cao, thấp khác nhau.
Đứng đầu thang bậc giá trị pháp lý trong hệ thống VBQPPL là Hiến pháp, đạo luật
gốc, luật cơ bản của Nhà nước. Tiếp đó là các đạo luật và các nghị quyết của Quốc hội;
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,…
VBQPPL được hình thành do kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật, thể hiện
trí tuệ của tập thể nên tính khoa học tương đối cao. Các quy định của nó được trình
bày thành văn nên thường rõ ràng, cụ thể, bảo đảm có thể được hiểu và được thực hiện
4



thống nhất ở phạm vi rộng; nhờ vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc đáp ứng các
yêu cầu cơ bản của nguyên tắc pháp chế. Hơn nữa, VBQPPL cũng có thể đáp ứng
được kịp thời các yêu của cuộc sống nên nó được coi là loại nguồn hình thức cơ bản,
chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật nước ta hiện nay. Tuy nhiên, VBQPPL không
phải là loại nguồn hình thức duy nhất của pháp luật bởi VBQPPL vẫn có những điểm
hạn chế nhất định cần được khắc phục như: các quy định của nó thường mang tính
khái quát cao nên nhiều khi không dự kiến được hết các tình huống, điều kiện, hoàn
cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống để điều chỉnh, vì thế có thể dẫn đến tình trạng thiếu
pháp luật hoặc tạo ra những lỗ hổng, khoảng trống trong pháp luật. VBQPPL có tính
ổn định tương đối cao nên nhiều khi kém linh hoạt hơn các nguồn khác. Quy trình xây
dựng và ban hành VBQPPL cũng lâu dài và tốn kém hơn một số nguồn khác.
Hiện nay, tuy nguồn pháp luật đã có phần đa dạng hơn nhiều so với trước đây khi
văn bản quy phạm pháp luật còn được xem là nguồn pháp luật duy nhất, nhưng vai trò
của văn bản quy phạm pháp luật vẫn giữ một vai trò vô cùng to lớn đối với nguồn
pháp luật nói chung và nguồn pháp luật Việt Nam nói riêng.
3.1.2. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội
 Hiến pháp

Hiến pháp là luật cơ bản, quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của nhà
nước và xã hội như bản chất của nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa,
xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu tôt chức và hoạt động của các
cơ quan nhà nước,… là văn bản pháp lý đặc biệt thể hiện một cách tập trung nhất ý chí
của và những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực của đời sống nhà
nước và xã hội. Hiến pháp ghi nhận những thành tựu quan trọng của quá trình dựng
nước và giữ nước của dân tộc đồng thời khẳng định những định hướng quan trọng
trong sự phát triển đất nước.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn bản pháp luật có giá
trị cao nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam và mọi văn bản pháp luật khác đều

phải phù hợp với hiến pháp. Bản hiến pháp đang có hiệu lực là bản của năm 2013, là
bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội Việt
5


Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua vào ngày vào sáng ngày 28 tháng 11 năm
2013.
Ví dụ:
Điều 16 Hiến pháp 2013:
1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội.
Điều 33 Hiến pháp 2013: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong các ngành
nghề mà pháp luật không cấm .
 Luật

Là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để quy định các vấn đề cơ bản
thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế,
dân tộc, tôn giáo,văn hóa giáo dục, y tế khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức quyền và
nghĩa vụ của công dân.
Ví dụ :
Điều 130 BLHH 2015 : Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi
hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm.
Điều 183 Luật hôn nhân và gia đình 2018: Tội tổ chức tảo hôn
Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn,
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
 Nghị quyết của quốc hội


Nghị quyết của quốc hội có chứa quy tắc xử sự chung được ban hành để quyết
định nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; dự đoán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân
6


sách trung ương; điều chỉnh ngân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước ; quy định chế độ làm việc của Quốc hội, các ủy ban và hội đồng của Quốc hội,
đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định
các vấn đề khác thuộc thăm quyền của Quốc hội.
Ví dụ: Nghị quyết số 50/2017/QH14 ngày 14/11/2017 về phân bổ ngân sách trung
ương năm 2018.
Nghị quyết nêu rõ, tổng số thu ngân sách trung ương là 753.404 tỷ đồng. Tổng số
thu ngân sách địa phương là 565.796 tỷ đồng.Tổng số chi ngân sách trung ương là
948.404 tỷ đồng. Trong đó, dự toán 321.151 tỷ đồng để bổ sung cân đối ngân sách, bổ
sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương.
Nghị quyết số 51/2017/QH14 ngày 21/11/2017 điều chỉnh lộ trình thực hiện
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo Nghị quyết số
88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo
khoa giáo dục phổ thông.
Theo lộ trình mới, thời gian bắt đầu triển khai áp dụng chương trình, sách giáo
khoa giáo dục phổ thông mới, đảm bảo tuần tự trong từng cấp học, chậm nhất từ năm
học 2020 - 2021 đối với lớp đầu cấp của cấp tiểu học, từ năm học 2021 - 2022 đối với
lớp đầu cấp của cấp trung học cơ sở và từ năm học 2022 - 2023 đối với lớp đầu cấp
của cấp trung học phổ thông.
3.1.3. Pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội
 Pháp lệnh

Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành để quy định về những vấn đề
được quốc hội giao. Sau thời gian thực hiện, Pháp lệnh có thể được Quốc hội xem xét,

quyết định ban hành thành Luật.
Ví dụ: Pháp lệnh số 05/2002/PL-UBTVQH11 của Quốc hội về tổ chức Viện kiểm
sát quân sự
Điều 16: Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện Kiểm sát quân sự có
trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng
7


pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án
hình sự của Toà án quân sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh,
kịp thời.
 Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội

Có chứa quy tắc xử sự chung được ban hành để giải thích hiến pháp, luật, pháp
lệnh; hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân; quyết định tuyên bố tình trạng
chiến tranh, tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong
nhà nước hoặc từng địa phương và quyết định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền
của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ví dụ : Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21-10-2017 của Ủy ban Thường
vụ QH về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực
hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình
thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT).
3.1.4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước có chứa quy tắc xử sự chung được ban hành
để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, Luật, Nghị
quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định.
Ví dụ: Quyết định 2310/QĐ-CTN Quyết định của Chủ tịch nước về việc cho nhập
quốc tịch Việt Nam
Điều 1. Cho nhập quốc tịch Việt Nam đối với:
Thongchuai Thitima, giới tính: nữ, sinh ngày 27/7/2011 tại Thái Lan

Có tên gọi Việt Nam là: Trần Hà Thảo Vy
Hiện cư trú tại: thôn 5, xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký.
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch
nước và cá nhân có tên tại Điều 1 chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
8


3.1.5. Nghị định của Chính phủ
Chính phủ ban hành nghị định để quy định:
- Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
- Các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ
tịch nước; các biện pháp để thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh,
tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học,
công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức,
quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành
của Chính phủ; những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của từ hai bộ, cơ
quan ngang bộ trở lên; nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính
phủ;
- Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản
lý nhà nước, quản lý kinh, tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải
được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ví dụ: Chính phủ ban hành Nghị định số 112/2017/NĐ-CP quy định về chế độ,
chính sách đối với thanh niên xung phong cơ sở ở miền Nam tham gia kháng chiến
giai đoạn 1965-1975.
Nghị định này quy định chế độ trợ cấp một lần; trợ cấp hằng tháng; trợ cấp mai

táng và chính sách vay vốn sản xuất, kinh doanh đối với thanh niên xung phong cơ sở
ở miền Nam tham gia kháng chiến trong thời gian từ ngày 26/3/1965 đến ngày
30/4/1975 ở các tỉnh từ Quảng Trị đến Cà Mau.
3.1.6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định để quy định:

9


- Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính
nhà nước từ trung ương đến địa phương, chế độ làm việc với các thành viên Chính
phủ, chính quyền địa phương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng
Chính phủ;
- Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm tra
hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa
phương trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Quyết định số 399/QĐ-TTg, ngày 12/4/2018, Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm ông
Lê Công Thành giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
3.1.7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được quy định tại
Điều 21 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 như sau:
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành, nghị quyết để hướng dẫn
việc áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử thông qua tổng kết việc áp dụng pháp
luật, giám đốc việc xét xử.
Ví dụ:
Điều 4. Về việc xử lý hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Kể từ ngày 09 tháng 12 năm 2015 đến ngày Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13
có hiệu lực thi hành, chỉ áp dụng quy định của Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 (được
sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12) để xử lý hình sự đối với người từ đủ 14

tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm thỏa mãn quy định tại Khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình
sự số 15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12) và Khoản 2
Điều 12 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13.
2. Kể từ ngày Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, chỉ xử lý
hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm quy định tại Khoản 2
Điều 12 và Điểm b, Điểm c Khoản 2 Điều 14 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13.
10


3.1.8. Thông tư của Bộ trưởng, thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Thông tư của Bộ trưởng, thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thông tư
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được quy định tại Điều 22, 23, 24, 25
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 như sau:
Điều 22. Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao ban hành thông tư để thực hiện việc quản lý các Tòa án nhân dân và Tòa án
quân sự về tổ chức và những vấn đề khác được Luật tổ chức Tòa án nhân dân và luật
khác có liên quan giao.
Điều 23. Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông tư để quy định, những vấn đề được
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và luật khác có liên quan giao.
Điều 24. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tư để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước,
nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
2. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình.
Điều 25. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông tư liên tịch để quy
định về việc phối hợp giữa các cơ quan này trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tố
tụng.
Ví dụ: Thông tư số 79-VKSND/TT Hướng dẫn thực hiện pháp lệnh tổ chức điều
tra hình sự trong ngành kiểm sát.
11


