Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tìm hiểu về chức năng xét xử của Tòa án nhân dân theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014. Liên hệ thực tiền và đáng giá hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.2 KB, 25 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
“Cũng giống như ý chí tập thể được công bố qua luật pháp, sự phán xét của công
chúng được công bố qua tòa kiểm duyệt”. Trong tác phẩm “Khế ước xã hội” của mình,
Ruosseau có giới thiệu sự thiết lập một cơ quan thêm được gọi là “tribunate”, mà công
việc của nó là duy trì sự cân bằng giữa quyền tối cao và chính phủ, giữa chính phủ và
người dân. Nó không phải là quyền lập pháp hay hành pháp. Mục đích duy nhất của nó là
bảo vệ và đảm bảo sự an toàn của luật pháp.
“Hoạt động kiểm duyệt giúp duy trì đạo đức bằng cách ngăn ngừa công luận
không trở nên đồi bại, bằng cách giữ gìn sự ngay thẳng của nó qua những áp dụng khôn
ngoan, và đôi khi bằng chính công luận của nó khi chưa thành hình”. Ngày nay, Tòa án
có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người; bảo vệ tính
nghiêm minh của luật pháp, đồng thời bảo vệ lợi ích của toàn thể Quốc gia, dân tộc.
Muốn làm được như vậy, Nhà nước trước hết phải quy định rõ chức năng của Tòa
án bao gồm những gì? Những gì Tòa án được làm và những gì không thuộc thẩm quyền
của Tòa án. Theo khoản 1, Điều 3, Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Bên cạnh đó, chức năng xét xử của Tòa án nhân dân còn
được cụ thể hóa tại một số quy định khác của pháp luật.
Trong lần làm bài tập cá nhân này, em được giao đề tài: “Tìm hiểu về chức năng
xét xử của Tòa án nhân dân theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014. Liên hệ thực
tiền và đáng giá hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trong giai đoạn hiện nay”.
Trong quá trình tìm hiểu, em nhận thấy rằng đây là một nội dung khá mới, còn nhiều vấn
đề cần phải đáng quan tâm, nhất là trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tiến hành lộcải
cách tổng thể nền tư pháp; tình hình xã hội diễn ra ngày càng phức tạp, hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử vẫn còn nhiều vướng mắc, cần được đem ra cân nhắc, bàn luận cụ thể.
Vì thời gian cũng như hiểu biết còn hạn chế, bài làm không tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong thầy(cô) giáo thông cảm và có những chỉnh lý, bổ sung để bài viết thêm
phần hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!



I. Một số khái niệm
“Chức năng”, đây là từ ghép của hai từ: chức vụ và khả năng. Như vậy, nói một
cách đơn giản thì chức năng được hiểu là ở chức vụ ấy sẽ có khả năng làm được những gì,
hay những công việc mà vị trí đó được phép làm. Trong các cơ quan nói chung, hoạt động
nào diễn ra một cách thường xuyên, liên tục và chủ yếu thì trở thành chức năng của cơ
quan ấy.
“Chức năng xét xử” của Tòa án ở đây được hiểu là: Hoạt động đặc trưng của Tòa
án, bao gồm tất cả những công việc liên quan đến nghiên cứu về các vụ án và đưa ra
hướng giải quyết.
II. Chức năng xét xử của Tòa án trong Hiến pháp 2013
1. Cơ sở của quy định
Quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 về Tòa án nhân dân
được thực hiện trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và Cải cách tư pháp ở nước ta trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân là tư tưởng xuyên suốt được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng ta nhiều năm nay.
Từ góc độ tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa mang những đặc điểm chính sau đây:
 Bảo đảm dân chủ xã hội chủ nghĩa; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân. Tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp phải nhằm mục đích bảo vệ công lý,
bảo đảm quyền con người theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tư pháp là hoạt động giải quyết các tranh chấp trong xã hội, xử lý các vi
phạm pháp luật. Hoạt động đó liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích của con người,
của công dân. Vì vậy, trong hoạt động Tư pháp, vi phạm quyền con người, quyền công
dân và lợi ích chính đáng có nguy cơ xảy ra rất cao. Do đó, tổ chức và hoạt động tư pháp,
nhất là của Tòa án một mặt phải hiệu quả, bảo vệ quyền con người, lợi ích nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; nhưng trước hết, Tòa án phải là biểu tượng
của Công lý, là nơi công dân gửi gắm niềm tin rằng bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng bị
xử lý nghiêm minh; bất kỳ quyền hoặc lợi ích hợp pháp nào của con người, của công dân
bị xâm phạm đều được bảo vệ theo đúng pháp luật. Do vậy, mỗi khi con người có tranh



chấp và khởi kiện đến Toà án thì Toà án không được từ chối giải quyết vì bất cứ một lý do
gì.
 Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quyền lực nhà nước (cũng là quyền lực của nhân dân) là thống nhất, không thể
phân chia. Tuy nhiên, việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được
phân công rõ ràng theo chức năng cơ bản của mỗi loại cơ quan, không thể để tình trạng
giao cho cơ quan hành pháp hoặc lập pháp thẩm quyền xét xử, giải quyết tranh chấp, xử
lý vi phạm pháp luật (thuộc chức năng tư pháp) và ngược lại. Bởi vì điều đó trái với
nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực của Nhà nước pháp quyền, dẫn đến tình trạng
chồng chéo nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan và vì vậy làm giảm hiệu lực, hiệu quả
của bộ máy nhà nước.
Khi đã có sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước thì không thể thiếu sự giám
sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực giữa các cơ quan để tránh lạm quyền. Đây là điểm
mới rất quan trọng trong quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Thứ hai, việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta nhằm mục đích xây
dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người.
Làm rõ quyền tư pháp và từ đó xác định cơ quan có chức năng thực hiện quyền tư
pháp là rất quan trọng. Quyền tư pháp là quyền xét xử, tức quyền áp dụng pháp luật để ra
phán quyết về các vi phạm pháp luật và các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Tòa án là cơ
quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước. Vì vậy,
xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền
lực Nhà nước đều phải thuộc thẩm quyền của Tòa án. Các cơ quan nhà nước khác tham
gia vào việc xử lý, giải quyết đó không phải là cơ quan tư pháp, không có chức năng thực
hiện quyền tư pháp mà các cơ quan này chỉ thực hiện các hoạt động tư pháp. Từ đó, mở
rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại vụ án, giao cho Tòa án bảo đảm áp

dụng thống nhất pháp luật là xu thế tất yếu của nhà nước pháp quyền. Điều đó thể hiện vị


trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, khẳng định vị trí trọng tâm của hoạt động
xét xử trong các hoạt động tư pháp.
Hiến pháp năm 2013 kế thừa những nội dung hợp lý, phù hợp của Hiến pháp năm
1992 về Tòa án nhân dân, đồng thời có những sửa đổi, bổ sung quan trọng đáp ứng yêu
cầu Cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
2. Phân tích quy định về chức năng của Tòa án trong Hiến pháp 2013
Tại Điều 102 của Hiến pháp quy định chức năng, hệ thống tổ chức và nhiệm vụ
của Tòa án nhân dân như sau:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Hiến pháp 2013 xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong
bộ máy cơ quan nhà nước. TAND là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, thực hiện
chức năng xét xử; TAND là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm
pháp luật, các tranh chấp theo quy định của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan
đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế
tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền
của Tòa án. Vì vậy, quy định của Hiến pháp 2013 là cơ sở hiến định cho việc mở rộng
thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của nhà nước pháp
quyền.
Chức năng của TAND đã được xác định là cơ quan có chức năng ra phán quyết về
các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý, TAND có vai trò rất quan trọng trong bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người
dân tìm đến Tòa án như là tìm đến công lý.
Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013 kế thừa, phát triển một số nguyên tắc đã được các
bản Hiến pháp trước đây quy định nhưng ở mức độ cao hơn, chính xác hơn. Quan trọng
nhất, việc Hiến pháp quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc

xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện
nguyên tắc độc lập xét xử. Trong quy định các nguyên tắc này, Hiến pháp 2013 có quy
định các trường hợp ngoại lệ đối với một số nguyên tắc để bảo đảm việc áp dụng mềm


dẻo, linh hoạt và có hiệu quả trên thực tế. Cụ thể, tại điều 103: “Việc xét xử sơ thẩm của
Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm; Tòa án nhân dân xét xử
công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của
dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng
của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín; Tòa án nhân dân xét xử tập thể và
quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm; quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”.
Đây là các nguyên tắc hoạt động cơ bản Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác xét xử của Tòa án nhân dân, đảm bảo chất lượng xét xử của
Tòa án tránh tình trạng xảy ra oan sai, gây thiệt hại cho các bên đương sự trong quá trình
xét xử của Tòa án.
Hiến pháp 2013 bổ sung một số nguyên tắc mới thể hiện tinh thần đổi mới trong
cải cách tư pháp ở nước ta, phù hợp với các Công ước Quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một bảo đảm quan trọng giúp cho việc xét xử toàn
diện, khách quan, bảo đảm quyền con người, quyền tố tụng của những người tham gia tố
tụng, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan sai trong hoạt động tố tụng tư pháp nói chung,
trong xét xử của Tòa án nói riêng. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
được quy định trong Hiến pháp 2013 là việc nâng lên tầm hiến định nguyên tắc đã được
quy định trong Luật Tổ chức TAND và các luật tố tụng tư pháp trước đây nhằm bảo đảm
cho việc xét xử đúng đắn, khách quan, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý.
II. Chức năng của Tòa án nhân dân cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân
2014

Luật Tổ chức TAND năm 2014 là một trong những đạo luật quan trọng về tổ chức
bộ máy Nhà nước được Quốc hội thông qua theo tinh thần Hiến pháp mới; thể chế hóa
các quan điểm lớn, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về quyền tư pháp nhằm xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,


phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để kiện
toàn, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của TAND, bảo đảm Tòa án thực sự là
chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người.
Theo đó, chức năng của Tòa án được quy định tại Điều 2 của Bộ luật này.
1. Sự độc lập trong chức năng xét xử của Tòa án
Với chức năng xét xử thì Tòa án là đại diện cho quyền lực tư pháp - một trong ba
nhánh quyền lực ở nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, không những có
thẩm quyền xét xử những tranh chấp, vi phạm thông thường mà còn có thẩm quyền phán
xử cả những vi phạm hiến pháp. Trong nhà nước pháp quyền, Tòa án có vai trò quan
trọng, là nơi biểu hiện tập trung của quyền lực tư pháp đồng thời là nơi thể hiện nền công
lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng trong tất cả các mối quan hệ và cũng là nơi thể hiện
chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp. Trong thế giới hiên đại, các quốc gia
đều khẳng định xét xử là một chức năng của nhà nước, pháp luật không để cho ai tự xử,
ngoại trừ những những chế định phi nhà nước được pháp luật cho phép như hòa giải hoặc
trọng tài. Và, ngay cả trong những trường hợp này các phán quyết của trọng tài, tổ hòa
giải, nếu các đương sự không đồng ý vẫn có thể đưa ra Tòa án giải quyết. Để đảm bảo cho
việc xét xử được bình đẳng, dân chủ, khách quan thì nguyên tắc Thẩm phán độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật là tiền đề nền tảng của tư pháp trong nhà nước pháp quyền. Sự độc lập
xét xử xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án thực hiện “Đã nhân danh
công lý và dựa vào công lý thì thì Tòa án phải xét xử như là một người đứng giữa, trung
lập không phụ thuộc vào bên nào. Tuy nhiên, xét xử có tính đặc thù, đó là hoạt động tư
duy của thẩm phán trong việc áp dụng pháp luật bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài

như: sức ép của các thế lực nhà nước, dư luận xã hội nhất là của báo chí, sức ép của các
đảng phái, tôn giáo, sự căng thẳng, hung hãn của các đương sự… Do vậy, để bảo vệ công
lý thẩm phán phải vượt lên tất cả các sức ép ngoại cảnh để có những phán quyết khách
quan, nên hoạt động xét xử tự thân nó đã phát sinhphải độc lập. Chỉ xét xử độc lập Tòa án
mới tồn tại đúng với bản chất của mình là cơ quan bảo vệ công lý”(1)
Tính độc lập trong hoạt động của Tòa án nhân dân được quy định rất rành mạch
trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, từ Hiến năm 2013 đến Luật tổ chức


Tòa án nhân dân 2014 và Bộ luật tố tụng 2003. Từ việc phân tích các quy định đó chúng
ta sẽ thấy rằng TAND khi xét xử phải hoàn toàn độc lập và chỉ căn cứ vào các quy định
của pháp luật để thực hiện chứcnăng của mình. Nguyên tắc độc lập của TAND có thể
được phân chia thành ba nộidung như sau:
- TAND xét xử độc lập với các cơ quan khác;
- TAND xét xử độc lập với cơ quan Tòa án cấp trên;
- Thành viên của Hội đồng xét xử phải độc lập với nhau.
Trong xét xử Tòa án độc lập với các cơ quan khác
Trong hoạt động xét xử thì Tòa án phải không bị lệ thuộc, bị áp lực từ phía các cơ
quan khác kể cả cơ quan nhà nước và cơ quan Đảng. Kim chỉ nam duy nhất để Tòaán căn
cứ vào khi xét xử là các quy định của pháp luật có liên quan. Tòa án khôngphải chịu sự
chỉ đạo của bất kì cơ quan nào khác. Đối với các cơ quan nhà nước thì rõ ràng các cơ
quan này không có trách nhiệm vàquyền hạn trong việc xét xử, đây là chức năng của Tòa
án. Theo quy định tại khoản 3, điều2 Hiến pháp 2013 thì mặc dù quyền lực nhà nước ở
nước ta là thống nhất nhưngđối với các cơ quan nhà nước thì về mặt chức năng có sự
phân công một cách rõràng. Mỗi cơ quan đều có một chức năng riêng tương ứng, và mối
liên hệ giữa cáccơ quan nhà nước là sự phối hợp với nhau để tạo nên sự đồng bộ nhằm
thực hiêncác quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Yêu cầu về sự phối hợp không có
nghĩalà các cơ quan nhà nước khác có quyền gây áp lực và tác động lên hoạt động xétxử
cả Tòa án. Mà ngược lại, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước khác là phảithực hiện
đúng và tốt chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm góp phần giúp Tòa ánthực hiện chức

