Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.55 KB, 15 trang )

A. MỞ BÀI
Người bị là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra
nên biết rõ các tình tiết của vụ án . Bộ luật hình sự năm 2003 quy định người bị
hai có nhiệm vụ giúp cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật của vụ án nhằm xét
xử đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, các quy định về quyền
và nghĩa vụ của người bị hại cũng bộc lộ nhiều điểm thiếu sót,hạn chế, tồn tại
nhiều vướng mắc, bất cập khi áp dụng. Dưới đây là bài viết của em có đề tài :
Quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện
pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại.

B. NỘI DUNG
I.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.Khái niệm người bị hại
theo quy định tại Điều 51 BLTTHS Việt Nam quy định : " Người bị thiệt hại là
người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra ". Người bị hại
là người cụ thể : thiệt hại gây ra đó là thể chất, tinh thần, tài sản hoặc những thiệt
hại khác; những thiệt hại đó do tội phạm gây ra.
Từ đó ta có thể suy ra các đặc điểm của người bị hại như sau :
- Chủ thể phải là con người chứ không phải là pháp nhân hay một tổ chức xã
hội.
- Thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản.
Phải là thiệt hại xảy ra trên thực tế.
- Thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là có
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra của tội phạm.
- Người bị hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại khi được cơ
quan tiến hành tố tụng công nhận.
2. Cơ sở quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại
a. Cơ sở pháp lý

1




Điều 71 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa
đổi , bổ sung năm 2001 quy định : " Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo vệ tính mạng, danh dự, nhân phẩm ".
Người bị thiệt hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi
phạm tội gây ra, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất. Vì vậy
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói chung
và người bị hại nói riêng là một vấn đề được quan tâm. Đây cũng là một trong
những nội dung quan trọng trong định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ
thống pháp luật TTHS ở nước ta hiện nay.Pháp luật TTHS, trong đó quy định
quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong những công cụ pháp lý quan trọng để
bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại.
Ngoài ra xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là nguyên tắc : " Bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự " ( Điều 3 BLTTHS); nguyên
tăc " Tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân " ( Điều 4 BLTTHS );
nguyên tắc " Bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công
dân " ( Điều 7 BLTTHS )... quy định quyền và nghĩa vụ của người bị hại là sự cụ
thể hóa nguyên tắc trên.
Quy định quyền và nghĩa vụ của người bị hại còn xuất phát từ những quan hệ
giữa người bị hại với người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, mối quan hệ
giữa người bị hại và người phạm tội.
b. Cơ sở thực tiến
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe,danh dự, nhân phẩm và tài sản của người bị hại. Do đó, Nhà nước cần
phải có những biện pháp cụ thể để bảo vệ người bị hại, khôi phục trạng thái ban
đầu và kịp thời khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra đối với họ. Bên cạnh đó thì
" Người bị hại là người biết được các tình tiết của vụ án nên họ cũng phải có
nhiệm vụ trong việc giúp đỡ cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật kết quả ".
Quy định quyền và nghĩa vụ của người bị hại xuất phát từ quyền và lợi ích của

người bị hại. Trên thực tế , có nhiều lý do khác nhau mà quyền và lợi ích hợp pháp
2