3.1.9. Quyết định của Tổng kiểm toán
Quyết định của Tổng kiểm toán được quy định tại Điều 26 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 2015 như sau:
Điều 26. Quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước Tổng Kiểm toán nhà nước ban
hành quyết định để quy định chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy trình kiểm toán, hồ
sơ kiểm toán.
Ví dụ: Quyết định số 02/2017/QĐ-KTNN ngày 13/3/2017 của Tổng Kiểm toán
nhà nước ban hành Quy trình kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình.
3.1.10. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp được quy định tại Điều 27 Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 như sau:
Điều 27. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
ban hành nghị quyết để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên;
2. Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
3. Biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở
địa phương;
4. Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội

của địa phương.
Ví dụ: Quyết định số 06/2018/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội về việc
phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển thành phố Hà Nội.
3.1.11. Quyết định của Ủy ban nhân dân
Quyết định của Ủy ban nhân dân được quy định tại Điều 28, 30 Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật 2015 như sau:
12


Điều 28. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban
hành quyết định để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên;
2. Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên,
nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách,
quốc phòng, an ninh ở địa phương;
3. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương.
Điều 29. Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ban
hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ban hành
quyết định theo quy định của Luật này và các luật khác có liên quan.
Điều 30. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp
huyện, cấp xã Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân
dân cấp huyện, cấp xã ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật giao.
Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
3.1.12. Ưu điểm, hạn chế
Ưu điểm:
- Dễ phổ biến, dễ kiểm soát, dễ dàng được bổ sung hoặc sửa đổi lại.
- Văn bản quy phạm pháp luật mang tính pháp lí cao.
- Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành được quy định cụ thể trong pháp luật.

- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống, được áp
dụng trong mọi trường hợp khi có sự kiện pháp lý xảy ra.
Nhược điểm:
- Có tính khái quát cao nên nhiều khi phải ban hành văn bản hướng dẫn nên sẽ
giảm mất tính tích cực.
- Chi phí xây dựng tốn kém.

13


- Nhiều văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu chưa đảm bảo tính hợp pháp theo
quy định, vi phạm pháp luật về nội dung và thẩm quyền.
2.1.13. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
Hiệu lực về thời gian: thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được
quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày (từ ngày thông qua hoặc kí,
ban hành đối với văn bản của cơ quan nhà nước trung ương); không sớm hơn 10 ngày
(từ ngày kí ban hành đối với văn bản của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh); không sớm hơn 7 ngày từ ngày kí ban hành đối với văn bản của Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã.
Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng: Văn bản của cơ quan trung ương có
hiệu lực trong cả nước và được áp dụng với mọi chủ thể. Văn bản của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính nào thì có hiệu lực trong phạm vi đơn vị
hành chính đó. Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực đối với tổ chức, cá nhân nước
ngoài ở Việt Nam.
3.2. Tập quán pháp
3.2.1. Định nghĩa
Tập quán pháp là những tập quán được Nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý, trở
thành những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Khi Nhà nước cần điều chỉnh một quan hệ xã hội, thông thường Nhà nước sẽ ban
hành các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quan hệ xã hội mà

Nhà nước cần điều chỉnh lại đang được điều chỉnh bởi các quy phạm tập quán. Vì thế,
nếu những tập quán này phù hợp với mục tiêu điều chỉnh các quan hệ xã hội của Nhà
nước thì Nhà nước sẽ sử dụng phương pháp thừa nhận, làm cho tập quán đó trở thành
quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Như vậy, để
được coi là tập quán pháp thì bản thân quy phạm tập quán đó bắt buộc phải được Nhà
nước thừa nhận bằng một trong hai cách: hoặc thông qua một quy định mang tính
nguyên tắc cho mọi trường hợp, hoặc thông qua một quy định chi tiết cho từng trường
hợp cụ thể.
VD: Vụ việc Cây chà 19 tiếng tranh chấp quyền đánh bắt hải sản giữa chủ tàu và
tài công do TAND huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thụ lý giải quyết là một ví
dụ điển hình cho việc áp dụng tập quán pháp vào xét xử. Liên quan đến vụ việc, trong
Quyết định Giám đốc thẩm, Tòa Dân sự TAND tối cao đã xác định, đối với vùng biển
14