năng xét xử.
Đối với các cơ quan Đảng thì mặc dù, về nguyên tắc, trong hoạt động của mình,
Tòa án phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng nhưng Nhà nước của chúng ta là Nhà nước
pháp quyền hoạt động theo nguyên tắc pháp chếvà mọi hoạt động của Đảng, kể cả hoạt
động lãnh đạo, cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vì lẽđó, trong hoạt động xét xử,
Tòa án chỉ căn cứ vào pháp luật và làm đúng theo các quy định của pháp luật; nghĩa là,
Tòa án phải độc lập với các cơ quan khác.
Bên cạnh đó, trong giải quyết các vụ án hình sự thì Tòa án còn phải thực sự độc lập
với các cơ quan tiến hành tố tụng khác, cụ thể là Cơ quan điều tra và Việnkiểm sát. Mặc


dù hoạt động xét xử của Tòa án là dựa trên hồ sơ, chứng cứ của Cơ quan điều tra cũng
như cáo trạng của Viện kiểm sát nhưng Tòa án phải thực sự có chính kiến, nhận định
riêng trong việc đánh giá hồ sơ và cáo trạng; theo đó, Tòa án phải phán xét cả sự đúng
hay sai và đủ hay thiếu của hồ sơ, cáo trạng. Trên cơ sởđó, căn cứ vào các quy định của
pháp luật, Tòa án sẽ ra phán quyết một cách độclập và khách quan. Nguyên tắc độc lập
đòi hỏi Tòa án phải thực sự là một trọng tài, đứng giữa hai phía là Viện kiểm sát giữ chức
năng buộc tội và luật sư là người bào chữa cho bị cáo, không thiên vị bên nào, để xem xét
lý lẽ, chứng cứ của bên nào đưa ra thuyết phục và phù hợp với pháp luật hơn, từ đó đưa ra
phán xét công bằng.
Trong xét xử Tòa án độc lập với cơ quan Tòa án cấp trên
Theo yêu cầu của nguyên tắc độc lập thì Tòa án cấp dưới khi xét xử phải không
lệthuộc vào sự chỉ đạo cũng như dựa dẫm vào ý kiến chỉ đạo của cơ quan Tòa án cấp
trên. Mặc dù về mặc tổ chức thì các tòa án địa phươngphải chịu sự quản lý của TAND tối
cao (theo khoản 1, Điều 18, Luật TCTAND), nhưng về mặt xét xử thì tòa án cấp dưới phải
hoàn toàn độc lập với tòa án cấp trên. Theo quy định thì về mặt chuyên môn TAND tối
cao có thẩmquyền “Tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống
nhất pháp luật trong xét xử”(khoản 3, Điều 20)Trên cơ sở đó, các Tòa án cấp dưới sẽ vận
dụng để giải quyết cácvụ án chính xác và đúng pháp luật hơn. Đối với từng vụ án cụ thể
thì Tòa án phảicăn cứ vào các quy định của pháp luật và những gì diễn ra tại phiên tòa để

ra phánxét. Trong trường hợp nếu thấy vướng mắc về vấn đề tố tụng, đánh giá chứng cứ...
Tòa án cấp dưới có quyền làm văn bản xin ý kiến của Tòa án cấp trên để đượchướng dẫn.
Trong thẩm quyền của mình, nếu thấy có sự xung đột pháp luật haymâu thuẫn trong văn
bản áp dụng mà Tòa án cấp trên chưa hướng dẫn hoặc hướngdẫn chưa đầy đủ thì Tòa án
cấp trên phải hướng dẫn cho Tòa án cấp dưới cách ápdụng pháp luật sao cho chuẩn xác
nhất. Tuyệt đối, Tòa án cấp trên không đượcphép ''chỉ đạo'' Tòa cấp dưới phải xử như thế
này hoặc như thế kia.
Thành viên của Hội đồng xét xử phải độc lập với nhau
Một trong những nguyên tắc trong hoạt động của TAND là Tòa án xét xử tập thểvà
quyết định theo đa số; do đó, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm nhiều người và có thểcó nhiều
thành phần khác nhau. Về cơ bản thành phần của Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán và


Hội thẩm. Theo yêu cầu của nguyên tắc được quy định trong luật tổ chức Tòa án nhân dân
2014 thì “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo phápluật.”(khoản
1, Điều 9) Phân tích nội dung của những quy định có trên thì chúng ta sẽ thấy hai khía
cạnh liên quan đến Hội đồng xét xử:
Khía cạnh thứ nhất, các Thẩm phán và Hội thẩm cùng nhau làm việc và gắn kết với
nhau tạo thành một thể thống nhất là Hội đồng xét xử. Và, các thành viên củaHội đồng
xét xử phối hợp với nhau để tạo ra một “sản phẩm” chung đó là bản ánhoặc quyết định
trên cơ sở biểu quyết theo đa số.
Khía cạnh thứ hai, Thẩm phán và Hội thẩm là những con người riêng biệt có suy
nghĩ và nhận định độc lập với nhau trong quá trình xét xử vụ án. Tính độc lập củacác
thành viên hội đồng xét xử được thể hiện ở một số quy định của pháp luật về tốtụng. Theo
quy định tại điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì khi nghị án Hộiđồng xét xử sẽ
“phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyếttheo đa số về từng vấn
đề một.” Trong trường hợp ý kiến của các thành viên Hộiđồng xét xử là không giống nhau
thì “người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được
đưa vào hồ sơ vụ án.”
Như vậy, rõ ràng là mỗi cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm đều phải tự chủ và có

chính kiến riêng của mình, dù đó là ý kiến thiểu số hay đa số đều được ghi nhận. Chứ
khôngphải trong trường hợp là ý kiến thiểu số thì sẽ bị che lấp bởi quyết định của đa
số.Quy định này góp phần khuyến khích sự tự chủ và độc lập của mỗi thành viên Hộiđồng
xét xử. Thêm vào đó, Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm cá nhânvề những
quyết định của riêng mình( theo khoản 4, Điều 39 và khoản 2, Điều 40, BLTTHS
2003).Chính trách nhiệm cá nhân này càng thực sựlà một đảm bảo cho Thẩm phán và Hội
thẩm mạnh dạn có những quyết định độclập. Cá nhân của mỗi người khi tin tưởng ý kiến
của mình, cho dù là thiểu số, làđúng pháp luật thì mạnh dạn quyết định, không phải lệ
thuộc vào ý kiến của đa sốnhững người khác. Bởi vì, nếu ý kiến của riêng mình là đúng
thì không có lý do gìphải e sợ trách nhiệm, cho dù bản án hoặc quyết định cuối cùng là
theo ý kiến củađa số.
2. Chức năng của Tòa án trong xét xử các vụ án Hình sự


Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán - chủ tọa phiên toà là người cầm cân,
nảy mực cùng hội đồng xét xử quyết định bị cáo có tội hay vô tội và những vấn đề khác
liên quan đến trách nhiệm hình sự. Để đưa ra được bản án, quyết định duy trì sự nghiêm
minh của pháp luật, duy trì kỉ cương phép nước, Thẩm phán cùng các thành viên trong hội
đồng xét xử phải nghiên cứu toàn bộ tài liệu trong hồ sơ vụ án một cách độc lập (đánh giá
các chứng cứ đã thu thập được, so sánh đối chiếu các chứng cứ với nhau để tìm ra chứng
cứ cần thiết liên quan đến việc giải quyết vụ án; không ỉ lại vào kết luận của cơ quan điều
tra hay cáo trạng của viện kiểm sát). Đối với việc giải quyết những vụ án hình sự.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng phải
xem xét những tình tiết, chứng cứ trong hồ sơ có cấu thành tội phạm hay không trên cơ sở
phân tích những dấu hiệu chủ quan và khách quan của các tình tiết tăng nặng hay giảm
nhẹ không? Các yếu tố nhân thân để từ đó cùng hội đồng xét xử đưa ra được bản án,
quyết định về vụ án.
Thẩm phán chủ động xây dựng kế hoạch xét hỏi để nhằm đảm bảo cho việc xét hỏi
tại phiên tòa được đầy đủ, chính xác, nhanh chóng. Trên cơ sở dự đoán, lập kế hoạch cho
quá trình thu thập, nhận thức tài liệu về vụ án, Thẩm phán được giao nhiệm vụ giải quyết