của người bị hại chưa được bảo vệ tốt và kịp thời, trong quá trình giải quyết vụ án
dường như cơ quan có thẩm quyền chưa xem người bị hại như một bên của quá
trinhg tố tụng để có sự quan tâm cần thiết. Dẫn đến thực như trên là bắt nguồn từ
nhận thức thế nào là người bị hại, phạm vi người bị hại, thời điểm xuất hiện người
bị hại, quy định cũng như thực tiễn áp dụng đối với người bị hại... chưa có sự
thống nhất trong nhận thức cũng như hành động.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1. Quyền của người bị hại
Người bị hại là người bị trực tiếp tội phạm xâm hại về thể chất và tinh thần tài
sản đồng thời cũng là người có quyền yêu cầu bồi thường. Vì vậy, họ có thể đưa
ra được nhiều chứng cứ. Do đó, pháp luật quy định người bị hại có các quyền về tố
tụng tương đối rộng để đảm bảo cho họ bảo vệ được những lợi ích của mình trong
tố tụng và đấu tranh phòng chống tội phạm. Các quyền đó là :
a.Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Tại điểm a khoản 2 Điều 51 BLTTHS 2003 quy định : người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của họ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Những tài liệu,
đồ vật này có liên quan chặt chẽ đến vụ án, đến vụ việc giải quyết vụ án. Người bị
hại trong nhiều trường hợp là người chứng kiến vụ việc xảy ra, biết các tình tiết
liên quan đến hành vi phạm tội; cho nên những tài liệu, đồ vật mà người bị hại đưa
ra thường có độ chính xác, có ích cho quá trình giải quyết vụ án.Người bị hại là
người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần do hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, vì
thế những tài liệu, đồ vật mà người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ
đưa ra thường là để chứng minh hành vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại mà
họ gánh chịu do hành vi phạm tội gây ra.
Người bị hại có thể đưa ra các yêu cầu trong các giai đoạn tố tụng khác nhau :

yêu cầu cơ quan điều tra thu thập thêm chứng cứ để định tội, yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng, yêu cầu giám định hoặc giám định lại nếu có căn cứ cho
rằng kết quả giám định trước không đúng sự thật, yêu cầu khởi tố vụ án trong một
3


số trường hợp, rút đơn yêu cầu khởi tố...Người bị hại phải xác định tính hợp lý và
quan trọng nhằm mục đích trừng trị người phạm tội, góp phần giải quyết nhanh
chóng và chính xác vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình để đưa ra
những tài liệu, đồ vật, yêu cầu, Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền
được ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bị hại.
b. Được thông báo về kết quả điều tra
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần do hành vi phạm tội trực
tiếp xâm hại, là người chịu thiệt hại trong vụ án hình sự.Do vậy, pháp luật quy
định người bị hại được thông báo kết quả điều tra vụ án.
Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ được thông báo kết quả điều
tra vụ án để họ biết những vấn đề thuộc nội dung vụ án. Trên cơ sở đó để người bị
hại chuẩn bị chứng cứ, lý lẽ hoặc yêu cầu để buộc tội bị cáo hoặc để chứng minh
những thiệt hại mà bị can gây ra cho mình. Biết được kết quả điều tra là một trong
những điều kiện để người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ chuẩn bị
chứng cứ, lý lẽ yêu cầu để buộc tội bị cáo, bị can chứng minh những hành vi phạm
tội gây ra cho họ
Việc thông báo kết quả điều tra cho người bị hại và người đại diện hợp pháp của
họ được thực hiện bằng hình thức văn bản. Quyền này của người bị hại còn được
BLTTHS năm 2003 ghi nhận trong Điều 12 về trách nhiệm của cơ quan tiến hành
tố tụng : " Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu
trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình ". Như vậy, để bảo đảm quyền
này của người bị hại, co quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ thông báo kết quả điều
tra cho người bị hại và đại diện hợp pháp của họ.

c. Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003
Người bị hại có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng trong các
trường hợp quy định tại Điều 42 BLTTHS năm 2003 :

4


Thứ nhất, những người này đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp
pháp, người thân thích của những người đó hoặc bị can, bị cáo.
Thứ hai, những người này tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch vụ án đó.
Thứ ba, có căn cứ cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Quyền này còn được ghi nhận tại khoản 2 Điều 43 BLTTHS 2003 quy định về
những người có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng : " Bị can, bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người dại diện hợp
pháp của họ ".
Đối với Điều tra viên thì do Thủ trưởng cơ quan điều tra quyết định, nếu Điều
tra viên là Thủ trưởng cơ quan điều tra thì do cơ quan cấp trên trực tiếp tiến hành (
khoản 2 Điều 44 BLTTHS 2003 ); thay đổi Kiểm sát viên trước khi mở phiên toa
do Viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp quyết định, nếu Kiểm sát viên là Viện
trưởng viện kiểm sát thì do Viện trưởng viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định
...Quy định như vậy như vậy đảm bảo sự vô tư, khách quan của những người này
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là một trong những điều kiện cần thiết để
việc giả quyết vụ án đúng đắn khách quan, chính xác bảo vệ quyền và lợi ích của
người bị hại.
d. Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường
Cơ chế bồi thường thiệt hại giữa người bị hại và bị can, bị cáo được áp dụng
phổ biến ở các nước. Ở đó Nhà nước cho phép người phạm tội được phép thỏa