xa bờ, pháp luật chưa quy định về quyền ưu tiên khai thác thuộc về chủ tàu hay tài
công nên quyền ưu tiên phải được xác định theo tập quán. Theo xác minh ở chính
quyền địa phương và cơ quan chuyên môn (Ban Hải sản thị trấn Long Hải), tài công là
người có quyền chọn và định đoạt điểm đánh bắt; hơn nữa địa điểm đã bị chủ tàu bỏ
hơn ba tháng không khai thác thì quyền khai thác sẽ thuộc về tài công. Do đó việc tài
công sử dụng điểm đánh bắt hải sản hiện tranh chấp là phù hợp với tập quán, không
trái pháp luật hay vi phạm quyền lợi hợp pháp của chủ tàu.
3.2.2. Ưu điểm, hạn chế
 Ưu điểm:

- Trong nhiều trường hợp khi xây dựng và ban hành quy định pháp luật, các nhà
làm luật không thể dự liệu hết tình huống pháp lý để điều chỉnh chính xác, phù hợp với
những vùng hay địa bàn đặc biệt. Vì vậy việc áp dụng tập quán của cộng đồng sẽ góp
phần giải quyết tranh chấp một cách có hiệu quả, nhanh chóng và kịp thời, tăng cường
việc tiếp cận công lý và bảo vệ quyền cho người dân.

-Góp phần lắp đầy các kẽ hở của văn bản pháp luật như trong ngành luật tư.
-Thuận lợi cho công tác tuyên truyền vào đời sống quần chúng nhân dân.
 Hạn chế:

- Không phải bất cứ phong tục, tập quán nào cũng được công nhận là tập quán
pháp mà phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định. Bên cạnh phải bắt nguồn từ chính
phong tục đã tồn tại trong cộng đồng dân cư, tập quán phải tồn tại vào thời điểm được
công nhận và áp dụng; đồng thời phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng, bảo đảm
cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Chỉ khi đó, tập quán mới được xem là tập quán
pháp hay nguồn bổ trợ cho pháp luật Việt Nam.
- Trong xã hội tồn tại rất nhiều tập quán thuộc rất nhiều lĩnh vực khác nhau, chưa
kể là cùng một vấn đề nhưng tập quán của mỗi địa phương, mỗi dân tộc cũng khác

15


nhau nên việc áp dụng tập quán cũng gặp rất nhiều khó khăn, có thể dẫn tới cục bộ ở
địa phương.
- Có thể gây khó khăn khi thay đổi, điều chỉnh pháp luật và ảnh hưởng đến sự
thống nhất của pháp chế.
3.2.3. Việc áp dụng tập quán pháp trong thực thi pháp luật
Ở nước ta, tập quán pháp được công nhận và bảo đảm thực hiện bằng cách ghi
nhận trong văn bản pháp luật. Nguyên tắc áp dụng tập quán được quy định cụ thể tại
Điều 3 Bộ luật Dân sự 2005. Theo đó, “trong trường hợp pháp luật không quy định và
các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp
dụng quy định tương tự của pháp luật”.
Thực tiễn chỉ ra rằng, nhiều vụ việc nảy sinh nhưng pháp luật chưa đề cập tới và
tập quán đóng vai trò quan trọng như một quy định điều chỉnh giao dịch dân sự. Cầm
đất là một ví dụ cụ thể. Theo TAND tỉnh Trà Vinh, cầm đất là loại giao dịch không
được pháp luật quy định nhưng đó là thói quen tập quán hình thành lâu đời trong nhân

dân. Đây là việc bên có đất giao đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình cho
người khác sử dụng và người nhận cầm đất giao cho bên chủ đất một khoản tiền, vàng
theo thỏa thuận, khi nào chủ đất trả lại khoản tiền vàng đã nhận thì bên nhận cầm trả
lại đất, nên trong việc cầm đất người đi cầm không có quyền định đoạt. Do đó, tập
quán này được xác định là tập quán pháp.
Nguyên tắc áp dụng nguồn bổ trợ này còn được đề cập tới trong Luật Hôn nhân
và Gia đình 2000, những phong tục tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc sẽ được
tôn trọng và phát huy nếu không trái với nguyên tắc quy định tại văn bản này. Để cụ
thể hóa, Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP về việc áp dụng Luật
Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số. Nghị định đã đưa ra danh mục tập
quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình được khuyến khích phát huy và danh mục hủ tục
lạc hậu bị nghiêm cấm áp dụng hay cần vận động xóa bỏ. Rõ ràng, việc áp dụng tập
quán với tư cách là một loại nguồn của pháp luật ở Việt Nam hiện có một cơ sở pháp