vụ án có thể ra những quyết định cá biệt đảm bảo cho quá trình xét xử như: quyết định
mời thêm luật sư, giám định viên tham gia phiên toà trong những trường hợp cần thiết.
Theo luật tố tụng hình sự, khi kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét xử, tòa án có thể ra một
trong các quyết định sau: quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ điều tra bổ
sung…
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Thẩm phán nói riêng, hội đồng xét xử nói
chung giữ vai trò trung tâm, điều khiển quá trình xét hỏi để làm sáng tỏ những tình tiết,
những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án; điều khiển trình tự những người
được xét hỏi, những vấn đề cần xét hỏi; biết phối hợp với các thành viên trong hội đồng
xét xử để cùng tham gia xét hỏi; kịp thời cắt những ý kiến trình bày của đương sự hay của
các bên tham gia xét xử nếu ý kiến đó nằm ngoài phạm vi xét hỏi hoặc ngoài những yêu
cầu làm rõ các tình tiết vụ án.
Khi tòa án tiến hành xét xử vụ án công khai, tại đây những tình tiết, chứng cứ, tài
liệu trong hồ sơ vụ án được kiểm tra, xác minh công khai, dân chủ tại phiên toà. Thực tiễn


xét xử cho thấy ở một số vụ án, tòa án đã tuyên bị cáo không phạm tội hoặc bị cáo phạm
tội theo khung hình phạt nhẹ hơn.
Tòa án xét xử công khai, liên tục, trực tiếp và bằng lời. Trong quá trình xét xử, hội
đồng xét xử nói chung và Thẩm phán nói riêng phải tiếp nhận thông tin, nghiên cứu, kiểm
tra nguồn của chúng. So sánh đánh giá chúng với mô hình sự kiện phạm tội có trong hồ sơ
vụ án tránh để quên, bị sót hoặc nhầm lẫn các tình tiết, chứng cứ.
Quá trình nhận thức của hội đồng xét xử nói chung, Thẩm phán nói riêng bao gồm
cả việc nhận thức các điều luật cần áp dụng đối với vụ án. Vì vậy, đòi hỏi họ phải xác
định được tương quan giữa mô hình vụ án và các điều luật cần áp dụng. Đây là vấn đề có
ý nghĩa quan trọng, thực tế cho thấy không hiếm trường hợp một vụ án qua các cấp xét xử
khác nhau thì các điều luật áp dụng cũng thay đổi. Điều đó nói lên tính phức tạp và khó
khăn của vấn đề áp dụng pháp luật.
Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa nói riêng, hội đồng xét xử nói chung cần lắng nghe
lời khai của bị cáo để kịp thời đặt ra những câu hỏi, vạch ra những điểm mà bị cáo khai

quanh co, không đúng sự thật, mâu thuẫn với các chứng cứ khác, để hướng bị cáo về việc
phải khai đúng sự thật khách quan của vụ án đã xảy ra.Xử sự của Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa có thể kích thích tính tích cực của những người tham gia xét hỏi, làm sáng tỏ sự
thật của vụ án.
Thẩm phán biết cách giáo dục các đương sự loại bỏ những mặc cảm về tội lỗi của
họ, tin vào những cố gắng sắp tới của bản thân. Trong quá trình xét hỏi Thẩm phán phải
đảm bảo thời gian, yêu cầu và đồng thời phải đảm bảo xét hỏi sao cho dân chủ, khách
quan, thông qua đó lồng những nội dung pháp luật vào giải thích, hướng dẫn nhằm tuyên
truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân.
Tác động giáo dục có ý nghĩa quan trọng của hội đồng xét xử là ở tính nghiêm
minh, đúng đắn, toàn diện của các phán quyết mà họ đưa ra phải dựa trên những tình tiết,
chứng cứ, lời khai đã được xác minh, kiểm tra một cách công khai, dân chủ tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử nói chung, Thẩm phán nói riêng phải khách quan, tôn trọng và lắng nghe
ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa, lời khai của bị cáo và các
đương sự; phải đảm bảo và tôn trọng quyền dân chủ và bình đẳng của họ.
2. Chức năng xét xử của tòa án trong các vụ án hành chính


Đây là hoạt động tư pháp đặc thù mà ở đó toà án giải quyết tranh chấp hành chính
giữa một bên là cá nhân công dân, tổ chức (người khởi kiện) với một bên là cán bộ, công
chức Nhà nước, cơ quan Nhà nước (người bị kiện) về quyết định hành chính hay hành vi
hành chính mà công dân hay tổ chức cho là trái pháp luật.
Sau khi có quyết định thụ lí vụ án hành chính, Thẩm phán được giao nhiệm vụ giải
quyết vụ án hành chính sẽ tiến hành điều tra vụ án; Viện kiểm sát chỉ tham gia điều tra
nếu xét thấy cần thiết để làm rõ tính chất vụ án Để có thể thu thập chứng cứ, nghiên cứu
và bước đầu đánh giá chứng cứ thì trong quá trình chuẩn bị xét xử Thẩm phán phải định
hướng được một số vấn đề như tự mình điều tra hay uỷ thác cho toà hành chính khác điều
tra. Nếu tự mình điều tra thì Thẩm phán phải xác định được một số vấn đề như: quan hệ
pháp luật giữa các đương sự, những vấn đề cần chứng minh trong vụ án…
Thẩm phán toà hành chính tự mình tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ nên

trong giai đoạn này họ bắt đầu nghiên cứu hồ sơ. Nếu giai đoạn điều tra được tiến hành
một cách thận trọng, đúng pháp luật thì sẽ giảm nhẹ lao động của Thẩm phán trong việc
nghiên cứu hồ sơ. Để cho khâu chuẩn bị xét xử đạt chất lượng tốt, Thẩm phán phải xác
định được một số vấn đề như: kiểm tra, xác định thẩm quyền xét xử, xác định tư cách
người tham gia tố tụng trong vụ án; các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, những vấn đề
về thủ tục tố tụng; cơ sở vật chất chuẩn bị cho hoạt động xét xử. Đồng thời Thẩm phán
phải dự kiến trước những tình huống có thể xảy ra tại phiên toà và cách thức giải quyết
những tình huống đó nhằm đạt được mục đích của hoạt động xét xử.
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hành chính phải nắm được toàn bộ
nội dung vụ án, tìm hiểu nguyên nhân làm phát sinh vụ việc hành chính và đảm bảo có
các chứng cứ chính xác, đầy đủ để chứng minh được nghĩa vụ và quyền lợi chính đáng
của đương sự; cũng như chứng minh được tính đúng đắn của quyết định hay hành vi hành
chính của cán bộ, công chức hoặc cơ quan Nhà nước.
Để thực hiện được những yêu cầu trên, Tòa án phải trực tiếp giao tiếp với những
người có trách nhiệm của cơ quan hữu quan để họ cung cấp những chứng cứ; trực tiếp
tiếp xúc với bên khởi kiện, bên bị kiện, với người làm chứng, người có quyền lợi liên
quan.