thuận với người bị hại về bồi thường thiệt hại. Hay nói cách khác là người bị hại
có quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại. Pháp luật quy định như vậy là xuất
phát từ nguyên nhân : người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần do tội
phạm trực tiếp xâm hại. Thiệt hại của người bị hại là đối tượng tác động của tội
phạm tức mà mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho
người bị hại.Người bị hại rất quan tâm đến quyền lợi của họ được giải quyết như

5


thế nào, họ có quyền đề nghị mức bồi thường cho thỏa đáng đối với thiệt hại về
thể chất, tinh thần do hành vi phạm tội xâm hại.
Bên cạnh quyền được đề nghị mức bồi thường thì người bị hại còn có quyền đề
nghị cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp bảo đảm bồi thường như : kê
biên tài sản, phong tỏa tài sản, tạm giữ tài sản và các biện pháp khác, việc gải
quyết do tội phạm gây ra đối với người bị hại nhất thiết phải trong vụ án hình
sự.Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp thực hiện
quyền và nghĩa vụ của người bị hại. Người đại diện thay mặt người bị hại thực
hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ.
e. Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
Người bị hại có quyền thamm gia phiên tòa để thực hiện quyền của mình. Tại
phiên tòa họ có thể đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch, đưa ra tài liệu đồ vật, yêu cầu, được trình bày ý kiến tại phiên
tòa. Để bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền tham gia tại
phiên tòa của người bị hại, pháp luật TTHS quy định về vị trí bình đẳng của người
bị hại tại phiên tòa tại Điều 19 : " Người bị hại có quyền bình đẳng trong việc đưa
ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước phiên
tòa. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ được thực hiện quyền đó làm rõ
sự thật khách quan của vụ án ".
f. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng,kháng cáo bản án, quyết định của tòa án về phần bồi
thường cũng như hình phạt đối với bị cáo
Phần khiếu nại : Theo đó người bị hại có quyền khiếu nại đối với quyết định tố
tụng hoặc hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Thời hiệu khiếu nại đối với hành vi, quyết định mà người bị hại cho là vi phạm
là 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng đó. Trong
một số trở ngại khách quan mà người bị hại không thục hiện được quyền khiếu nại
theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không được tính vào thời hiệu
khiếu nại.
6


Phần kháng cáo : Phạm vi thực hiện quyền kháng cáo của người bị hại được
quy định rõ ràng tại điểm e khoản 2 Điều 51 BLTTHS : Người bị hại có quyền
kháng cáo bản án, quyết định của tòa án về phần bồi thường cũng như về hình
phạt đới bị cáo. BLTTHS quy định chỉ cho phép người bị hại kháng cáo trong
phạm vi phần bồi thường và phần hình phạt những phần khác trong bản án như : "
phần dân sự cúng như vấn đề liên quan đến tội danh, đến khung hình phạt...nếu
không đồng tình với bản án và quyết định của tòa án thì người bị hại không có
quyền kháng cáo ".
Trong khi đó tại Điều 231 BLTTHS 2003 quy định : " Bị cáo, người bị hại,
người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án , quyết định sơ thẩm
''. Như vậy theo quy định này thì người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án
hoặc quyết định sơ thẩm. Điều luật này không thể hiện bất cứ sự giới hạn nào, mâu
thuẫn với quy định tại điểm e khoản 2 Điều 51 chỉ giới hạn trong phần bồi thường
thiệt hại và phần hình phạt. Vấn đề đặt ra khi gặp trường hợp như vậy thì cơ quan
có thẩm quyền giải quyết như thế nào ?.
Người bị hại có thể tiến hành kháng cáo bản án, quyết định của tòa án theo trình
tự thủ tục quy định tại chương XXIII : Tính chất xét xử phuc thẩm và quyền kháng
cáo, kháng nghị.

g. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại tại
Điều 105 BLTTHS năm 2003 thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa
Theo khoản 3 Điều 51 BLTTHS 2003 quy định :" Trong trường hợp vụ án được
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại được quy định tại Điều 105 Bộ luật này thì
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên
tòa ". Thực tế cho thấy, mặc dù bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng
người bị hại không muốn đem ra xử lý vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh
dự, tương lai của họ, cũng như trường hợp người bị hại và người phạm tội có mối
quan hệ đặc biệt. Để người bi hại bảo vệ các nội dung đã yêu cầu khởi tố tại khoản
3 Điều 51, BLTTHS còn quy định người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của
7


họ được trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Ngoài ra, người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền rút đơn yêu cầu khởi tố, thời điểm rút yêu cầu khởi
tố là trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm. Trường hợp rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án
đươc xác định là tự nguyện, không bị ép buộc hay cưỡng bức thì cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Cò trường hợp có căn cứ xác
định người yêu cầu khởi tố rút đơn yêu cầu khởi tố trái với ý muốn do bị ép buộc,
cưỡng bức thì cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành giải quyết vụ án.
2. Nghĩa vụ của người bị hại
a. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án.
Người bị hại phải có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình tạo điều kiện thuận lợi giải quyết vụ án. Đây là
quyền vừa là nghĩa vụ của người bị hại. Việc có mặt theo giấy triệu tập của cơ
quan tiến hành tố sẽ đảm bảo người bị hại theo sát vụ án, nắm rõ tình hình vụ án,
đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Người bị hại là người bị
tội phạm trực tiếp xâm hại, là người biết rõ các tình tiết liên quan đến vụ án nên cơ

quan tiến hành tố tụng triệu tập họ nhằm mục đích giải quyết vụ án, là cơ sở để
người bị hại thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của họ. thực tiễn cho thấy, có rất
nhiều trường hợp , người bị hại không hợp tác với Cơ quan điều tra để vụ án bế
tắc, người phạm tội mặc dù phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng mà không bị
xử lý.Nghĩa vụ này của người bị hại còn được quy định tại Điều 115, 183BLTTHS
năm 2003. Ngoài ra, trường hợp người bị hại vắng mặt, BLTTHS còn quy định
nếu sự vắng mặt của người bị hại, tùy từng trường hợp Hội đồng xét xử quyết định
hoãn phiên tòa, hoặc tiếp tục xét xử. Quy định này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại, giải quyết nhanh chóng vụ án, chính xấc hơn.
b. Nghĩa vụ khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho việc làm
sãng tỏ sự thật của vụ án.
Người bị hại là người trực tiếp bị tộ phạm xâm hại là đối tượng được luật hình
sự bảo vệ. Do đó, người bị hại là người biết khá nhiều tình tiết liên quan đến vụ
8


án, những tài liệu, đồ vật mà người bị hại cung cấp cho Cơ quan tiến hành tố tụng
giúp một phần không nhỏ vào quá trình giải quyết vụ án. Đây là quyền và nghĩa vụ
của người bị hại, thực hiện tốt nghĩa vụ này cũng là cơ sở cho quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị hại được đảm bảo. Như vậy, có thể cho rằng quyền và nghĩa vụ
của người bị hại có mối quan hệ gắn bó với nhau. Người bị hại thực hiện nghiêm
chỉnh các nghĩa vụ cảu mình cũng là điều kiện để đảm bảo ccho quyền và lợi ích
hợp pháp của họ được thực hiện triệt để.
Người bị hại có vai trò quan trọng trong việc điều tra, truy tố, xét xử bởi họ là
người trực tiếp bị tội phạm xâm hại nên lời khai và sự có mặt cảu họ khi cơ quan
tiến hành tố tụng yêu cầu là vô cùng quan trọng. Trong trường hợp người bị hại
hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng thì việc giả quyết vụ án được tiến hành thuận
lợi và ngược lại.
Người bị hại có nghĩa vụ khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho
việc làm sáng tỏ sự thât của vụ án. Việc giả quyết đúng đăn không chỉ đảm bảo vệ