16


lý tương đối rộng và bên cạnh nhiều quy định mang tính nguyên tắc, không ít trường
hợp đã được cụ thể hóa.
Các quy định về áp dụng tập quán và nội dung của tập quán được thể hiện rõ nét
trong BLDS 2005. Chẳng hạn theo nguyên tắc xác lập quyền sở hữu tại Điều 242,
quyền sở hữu gia súc bị thất lạc sẽ thuộc về người bắt được sau khi đã thông báo công
khai 6 tháng mà không có người tới nhận; tuy nhiên trong trường hợp là gia súc thả
rông theo tập quán thì thời hạn xác lập quyền sở hữu là sau một năm. Quy định này
phù hợp với tập quán thả rông gia súc tại nhiều địa phương, với địa hình, thổ nhưỡng,
khí hậu của vùng núi mùa khô lạnh, gia súc được thả tự tìm thức ăn, đến mùa ấm áp về
lại chuồng trại ban đầu.
Tập quán pháp được áp dụng chủ yếu điều chỉnh quan hệ dân sự, hôn nhân gia
đình hay thương mại còn không được công nhận trong lĩnh vực hình sự, hành chính và
lĩnh vực khác. Bởi đây là lĩnh vực luật công và các quan hệ pháp luật trong những lĩnh

vực này buộc phải tuân theo hệ thống quy phạm chặt chẽ và gần như không tồn tại
việc áp dụng tập quán pháp. Điều đó phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa ở nước ta và xu hướng phát triển chung của hệ thống pháp luật thế giới.
3.4. Tiền lệ pháp (án lệ)
3.4.1. Định nghĩa
Là hình thức pháp luật hình thành bằng việc nhà nước thừa nhận quyết định cách
giải quyết về vụ việc cụ thể nào đó của các cơ quan nhà nước thành pháp luật để giải
quyết những vụ việc tương tự tiền lệ pháp khác với các cách giải quyết thông thường
của các cơ quan nhà nước ở chỗ nó được coi là khuôn mẫu để giải quyết những vụ việc
tương tự về sau. Tiền lệ pháp có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật nước ta.
3.4.2. Ưu điểm, hạn chế
 Ưu điểm:

17


Thứ nhất, do xuất phát từ đặc điểm“phải được tạo ra từ một tranh chấp cụ thể”,
tiền lệ pháp mang tính thực tiễn rất cao. Các văn bản pháp luật đơn thuần chỉ là sản
phẩm của tư duy trừu tượng nên đôi khi các quy phạm pháp luật không dự liệu hết
những hoàn cảnh của thực tiễn. Từ đó, dẫn đến việc tạo ra những lỗ hổng pháp luật mà
tiền lệ pháp vốn được tạo ra từ thực tiễn mới có khả năng lấp các lỗ hổng này.
- Thứ hai, tiền lệ pháp mang tính linh hoạt, uyển chuyển để phù hợp với những
thay đổi nhanh chóng của xã hội. Trong khi các văn bản pháp luật thường mang tính
ổn định dẫn đến cứng nhắc.
- Thứ ba, tiền lệ pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các thẩm phán trong quá trình xét
xử cũng như trong việc áp dụng pháp luật. Áp dụng tiền lệ pháp luôn gắn liền với việc
công khai bản án, tạo điều kiện cho người dân giám sát các cơ quan tư pháp
- Thứ tư, tiền lệ pháp có thể giúp các đối tượng liên quan trong vụ án tiên liệu
được kết quả của một tranh chấp vì họ biết các quyết định này không phải là quyết

định tùy tiện của Thẩm phán mà dựa vào các quyết định trước đây. Vì vậy, trong một
chừng mực nào đó thì tiền lệ pháp sẽ tạo ra sự minh bạch, có thể dự liệu trước giải
pháp, khắc phục được tình trạng tùy tiện trong áp dụng pháp luật.
 Hạn chế:

- Tiền lệ pháp không mang tính hệ thống và tính khái quát như văn bản pháp luật.
Bên cạnh đó, việc tập hợp hóa tiền lệ pháp chỉ theo một số tiêu chí như năm ban hành,
lĩnh vực còn việc pháp điển hóa không được chú trọng nên việc tra cứu, tìm hiểu sẽ
gặp nhiều khó khăn.
- Do số lượng tiền lệ pháp của các tòa án quá nhiều và liên tục thay đổi nên sẽ tạo
ra sự khó khăn trong quá trình vận dụng.
- Do tính chất tiền lệ phải tuân thủ nên tiền lệ pháp chi phối buộc các thẩm phán
phải “tự nguyện” tuân theo những tiền lệ của Tòa án cấp trên kể cả những phán quyết
chưa hoàn thiện.