Trong giai đoạn điều tra vụ án hành chính, để làm rõ tính chất vụ án Thẩm phán có
thể tổ chức để bên khởi kiện và bên bị kiện gặp gỡ trực tiếp để đối chất những vấn đề còn
mâu thuẫn; tạo điều kiện cho hai bên thoả thuận với nhau về một số vấn đề như bồi
thường thiệt hại, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính hay đơn kiện. Thẩm
phán lúc này chỉ tạo điều kiện cho hai bên đương sự thoả thuận với nhau chứ không giữ
vai trò hoà giải, bởi theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì tố tụng
hành chính không có thủ tục hoà giải như tố tụng dân sự.
3. Chức năng xét xử của Tòa án trong các vụ việc dân sự:
Sau khi có quyết định thụ lí vụ việc dân sự Thẩm phán được giao nhiệm vụ giải
quyết vụ việc đó sẽ tiến hành hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, lập hồ sơ để giải
quyết các tranh chấp hay yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế thương mại và

lao động. Để việc điều tra đáp ứng được mục đích, chuẩn bị căn cứ cho việc giải quyết vụ
việc dân sự thì Thẩm phán phải xác định được một số vấn đề như: những quan hệ tranh
chấp giữa các đương sự, những vấn đề cần chứng minh; xác định đúng và đầy đủ tư cách
đương sự trong tố tụng dân sự.
Thực tiễn công tác xét xử cho thấy, các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế,
lao động là phức tạp. Nhưng khi giải quyết các vụ án này các Tòa án đã chú trọng nâng
cao chất lượng xây dựng hồ sơ vụ án, làm rõ quan hệ pháp luật có tranh chấp hoặc đối
tượng khởi kiện, áp dụng đúng các quy định của pháp luật, nên về cơ bản đã giải quyết
các vụ án đúng pháp luật và trong thời hạn pháp luật quy định, đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của các bên đương sự, góp phần thúc đẩy các giao dịch dân sự, kinh tế và đảm bảo
sự công bằng xã hội.
Nếu trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì các cơ quan điều tra, truy tố phải
chủ động tiến hành các biện pháp điều tra để tìm ra chứng cứ, tình tiết liên quan đến việc
giải quyết vụ án, thì trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự các đương sự phải chủ
động và có trách nhiệm cung cấp chứng cứ cho toà án và thông qua đó chứng minh cho
yêu cầu của họ là có căn cứ và lợi ích của họ là hợp pháp. Như vậy trách nhiệm cung cấp
chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự của vụ việc dân sự. Còn thẩm
phán được phân công giải quyết vụ việc dân sự trực tiếp tiến hành lập hồ sơ giải quyết vụ
việc dân sự nên họ phải trực tiếp tiếp xúc trao đổi với cá nhân, tổ chức, một số cơ quan có


liên quan nhằm thu thập đầy đủ các chứng cứ của vụ án để có căn cứ giải quyết vụ việc
dân sự.
Việc hỏi tại phiên tòa là giai đoạn trung tâm của việc giải quyết vụ án. Tại đây, một
lần nữa Tòa án lại công khai kiểm tra, xác minh lại tất cả những tình tiết, những chứng cứ
liên quan đến việc giải quyết vụ án. Vì vậy yêu cầu Thẩm phán- chủ tọa phiên tòa nói
riêng, hội đồng xét xử nói chung phải tiến hành hoạt động thận trọng, khách quan, đầy đủ
và đúng pháp luật.
Để việc xét hỏi có hiệu quả, làm rõ được những yêu cầu cần giải quyết, có sự
thuyết phục đối với đương sự và những người tham dự phiên tòa; hội đồng xét xử và

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải nắm vững hồ sơ và có kế hoạch xét hỏi cụ thể để làm
rõ các vấn đề liên quan đến tư cách nguyên đơn, bị đơn; bị đơn có thừa nhận lời khai của
nguyên đơn không ? thừa nhận nội dung nào, không thừa nhận nội dung nào ? lí do không
thừa nhận ?Nếu trong quá trình hỏi xuất hiện mâu thuẫn giữa các lời khai của đương sự,
Thẩm phán tổ chức đối chất giữa các đương sự có lời khai mâu thuẫn đó, yêu cầu các
đương sự phải khai rõ dựa vào cơ sở nào lại khai như vậy.
Trong quá trình hỏi nếu đương sự có những đề xuất mới trong việc giải quyết vụ án
thì Thẩm phán phải làm rõ đề xuất đó rồi mới tiếp tục hỏi về nội dung; không nên lảng
tránh đề xuất của các đương sự. Thẩm phán, chủ tọa phiên tòa nên tìm ra cách giải quyết
tình huống đó một cách hợp lý; bởi vì việc giải quyết những tình huống nảy sinh trong
quá trình hỏi có ý nghĩa pháp lý và chính trị sâu sắc, tác động mạnh mẽ đến đương sự của
vụ án cũng như những người tham dự phiên tòa.
Thực tiễn hoạt động xét xử đòi hỏi Thẩm phán không được có thái độ lộng quyền,
thiếu tôn trọng các bên đương sự, đưa ra các câu hỏi hàm ý mớm câu trả lời. Hội đồng xét
xử phải nghiêm túc, không để xảy ra tình trạng dân chủ quá trớn, để các đương sự tranh
nhau trả lời, đương sự nhiều khi cướp lời của hội đồng xét xử; luật sư, kiểm sát viên tranh
nhau hỏi.
II. Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trong giai đoạn hiện nay
1. Những vướng mắc trong giải quyết các vụ việc dân sự
Trong mấy năm gần đây, các tranh chấp về dân sự có xu hướng ngày càng gia tăng,
chiếm tỷ lệ cao là các tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về đất đai, tranh


chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế…Công tác xét xử các vụ án dân sự này
về cơ bản đã đảm bảo tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự, khắc phục được tình trạng để án
quá hạn luật định. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn có một số khó khăn, vướng mắc, nhất
là trong việc thu thập chứng cứ.
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ
án phải dựa vào các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự xuất trình cũng như được Tòa
án thu thập để làm căn cứ giải quyết vụ án, chấp nhận yêu cầu hay phản bác ý kiến, yêu

cầu của đương sự. Đồng thời, trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung
năm 2011 đã quy định khá chi tiết, đầy đủ các hoạt động thu thập chứng cứ cũng như quy
định chặt chẽ trình tự, thủ tục tiến hành từng hoạt động. Tuy nhiên, trong thực tiễn giải
quyết các vụ án dân sự, việc thu thập chứng cứ còn nhiều vướng mắc, bất cập.
Qua công tác xét xử cũng cho thấy, các tranh chấp gắn liền với đất như: Tranh chấp
quyền sử dụng đất, chia tài sản chung là nhà và đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
QSD đất, hợp đồng chuyển nhượng nhà ở… tập trung chủ yếu ở các địa bàn có các dự án
liên quan đến đền bù giải tỏa, tái định cư… với tính chất vụ việc rất phức tạp, đan xen
nhiều quan hệ pháp luật, nhiều cá nhân, nhiều cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng. Nguyên
nhân gia tăng các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất là do thị trường bất động
sản biến động tăng giảm bất thường, dẫn đến các bên tham gia giao dịch vi phạm hợp
đồng; đô thị hóa trên diện rộng làm cho nhiều người trước đây đi khỏi địa phương nay trở
về khiếu kiện với mục đích được đền bù, bố trí tái định cư. Do đó, các tranh chấp liên
quan đến đất đai vì vậy rất đa dạng và ngày càng phức tạp hơn.
Trên thực tế, nhiều vụ án có tính chất phức tạp, nhiều người tham gia tố tụng
nhưng đương sự không hợp tác, vắng mặt nên vụ án phải hoãn nhiều lần, làm cho vụ án
kéo dài thời gian giải quyết. Có vụ án cấp giám đốc thẩm TANDTC xử hủy giao về xét xử
lại nhưng tài sản không còn trên thực tế nên việc xét xử gặp nhiều khó khăn trong việc
đánh giá chứng cứ vụ án. Thu thập chứng cứ đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật tố
tụng làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ án là nhiệm vụ rất quan trọng của Thẩm
phán, quyết định chất lượng công tác xét xử các vụ án dân sự. Chứng cứ trong hồ sơ vụ án
bao gồm chứng cứ do đương sự (bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa


vụ liên quan giao nộp), chứng cứ do Tòa án thu thập bằng các biện pháp mà BLTTDS quy
định.
Thông thường, nguyên đơn khởi kiện phải cung cấp chứng cứ kèm đơn khởi kiện,
bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cung cấp chứng cứ sau khi được Tòa án
thông báo thụ lý vụ án. Trong nhiều trường hợp, sau khi Tòa án thụ lý vụ án, do đương sự
giao nộp chứng cứ không đầy đủ nên Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp chứng cứ bổ

sung. Tuy nhiên, đương sự thường là bị đơn cố tình trì hoãn, không giao nộp chứng cứ.
Mặc dù luật quy định đương sự phải gánh chịu hậu quả pháp lý nếu không giao
nộp được chứng cứ nhưng việc đương sự không giao nộp chứng cứ đã gây nhiều khó
khăn trong quá trình giải quyết vụ án như hòa giải, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài
sản… Nhiều vụ án tại phiên tòa sơ thẩm đương sự mới cung cấp chứng cứ, mà việc đánh
giá tính hợp pháp của chứng cứ không chỉ phụ thuộc vào Hội đồng xét xử, mà trong nhiều
trường hợp phải trưng cầu cơ quan chuyên môn như giám định chữ ký, chữ viết, giọng
nói… hoặc tại phiên tòa phúc thẩm mới cung cấp chứng cứ, làm thay đổi toàn bộ kết quả
sơ thẩm, dẫn đến tình trạng sửa toàn bộ vụ án hoặc hủy án sơ thẩm do có chứng cứ mới.

 Một số biện pháp khắc phục: Theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS thì
đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể
tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ. Như vậy, trước hết Thẩm phán
phải yêu cầu đương sự chứng minh là không thể tự mình thu thập chứng cứ được. Thực tế
thực hiện quy định này cũng gặp nhiều bất cập.
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy
định của BLTTDS về chứng minh và chứng cứ thì: Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không
cung cấp được chứng cứ cho đương sự thì phải thông báo bằng văn bản có ghi rõ lý do
việc không cung cấp chứng cứ cho đương sự biết để họ chứng minh với Tòa án là họ đã
thu thập chứng cứ nhưng không có kết quả và yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Nhưng
thực tế các cơ quan có thẩm quyền không bao giờ xác nhận cho đương sự. Mặc dù đương
sự đã nhiều lần đi lại yêu cầu cung cấp các chứng cứ liên quan nhưng bị cơ quan, tổ chức
từ chối với đủ lý do, rằng lộ bí mật Nhà nước hoặc vì sợ trách nhiệm nên không cung cấp.
Việc từ chối thường thể hiện bằng lời nói, thái độ, cử chỉ. Do vậy, đương sự khó có thể


chứng minh là mình “đã áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không thu thập được chứng
cứ” để yêu cầu Tòa án thu thập.
Do đó không có căn cứ để thẩm phán tự mình “có thể tiến hành một hoặc một số
biện pháp” để thu thập chứng cứ, dẫn đến tình trạng là Thẩm phán chờ đương sự, đương

sự chờ cơ quan có thẩm quyền, dẫn đến kéo dài thời hạn giải quyết vụ việc. Khi đương sự
chưa đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ nào nhưng để giải quyết vụ án
trong thời hạn luật định, Thẩm phán phải tiến hành một biện pháp thu thập chứng cứ cụ
thể, dẫn đến đương sự khiếu nại.
Để khắc phục tình trạng trên, cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định của BLTTDS
trong quá trình thu thập chứng cứ. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự đòi hỏi Thẩm
phán phải tuân thủ, xem xét kỹ lưỡng trình tự thủ tục theo quy định BLTTDS và Nghị
quyết hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Việc đó đòi hỏi các Thẩm phán
phải không ngừng nâng cao trình độ về kỹ năng thu thập đánh giá chứng cứ trong vụ việc
dân sự. Ngoài việc tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ các Thẩm phán
phải nghiên cứu các văn bản pháp luật, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán đối với từng vụ án cụ thể, thông
qua việc nghiên cứu hồ sơ, xác định quan hệ pháp luật, thành phần người tham gia tố
tụng; nghiên cứu xác định giá trị tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp; những chứng
cứ khác cần thu thập, biện pháp thu thập để từ đó chủ động đề ra các biện pháp thu thập
chứng cứ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự, giải quyết triệt để những vấn đề được
đặt ra trong vụ án. Việc áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ cần phải được thực hiện
bằng quyết định theo đúng mẫu, căn cứ điều luật rõ ràng và phải thông báo, triệu tập
đương sự biết đến nơi định giá; mời đầy đủ thành phần định giá, giám định, xem xét tại
chỗ theo đúng quy định.
Cùng với đó, trong quá trình giải quyết, xét xử vụ việc dân sự các Thẩm phán phải
chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan khác trong việc thu thập chứng
cứ như cơ quan Tài nguyên - Môi trường, cơ quan giám định, cơ quan định giá... để thu
thập những chứng cứ có độ chính xác cao phục vụ cho việc giải quyết án. Đồng thời,
Thẩm phán là người trực tiếp áp dụng pháp luật, trong quá trình giải quyết xét xử các vụ
việc dân sự, cần kịp thời phát hiện những mâu thuẫn, bất cập của pháp luật để tổng hợp,


kiến nghị trong việc ban hành, sửa đổi pháp luật, nhất là các quy định của BLTTDS về thu
thập chứng cứ.