lợi ích của Nhà nước mà còn bảo vệ lợi ích của người bị hại nên người bị hại
thường tích cực chủ động khai báo. Việc từ chối khai báo không có lý do chính
đáng gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, có thể bị coi là tội phạm và phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS.
III.THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI VÀ MỘT SÓ
KIẾN NGHỊ.
1.Thực tiến áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp
lý của người bị hại
a.Những kết quả đạt được
BLTTHS năm 2003 đã có hiệu lực trong nhiều năm qua, những quy định mới
của Bộ luật về người bị hại nhiều có hiệu quả trên thực tế.Người bị hại đã có cơ sở
pháp lý để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình một cách hợp pháp, góp
phần vào quá trình giải quyết vụ án, trừng trị kẻ phạm tội.

9


Trong những năm qua, thực tiến thi hành các quy định của pháp luật TTHS về
địa vị pháp lý của người bị hại đã đạt được những thành tựu nhất định.Người bị
hại ngày càng hiểu được vị trí, vai trò của mình trong quá trình giả quyết vụ án.
Họ đã thực hiện quá đầy đủ nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia hoạt động
tố tụng,có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án;
tích cực khai báo những tình tiết liên quan đến vụ án mà người bị hại biết. Thực
hiện tốt nghĩa vụ chính là điều kiện đảm bảo cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
người bị hại được thực hiện. Bên cạnh đó, phải kể đến vai trò của cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người bị hại thục hiện tốt
quyền và nghĩa vụ của mình. Để công tác đấu trnh phòng chống tội phạm đạt hiệu
quả thì phải chú trọng sự hợp tác giữa nhận dân nói chung và người bị hại nói
riêng với cơ quan tiến hành tố tụng. " Trên thế giới, tỷ lệ tố giác tội phạm là 49,9%

".Ở Việt Nam,theo báo cáo tổng kết của nghành Kiểm sát nhân dân năm 2005, Cơ
qun điều tra của Viện kiểm sát nhân tối cao đã tiếp thu 468 đơn và tố giác, tin báo
về tội phạm, Tăng 6% so với năm 2004. Điều đó cho thấy sự hợp tác ngày càng
tích cực giữa người bị hại nói riêng và quàn chúng nhân dân nói chung với cơ
quan bảo vệ pháp luật. Lời khai của người bị hại giúp cho việc xác định mối quan
hệ giữa người bị hại và người phạm tội , từ đó có thể xác định người phạm tội.Sự
hợp tác tích cực của người bị hại sẽ là nguồn cung cấp thông tin hữu hiệu cho cơ
quan tiến hành tố tụng gải quyết vụ án. Tuy nhiên , " Hiện nay h,ở nước ta,sự tích
của hợp tác của người bị hại với cơ quan bảo vệ pháp luật chưa nhiều và chưa
nhiệt tình. Một khảo sát đối với 4.600 hộ đại diện cho 20.000 người ở một số
phường Hà Nội, Hải Hưng cho thấy có 55,8% các vụ án xảy ra nhưng không báo
cho cơ quan công an ".Có nhiều lý do của việc thiếu tích cực hợp tác của người bị
hại như họ sợ thủ tục phiền hà, ngại tiếp xác với cơ quan công an, sợ mất thời
gian, không tin tưởng ở các cơ quan bảo vệ pháp luật, sợ bị trả thù .
Thực tiễn thi hành những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
người bị hại đã phản ánh kết quả đạt được.Có thể nói, quy định của pháp luật về
địa vị pháp lý đã phát huy hiệu quả, bảo đảm quyền và lợi ích của người bị hại
10


được thực hiện, góp phần không nhỏ vào quá trình giải quyết vị án, nâng cao pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
b.Những tồn tại, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả đạt được, quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị
hại cũng bộc lộ nhiều điểm thiếu sót,hạn chế, tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập khi
áp dụng. Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
người bị hại thể hiện một số vướng mắc, tồn tại sau :
Thứ nhất, trên thực tế do nhận thức không đầy đủ và chính xác dẫn tới việc áp
dụng các quy định của BLTTHS của người bị hị còn nhiều vi phạm, quyền của
người bị hại trong TTHS còn bị hạn chế; mà họ là chủ thể tham gia tố tụng quan