18


- Tiền lệ pháp là sự sáng tạo pháp luật của Thẩm phán nên trong nhiều trường hợp
Thẩm phán do sự chi phối của một số yếu tố sẽ không còn công tâm trong việc “cầm
cân nảy mực”, tình trạng lạm quyền cũng có thể xảy ra.
3.4.3. Các loại án lệ
Khi nói đến án lệ ta thường nghĩ đến các dạng án lệ ràng buộc bao gồm án lệ giải
thích và án lệ quy phạm là loại án lệ mà các thẩm phán cần phải tuân theo khi xét xử
những vụ án tương tự.
 Án lệ giải thích

Án lệ giải thích là những lập luận được nêu ra trong bản án nhằm giải thích rõ một
quy định của điều luật vốn chưa rõ hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau.
Ví dụ: Khi quyết định khoản bồi thường thiệt hại về tính mạng trong một vụ án,

hai cấp tòa sơ, phúc thẩm đã không chấp nhận yêu cầu thanh toán chi phí đi lại bằng
phương tiện máy bay của gia đình nạn nhân từ Lạng Sơn vào Đà Lạt để tổ chức tang lễ
cho nạn nhân. Tuy nhiên, trong quyết định giám đốc thẩm, Tòa án Tối cao đã lập luận
rằng chi phí đi lại cho gia đình nạn nhân (bao gồm: Vợ, chồng, cha mẹ ruột, con ruột,
anh chị em ruột của nạn nhân) tham dự tang lễ cần được coi là “chi phí hợp lý cho việc
mai táng”. Trong trường hợp cụ thể của vụ án này, địa phương X ở Đà Lạt không có
điều kiện bảo quản thi hài nên việc gia đình nạn nhân phải đi máy bay vào để kịp tổ
chức tang lễ cho nạn nhân là hợp lý. Lập luận này đã giải thích rõ “chi phí hợp lý cho
việc mai táng” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 610 BLDS 2005.
 Án lệ quy phạm

Án lệ quy phạm là những lập luận được nêu ra trong bản án nhằm đưa ra một quy
định bổ sung cho điều luật (trong trường hợp điều luật chưa quy định).
Ví dụ: A lái xe gây tai nạn làm B chết. Sau đó, hai cấp tòa sơ, phúc thẩm xét xử A
bên cạnh phần hình phạt thì đều buộc A phải cấp dưỡng cho hai người con chưa thành
niên của B kể từ ngày xét xử sơ thẩm. Khi giám đốc thẩm, Tòa án Tối cao đã lập luận
rằng dù khoản 2 Điều 612 BLDS 2005 không quy định thời điểm A phải trả tiền trợ
cấp cho những người mà nạn nhân phải nuôi dưỡng nhưng rõ ràng quy định của điều
luật là nhằm buộc bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng từ thời điểm mà nhu cầu
19


cấp dưỡng phát sinh. Trong vụ án này, thời điểm phát sinh nhu cầu đó là ngày nạn
nhân bị chết chứ không phải ngày xét xử sơ thẩm. Như vậy, án lệ này đã đưa ra một
“quy định bổ sung” cho quy định trong điều luật: Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng là ngày mà nhu cầu cấp dưỡng phát sinh.
 Án lệ thuyết phục (án lệ minh họa)

Loại án lệ này chỉ có ý nghĩa tham khảo, hướng dẫn các tòa án cấp dưới áp dụng
cho đúng những điều luật đã rõ hoặc những án lệ giải thích, án lệ quy phạm chứ không

có tính ràng buộc khi xét xử.
Ví dụ Bộ luật dân sự (BLDS) nước ta quy định nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người
thân của người có tính mạng bị xâm phạm là cho đến khi chết nếu người được hưởng
cấp dưỡng là người đã thành niên và cho đến khi đủ 18 tuổi nếu người được hưởng
cấp dưỡng là người chưa thành niên hay đã thành thai. Tuy nhiên, BLDS lại không
cho biết nghĩa vụ này bắt đầu vào thời điểm nào nên các tòa rất lúng túng. Sau đó, một
quyết định giám đốc thẩm của TAND Tối cao phân tích: Theo tinh thần quy định tại
Điều 616 BLDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐPT của Hội đồng
Thẩm phán TAND tối cao thì trong trường hợp cụ thể này, thời điểm phát sinh nghĩa
vụ cấp dưỡng phải được tính từ ngày người bị hại chết.Dù không nói ra nhưng đây
được coi là “hướng dẫn” để các tòa án áp dụng khi xét xử và xét ở góc độ khoa học.
3.5. Pháp luật nước ngoài
3.5.1. Định nghĩa
Pháp luật nước ngoài là nguồn pháp luật đước sử dụng để giải quyết các tranh
chấp có yêu tố nước ngoài, nhất là trong điều kiện quy định pháp luật giữa các quốc
gia có những xung đột nhất định
Ví dụ: Tuổi kết hôn, theo Luật Hôn Nhân Gia đình 2014 là nam đủ 20 tuổi trở lên,
nữ đủ 18 tuổi trở lên thì mới có quyền kết hôn. Trong khi tại Pháp độ tuổi này là 18
tuổi không phân biệt nam hay nữ. Như vậy nếu một thanh niên Việt Nam 19 tuổi muốn
kết hôn cùng một thiếu nữ Pháp 18 tuổi, họ có thể đăng ký kết hôn tại Pháp, nhưng khi
có tranh chấp phát sinh trong quan hệ hôn nhân diễn ra tại Việt Nam thì mối quan hệ
hôn nhân này có thể không được toà án Việt Nam công nhận.