2. Những vướng mắc trong giải quyết các vụ án hình sự
Hoạt động giải quyết án hình sự của TAND là một giai đoạn trong toàn bộ quá
trình giải quyết án hình sự. Khác với hoạt động giải quyết các loại án khác như án dân sự,
kinh tế, lao động, hành chính… với đặc điểm là hoạt động độc lập của Tòa án từ khi nhận
đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu làm phát sinh quan hệ tố tụng, Toà án là cơ quan chủ
động trong các hoạt động tố tụng dựa trên chứng cứ các bên đương sự xuất trình hoặc có
được do điều tra khi cần thiết để đưa ra quyết định trên. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy,
công tác giải quyết các vụ án hình sự vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế, cụ thể:
Những sai sót thường mắc phải là: định tội danh không đúng; áp dụng không đúng
các điều, khoản của BLHS; áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
chưa phù hợp dẫn đến xử bị cáo quá nhẹ hoặc quá nặng, cho hưởng án treo, xử dưới
khung hình phạt không đúng quy định của pháp luật; nhấn mạnh bồi thường thiệt hại mà
chưa chú trọng đến tính chất và hậu quả của hành vi bị cáo đã gây ra cho xã hội; việc xử
lý vật chứng, tịch thu tài sản hoặc tiền đã tham gia vào việc phạm tội hoặc do phạm tội
mà có chưa đúng quy định của pháp luật; việc áp dụng BLDS để xác định bồi thường thiệt
hại, cấp dưỡng đối với người bị hại, hoặc đối với người bị hại có trách nhiệm nuôi dưỡng
chưa chính xác hoặc giải quyết chưa triệt để; việc ra lệnh tạm giam đối với các bị cáo
đang tạm giam sau khi nhận hồ sơ của VKSND còn có nhiều sai sót; việc thực hiện mẫu
các văn bản tố tụng không đúng theo quy định của pháp luật và mẫu của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC hướng dẫn; việc trả hồ sơ cho VKSND để điều tra bổ sung không có căn
cứ để vụ án bị kéo dài; biên bản phiên toà không phản ánh đầy đủ nội dung diễn biến của
phiên toà; phiên toà xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng không đúng quy định của
pháp luật; cấp phúc thẩm sửa án của cấp sơ thẩm không có căn cứ hoặc căn cứ chưa phù
hợp.
Thông qua biên bản phiên toà - là tài liệu phản ánh diễn biến của phiên toà - cho
thấy, có những phiên toà mà việc xét hỏi và tranh luận theo tinh thần Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/6/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới chưa tốt: xét hỏi còn phiến diện, không đầy đủ dẫn đến việc ra bản án


quyết định hình phạt không đúng quy định của pháp luật. Việc kiểm tra căn cước, lý lịch

của bị cáo chưa được thể hiện đầy đủ trong biên bản phiên toà.
Những hạn chế trong hoạt động giải quyết án hình sự thuộc bốn nhóm vi phạm
sau: quyết định hình phạt quá nhẹ, áp dụng Điều 31, 60 của BLHS để cho cải tạo không
giam giữ, hưởng án treo không đúng. Ngược lại, có trường hợp quyết định hình phạt quá
nặng; xác định sai tội danh, áp dụng không đúng điều khoản của BLHS, trong đó có
trường hợp áp dụng không đúng quy định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự; đánh giá chứng cứ, xác định tiền án, tiền sự, xử lý vật chứng, phân hoá vai trò
trong đồng phạm, cá thể hoá hình phạt, trả hồ sơ điều tra bổ sung không chính xác; coi
nhẹ giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự.
Theo quy định của Khoản 1, Điều 19 Luật Tổ chức TAND, TANDTC có nhiệm vụ
hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các
Toà án. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ
rõ: “TANDTC tập trung vào công tác tổng kết xét xử, hướng dẫn các Toà án áp dụng
pháp luật thống nhất”. Trong những năm qua, việc hướng dẫn áp dụng pháp luật của
TANDTC được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: qua báo cáo tổng kết công tác
hàng năm; bằng các văn bản hướng dẫn đơn hành đối với từng vấn đề. Đặc biệt, hình thức
hướng dẫn áp dụng pháp luật quan trọng nhất và có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc là
các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
Hiện nay có một số quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện thi hành
án phạt tù cho hưởng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ chưa cụ thể, chưa đầy
đủ và chưa thống nhất nên các TAND địa phương khi thực hiện còn gặp một số khó khăn,
vướng mắc.
Cùng thuộc lĩnh vực thi hành án hình sự, về công tác tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù hiện nay theo nội dung hướng dẫn của Thông tư liên ngành số 02/2006/TTLN của
Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế. Tại Mục 8 Thông tư quy
định trường hợp người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù chết, thì gia đình họ
hoặc chính quyền xã, phường, thị trấn được giao quản lý người được tạm đình chỉ phải
báo cáo Chánh án Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, Chánh án
Toà án cấp tỉnh nơi người bị kết án đang cư trú biết. Chánh án Toà án đã ra quyết định



tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù có trách nhiệm thông báo cho Toà án đã ra quyết định
thi hành án để ra quyết định đình chỉ chấp hành hình phạt tù (vì người bị kết án đã bị chết)
và gửi quyết định này cho chính quyền địa phương xã, phường, thị trấn nơi người bị kết
án cư trú, ban giám thị trại giam, trại tạm giam nơi người bị kết án được tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù. Đến năm 2007, Hội đồng thẩm phán TANDTC có Nghị quyết số
02-NQ/HĐTP ngày 02/10/2007 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ 5 của
Bộ luật Tố tụng hình sự về “thi hành bản án và quyết định của Toà án”, nhưng không
hướng dẫn mẫu quyết định đình chỉ chấp hành hình phạt tù nên khi thực hiện, các TAND
địa phương không có sự thống nhất, mỗi địa phương tự soạn thảo một hình thức mẫu khác
nhau.
Văn bản quy định về cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp với ngành Tòa án
còn thiếu, chưa có và nếu có cũng còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Vì vậy, nhiều cơ
quan, tổ chức chưa phối hợp với Tòa án, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình
theo quy định của pháp luật trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, giám định, ủy thác tư
pháp làm cho thời gian xét xử vụ án kéo dài. Chưa có quy định cụ thể về bảo vệ nhân
chứng và xử lý đối với công dân không hợp tác với các cơ quan pháp luật, gây khó khăn,
cản trở việc giải quyết vụ án.
Nhiều nội dung pháp luật quy định không thống nhất được phát hiện nhưng cơ
quan có thẩm quyền chậm sửa đổi hoặc TANDTC không hướng dẫn áp dụng. Do những
văn bản hướng dẫn cho hoạt động xét xử án hình sự của TANDTC chưa đầy đủ, cụ thể
nên trong thực tiễn, TAND các cấp thường vận dụng linh hoạt những hướng dẫn của
TANDTC để áp dụng cho từng vụ án cụ thể, nhưng các địa phương hiểu và thực hiện các
hướng dẫn của TANDTC đôi khi còn khác nhau. Quan điểm khác nhau này xảy ra giữa
các cấp TAND ở trong tỉnh, thậm chí ngay trong các thành viên của hội đồng xét xử nên
hiệu quả của công tác hướng dẫn pháp luật còn chưa được như mong muốn. Đây cũng
chính là nguyên nhân của tình trạng các vụ án bị cấp trên sửa, huỷ có chiều hướng tăng.
Thêm nữa, trên thực tế, trình độ chuyên môn của đa số Hội thẩm nhân dân ở
TAND các cấp chưa đáp ứng yêu cầu xét xử. Khi tham gia xét xử, quyền của Hội thẩm
nhân dân được pháp luật quy định ngang với Thẩm phán. Điều này đương nhiên đòi hỏi

kiến thức pháp luật của Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử phải tương đương