trọng, đặc biệt là trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Một trong những vấn đề
nổi lên đó là sự đảm bảo quyền buộc tội của người bị hại tại phiên tòa trong vụa án
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.
Khác với người bị hại thông thường ,người bị hại có yêu cầu khởi tố vị án hình
sự được pháp luật quy định một quyền riêng đó là trình bày lời buộc tội tại phiên
tòa. Tuy nhiên, do quy định không cụ thể nên người tiến hành tố tụng có nhận thức
không thống nhất. BLTTHS năm 2003 có quy định về nội dung tại khoản 3 Điều
51 nhưng không quy định rõ ràng quyền hay nghĩa vụ của người bị hại, cách quy
định như vậy dễ bị nhầm lẫn, người thì cho rằng đó là quyền nhưng có người thì
cho rằng đó là nghĩa vụ, dẫn tới việc thực hiện không thống nhất.Trên thực tế, việc
thực hiện quyền này từ trước tới nay chưa được triệt để do thiếu sót của nhà làm
luật, chỉ có quy định quyền tại phần chung mà không quy định cụ thể thủ tục, trình
tự để thực hiện quyền đó trong hoạt động tố tụng cụ thể.Do xuất hiện nhiều
nguyên nhân, mà trước hết là từ các cơ quan tiến hành tố tụng đã không thực hiện
quy định của pháp luật về người bị hại trình bày lời buộc tội tại phiện tòa. Nguyên
nhân nữa là do quy định của pháp luật TTHS không đầy đủ, thiếu hướng dẫn thi
hành cần thiết, dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng. Ngoài ra, không thể không kế
đến do trình độ nhận thức của người dân còn kém, không biết và thực hiện không
được nhũng quy định của pháp luật.
11


Thứ hai, BLTTHS năm 2003 quy định nạn nhân chỉ được tham gia tố tụng với
tư cách là người bị hại khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Mặc dù
BLTTHS năm 2003 đã quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Tuy nhiên, việc áp dụng những sai phạm khác và tùy biến ở các địa phương. Luật
không quy định rõ người bị hị được thma hoạt động tố tụng ở giai đoạn, trình tự,
thủ tục nào ?.Việc cơ quan tiến hành tố tụng phải gửi giấy triệu tập ra sao...Với
quy định còn bất cập như vậy, dẫn đến việc áp dụng thực tế còn gặp nhiều khó
khăn, cách hiểu về quy định pháp luật cũng khác nhau, không có sự thống

nhất.Thực tế việc triệu tập người bị hại được cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
bằng cách gửi giấy triệu tập theo đường bưu điện hay thông qua Ủy bân nhân xã
nơi người bị hại cư trú.Tuy nhiên, trên thực tế,có trường hợp cơ quan tiến hành tố
tụng gửi giấy triệu tập nhiều lần mà người bị hại không có mặt, trường hợp cố tình
vắng mặt. Sự vắng mặt của người bị hại gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ
án.Cơ quan điều tra không lấy được lời khai của người bị hại, gây khó khăn cho
việc xác định sự thật của vụ án. Nhiều trường hợp sụ vắng mặt của người bị hại
dẫn đến hoãn phiên tòa.BLTTHS hiện nay chưa có quy định xử lý người bị hại
trong trường hợp cố tình vắng mặt.
Thứ ba, pháp luật TTHS quy định chưa xác định người đại diện hợp pháp trong
trường hợp người bị hại chết hoặc người bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Trong thực tế, có trường hợp đã xác định
không đúng người đại diện hợp pháp của người bị hại.Trường hợp nhiều người
cùng là người đại diện hợp pháp cua người bị hại mà quyền và nghĩa vụ của họ lại
không thống nhất với nhau thì việc xác định người đại diện hợp pháp và để họ
tham gia TTHS ra sao cũng là vấn đề đang được đặt ra hiện nay.
Thứ tư, pháp luật quy định phạm vi thực hiện quyền kháng cáo của người bị hại
tại điểm e khoản 2 Điều 51 : chỉ được kháng cáo về phần bồi thường cũng như
hình phạt đối với bị cáo nếu không đông tình với bản án và quyết định của tòa án.
Trong khi đó Điều 231 BLTTHS lại quy định : " Người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của họ đều có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định của tòa án
12


".Như vậy, theo quy định của điều này thì người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ
bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Điều luật không thể hiện bất cứ sự giới hạn nào
như tinh thần của Điều 51 BLTTHS. Như vậy, phải chăng nội dung của hai điều
luật này mâu thuẫn nhau và khi gặp trường hợp trên Tòa án giải quyết như thế
nào ? Cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền hướng
dẫn áp dụng hai điều luật trên, vì vậy mỗi nơi áp dụng một kiểu riêng của mình.