20


3.5.2. Ưu điểm, hạn chế
 Ưu điểm:

- Giảm thiểu khác biệt so với pháp luật thế giới, tạo cơ chế đảm bảo thực thi pháp

luật
- Góp phần hình thành nên các loại nguồn cho các ngành luật: tư pháp quốc tế,
công pháp quốc tế
- Căn cứ trong việc sử dụng pháp luật nước ngoài khi xét xử
 Nhược điểm:

- Thứ nhất, cần có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu, hiểu rõ khi áp dụng trong
các quan hệ quốc tế. Hiện nay tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về nội
dung cũng như thực tiễn áp dụng trên thế giới để áp dụng tại Việt Nam. Điều này
khiến việc diễn giải, áp dụng trong thực tế của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
- Thứ hai, trong hệ thống giáo dục pháp luật của Việt Nam nói chung (ngoại trừ
một số rất ít trường đại học chuyên ngành luật, hợp tác với nước ngoài) cũng chưa có
nội dung nào giới thiệu, đào tạo chuyên sâu về nguồn pháp luật nước ngoài. Điều này
cũng sẽ làm giảm sức mạnh, tiếng nói của pháp luật Việt Nam, và khả năng xét xử tòa
án tại Việt Nam khi có tranh chấp liên quan đến pháp luật nước ngoài.
3.5.3. Việc đưa nguồn pháp luật nước ngoài vào nguồn pháp luật Việt Nam
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, Việt Nam sẽ
phải đối mặt với việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Các điều ước quốc tế, nghị quyết
của các tổ chức quốc tế cũng là nguồn pháp luật quan trọng đối với các quốc gia thành
viên tham gia ký kết hoặc phê chuẩn. Trong một số trường hợp, chúng ta phải áp dụng
pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc. Các thẩm phán của Việt Nam sẽ tự mình
nghiên cứu pháp luật nước ngoài rồi đưa ra phán quyết hay sẽ tham khảo ý kiến cả các
luật gia nước ngoài.

21


3.6. Pháp luật quốc tế
3.6.1. Định nghĩa
Pháp luật quốc tế là hệ thống những nguyên tắc, quy phạm pháp luật được các

quốc gia và các chủ thể khác tham gia quan hệ quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện
và bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương lượng, nhằm điều chỉnh mối quan hệ
nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể của pháp luật quốc tế với
nhau (trước tiên và chủ yếu là giữa các quốc gia) và trong trường hợp cần thiết, được
bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các
chủ thể của luật pháp quốc tế thi hành và bằng sức đấu tranh của nhân dân và dư luận
tiến bộ trên thế giới.
Ví dụ: Về xác định bề rộng lãnh hải của quốc gia ven bờ tối đa không quá 12 hải
lý, kể từ đường cơ sở theo Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc.
Ví dụ: theo khoản 7 điều 2, Hiến chương Liên hợp quốc: “Tổ chức Liên hợp quốc
không có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kỳ
quốc gia nào”. Nghĩa vụ không can thiệp vào công việc của quốc gia khác cũng đặt ra
cho tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế.
3.6.2. Ưu điểm, hạn chế
 Ưu điểm:

- Là nguồn pháp luật quan trọng đối với các quốc gia thành viên tham gia kí kết
hoặc phê chuẩn.
- Về cơ bản, luật pháp quốc tế có giá trị cao hơn luật nội địa của Việt Nam, trừ
Hiến pháp.
 Hạn chế:

- Trong một số trường hợp, nguồn của pháp luật chỉ có thể là cam kết quốc tế đơn
phương của quốc gia hay một nhóm quốc gia.
- Buộc nhà nước phải quy định chặt chẽ và thực hiện đúng theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành.
22