Thẩm phán, nhưng thực tế hiện nay chưa đạt. Chế định về Hội thẩm nhân dân hiện còn
nhiều điểm chưa phù hợp, chưa hoàn thiện. Chưa có quy định cụ thể về trình độ, năng lực
để lựa chọn Hội thẩm nhân dân, mà pháp luật mới chỉ dừng lại những quy định chung chủ
yếu về phẩm chất đạo đức. Mặt khác, chế độ đãi ngộ, chế độ trách nhiệm đối với Hội
thẩm vẫn còn quá thấp.
 Biện pháp khắc phục:
Thứ nhất, trong thời gian tới, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần hoàn thiện
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; ban hành, sửa đổi, bổ sung, giải thích và hướng dẫn áp
dụng pháp luật kịp thời. Tiếp tục đổi mới hoạt động để nâng cao chất lượng công tác xây
dựng pháp luật tạo ra hệ thống pháp luật đồng bộ, mang tính khả thi cao, dễ hiểu, dễ nhớ,
dễ thực hiện.
Hai là: Tổng kết kinh nghiệm trong giải quyết án hình sự thực chất là tổng kết việc
áp dụng pháp luật trong hệ thống cơ quan Toà án theo những chủ đề nhất định và trong
một thời gian nhất định như nêu các bản án, quyết định đúng đắn, chính xác, có tính mẫu
mực để toàn ngành học tập và những bản án, quyết định đã ban hành chưa chính xác,
chưa thoả đáng, còn có những sai lầm trong xem xét, đánh giá chứng cứ, trong việc chọn
quy phạm pháp luật để rút kinh nghiệm. Trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá thực chất về
sự chính xác, phù hợp thực tiễn của các quy phạm pháp luật sau khi được Nhà nước ban
hành: những quy phạm pháp luật nào phát huy tác dụng tốt; những quy phạm pháp luật
nào còn mang tính chung chung, trừu tượng khó thực hiện; những quy phạm pháp luật
nào quy định quá cụ thể, cứng nhắc không đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống xã hội.
Từ đó, cần có những đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, giải thích, hướng dẫn
những quy phạm pháp luật nhằm không ngừng nâng cao tính khả thi của các văn bản pháp
luật.
Thứ ba, để nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án thì phải thường xuyên nâng cao
lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức cho Thẩm phán - lực lượng chủ
yếu hoạt động áp dụng pháp luật, xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đồng thời tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ Thư ký, Thẩm tra viên, chuyên viên nhằm bảo đảm nguồn nhân lực sẵn
sàng cho điều kiện mới.


Toà án các cấp cần tạo điều kiện thuận lợi cho Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm
vụ, đồng thời chỉ bố trí Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử khi đã được nghiên cứu hồ sơ,
chủ động phối với thường trực đoàn mời Hội thẩm nhân dân tham gia vụ án phù hợp với
chuyên môn. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban mặt trận Tổ quốc các cấp - các cơ quan có
thẩm quyền trong việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm - nên có sự phối hợp tốt hơn
đối với Toà án để thực sự Hội thẩm nhân dân là đại diện cho nhân dân nhưng vẫn bảo
đảm được hoạt động của Toà án được thuận lợi.


KẾT LUẬN
Sự ra đời của Tòa án gắn liền với hoạt động xét xử và xét xử trở thành đặc điểm
quan trọng nhất khi nói đến tòa án. Ngay từ khi Nhà nước xuất hiện đã có xét xử và có
Tòa án. Có thể lí giải như sau, Tư pháp tức là pháp đình, là Tòa án, là y theo pháp luật mà
xét định các việc trong phạm vi pháp luật do vậy, “hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng
xét xử các hành vi vi phạm các qui định của pháp luật nhà nước”..
Trong nhà nước quân chủ tuyệt đối Nhà vua ban hành pháp luật, thực hiện pháp uật
và đồng thời lại là người xét xử các hành vi vi phạm pháp luật nên không có hệ thống tòa
án chuyên thực hiện chức năng xét xử mà chức năng này được giao cho hệ thống cơ quan
hành pháp từ trung ương đến địa phương. Xã hội phát triển, nhằm hạn chế quyền lực vô
hạn của nhà vua, các nhà tư tưởng tư sản đã xây dựng mô hình nhà nước phân quyền, mà
ở đó các quyền lực nhà nước được giao cho các cơ quan chuyên trách thực hiện. John
Locke và Montesquieu là những người đại diện cho học thuyết này và các Ông đã phân
chia hoạt động nhà nước thành ba nhánh quyền lực: quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Trên cơ sở những học thuyết tiến bộ này, nhà nước tư sản ra đời đã đấu tranh và
khẳng định cho sự độc lập của quyền tư pháp với chức năng của các cơ quan lập pháp và

hành pháp.
Sự độc lập tư pháp là một trong những đảm bảo quan trọng trong việc bảo đảm
quyền bình đẳng, quyền tự nhiên của con người, nhất là trong việc chống lại tình trạng
tham nhũng, lợi dụng quyền lực của những người cầm quyền do đam mê quyền lực và vụ
lợi họ đã xâm phạm đến các quyền của con người trong xã hội. Với sự ra đời của nhà
nước tư sản thì Tòa án trở thành đại diệncho nhánh quyền lực nhà nước, là hoạt động của
nhà nước xét xử các tranh chấp trong xã hội giữa các cá nhân với nhau và phán quyết
hành vi của công dân có vi phạm pháp luật nhà nước hay không. Theo sự phát triển của
xu thế dân chủ, đối tượng hoạt động xét xử của Tòa án cũng ngày càng được mở rộng.
Lúc mới ra đời hoạt động xét xử chỉ được áp dụng cho các công dân có hành vi chống lại
nhà nước, các vi phạm giữa các cá nhân được giải quyết chủ yếu bằng con đường “tự xử”.
Càng về sau, các quyền tự do dân sự, chính trị của công dân dần dần được pháp luật thừa
nhận, sự vi phạm các quyền đó được nhìn nhận như là xâm phạm tới lợi ích, trật tự chung
và do đó chúng là đối tượng của hoạt động xét xử của Tòa án. Ngoài các vấn đề hình sự,


dân sự, hoạt động xét xử còn mở rộng đến các vấn đề thương mại, đất đai, lao động, đặc
biệt ngày nay Tòa án xử những hành vi vi phạm pháp luật của các quan chức hành pháp
trong việc ban hành các quyết định của mình. Ngoài việc xử dân, xử quan, Tòa án đã hình
thành hệ thống xét xử cả hành vi của các cơ quan lập pháp, hành pháp nếu hành vi đó vi
phạm pháp luật và hiến pháp với sự ra đời của Tòa hành chính và Tòa án hiến pháp.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định rằng: Chỉ có Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử duy nhất, thực hiện chức năng tư pháp. Đây là một điểm mới so với quy
định trước đây. Đây là định hướng trong quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước a theo
kiểu nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung mới này có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, nhằm phân công thực hiện quyền lực nhà nước theo hướng xác định rõ: Quốc hội là
cơ quan thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Tòa
án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Trong đó, việc xác định chức năng chính
của Tòa án nhân dân là chức năng xét xử còn có ý nghĩa quan trọng trong định hình
nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là: Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích ủa nhà nước cũng như quyền là lợi ích
hợp pháp của công dân.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình môn Luật Hiến pháp, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, năm 2015
2. Giáo trình môn Luật Hiến pháp, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013, NXB
Công an nhân dân
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, NXB Lao động
4. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, NXB Chính trị Quốc gia
5. Khế ước xã hội, Jean-Jacques Rousseau, NXB Thế giới năm 2014
6. Từ điển Tiếng việt, NXB Văn hóa – Thông tin
7. Nguyễn Đăng Dung, Một số vấn đề về tư pháp và các mô hình tư pháp phương
Tây, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10 (2002) 23.
8. Bùi Ngọc Sơn, Sự sự độc lập của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 4 (2003) 43.
9. Nguyễn Ngọc Chí, Một số yếu tố ảnh hưởng tới nguyên tắc “Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Tạp chí Nhà nước pháp luật, số 2 (2009)
10. Các trang web: moj.gov.vn; tapchicongsan.org.vn; thuvienphapluat.com;
tapchi.vnu.edu.vn; toaan.gov.vn;


×