3.6.3. Việc đưa pháp luật quốc tế vào pháp luật Việt Nam

“Theo cách tiếp cận của Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế ký kết
giữa các quốc gia và các quy định của luật quốc tế hiện hành thì điều ước quốc tế được
xác định là thoả thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ
thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả thuận
đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ
với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó”.
Nói chung, các điều ước quốc tế do Việt Nam ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập
thực tế vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật nước ta. Nó là
nguồn nội dung trong trường hợp các quy định của nó được chuyển hóa thành các quy
định trong các VBQPPL.
Ví dụ, việc chúng ta gia nhập Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ (CEDAW) đã dẫn đến việc ban hành Luật Bình đẳng giới trong đó có nhiều
nội dung là sự cụ thể hóa các quy định của Công ước này. Nhiều quy định của các điều
ước quốc tế khác đã được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của Việt
Nam, nhất là khi chúng ta đã gia nhập WTO.
3.6.4. Vai trò của điều ước quốc tế trong nguồn của pháp luật Việt Nam
Điều ước quốc tế trở thành nguồn hình thức của pháp luật trong trường hợp nó
được áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần vào việc giải quyết các vụ việc xảy ra
trong thực tế. Việc áp dụng này đã được thừa nhận trong Luật Ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế năm 2005 của nước ta.
Nói chung, trong lĩnh vực luật quốc tế thì điều ước quốc tế là nguồn cơ bản, chủ
yếu và quan trọng nhất. Còn đối với pháp luật quốc gia, vai trò của điều ước quốc tế
ngày càng quan trọng và có vị thế ngày càng cao hơn, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa
hiện nay. Điều đó được thể hiện rõ trong các quy định được nêu trong nhiều VBQPPL
hiện hành của nước ta là: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của văn bản này thì tuân theo các
quy định của điều ước quốc tế đó”.

23



3.7. Các tư tưởng, học thuyết pháp lí:
3.7.1. Định nghĩa
Tư tưởng là ý nghĩ hoặc suy nghĩ của con người hay nó là sự phản ánh hiện thực
trong ý thức, là biểu hiện mối quan hệ cuả con người với thế giới xung quanh.
Học thuyết pháp lí là hệ thống các quan điểm, lí luận khoa học hoàn chỉnh về
những vấn đề nhà nước và pháp luật, học thuyết pháp lí biểu hiện ở cấp độ cao của ý
thức pháp luật, tức là những ý niệm của con người về hệ thống các thể chế và thiết chế
nhà nước.
Về mặt cấu trúc, học thuyết pháp lí gồm các khái niệm, phạm trù, quy luật vận
động khách quan, những mối lien hệ phổ biến về các hiện tượng nhà nước và pháp
luật. Học thuyết pháp lí có thể luận giải về nhà nước đã qua, nhà nước và pháp luật
đang tồn tại hay chủ trương, kiến giải về mô hình nhà nước và pháp luật trong tương
lai.
3.7.2. Ưu điểm, hạn chế
 Ưu điểm:

- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Nhiều quy định của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sự kế thừa tư tưởng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; tư tưởng chủ
quyền nhân dân, tư tưởng nhà nước pháp quyền và tiếp nhận các yếu tố hợp lí của học
thuyết phân chia quyền lực nhà nước.
- Là nguồn quan trọng trong xây dựng pháp luật, đặc biệt là trong việc hình thành
các nguyên tắc của pháp luật.
- Đây là một nguồn bổ sung, giúp thẩm phán có định hướng khi cần áp dụng.
 Hạn chế:

- Đối với đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản, tư tưởng, quan điểm pháp lí
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh chỉ được coi là nguồn (căn cứ)

để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật hoặc định hướng đường lối giải quyết vấn
đề

24


- Bị hạn chế tới mức thấp nhất việc áp dụng trực tiếp loại nguồn này trong các hoạt
động pháp lí cụ thể.
3.7.3. Việc đưa tư tưởng, học thuyết pháp lý vào pháp luật Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Đảng lãnh đạo nhà nước một cách toàn diện, tất cả những gì Đảng quan tâm bằng
nhiều hình thức và biện pháp khác nhau trong đó bằng đường lối, chính sách là chủ
yếu và quan trọng nhất. Có thể khẳng định, đường lối, chủ trương của Đảng, quan
điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tương Hồ Chí Minh luôn là nguồn pháp luật
quan trọng.
Chẳng hạn, theo Điều 2 của Hiến pháp hiện hành của nước ta thì, “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nhà nước xã hội chủ nghĩa do nhân
dân bầu ra và có thể bãi miễn nó. Nhà nước XHCN có các cơ quan lập pháp (Quốc
hội, Nghị viện,…), hành pháp (Chính phủ, Hội đồng Bộ trưởng…) và tư pháp (Tòa
án, Viện kiểm sát, Viện công tố,…).
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Người chỉ rõ nhà nước pháp quyền là nhà nước dân
chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhân dân là chủ thể quyền lực của nhà nước,
nhà nước là công cụ phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh xác định bản chất dân chủ của
nhà nước ta: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền
hạn đều của nhân dân


25


×