Để khắc phục những hạn chế trên thì cần có sự thống nhất trong quy định của pháp
luật.
Thứ năm, thực tiễn cho thấy, rất nhiều trường hợp người bị hại không hợp tác
với người tiến hành tố tụng dẫn đến bế tắc, người phạm tội mặc dù phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng nhưng không bị xử lý. Điều đó không chỉ dẫn
đến mất trật tự an toàn xa hội mà còn tạo ra sự coi thường kỷ cương pháp luật, làm
gia tăng số lượng tội phạm trong xã hội. Sự không hợp tác của người bị hại còn
gây nhiều khó khăn cho cơ cơ quan có thẩm quyền trong qua trình giải quyết vụ án
khi cơ quan này nhận được thông tin về vụ án qua cac nguông tin khác.
Trên đây là một trong những rất ít tồn tại, bất cập trong thực tế áp dụng pháp
luật TTHS đối với người bị hại trong các vụ án hình sự hiện nay.
2. Một số kiến nghị
a.Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
Từ khi ban hành đến nay, BLTTHS năm 2003 đã bộc lộ nhiều điểm còn hạn
chế, trong đó có những quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại nên chúng
tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp như sau :
- Sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 51 : Khoản 3 Điều 51 BLTTHS năm 2003
quy định trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị
hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên
tòa. Đây là một quy định phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích của ngườ bị hại trong
trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, trong thực tế quy
định khi được đem ra thi hành không phát huy được hiệu quả. BLTTHS năm 2003
không quy định rõ ràng trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người
13


bị hại và người đại diện hợp pháp là quyền hay nghĩa vụ của họ.Do đó, theo ý kiến
của chúng tôi cần bổ sung thêm quy định tại khoản 3 Điều 51 BLTTHS năm 2003
theo hướng cụ thể việc trình bày buộc tội tại phiên tòa là quyền của người bị hại,
cụ thể nên sửa đổi đoạn này như sau : trong trường hợp vụ án khởi tố theo yêu

cầu người bị hại quy định tạ Điều 105 Bộ luật này người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền trình bày lời buộc tội .
- Sửa đổi quy định tại Điều 105 BLTTHS về khởi tố vụ án theo yêu cầu
người bị hại : Pháp luật hiện hành chỉ quy định cho người bị hại rút đơn yêu cầu
trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Quy định này nhều lúc không phù hợp vì trên
thực tế áp dụng chế định này cho thấy có những vụ án cho đến khi xét xử, qua
diễn biến tại phiên tòa giữa người bị hại và bị cáo mới tìm thấy sự cảm thông thực
sự, muốn dàn xếp theo thỏa thuận giữa các bên, lúc này người bị hại muốn rút đơn
yêu cầu thì theo quy định của pháp luật là không được, vụ án vẫn phải được xét
xử. Cho nên mục đích của một số vụ án vẫn chưa đạt được, vụ án đã được xét xử
nhưng người dân không thỏa mãn.Bên cạnh đó việc người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ rút đơn yêu cầu khởi tố tại phiên tòa thì chưa có quy định xử
lý như thế nào. Do vậy trong thực tế khi có trường hợp người bị hại rút đơn yêu
cầu khởi tố ngay tại phiên tào đã gây sự lúng túng cho cơ quan tiến hành tố
tụng,đồng thời cũng khiến việc áp dụng tại các địa phương không thống nhất. Do
đó, chúng tôi đề nghị nên quy định hướng giải quyết khi người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của họ rút đơn yêu cầu tại phiên tòa như sau : khi người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa
thì hội đồng xét xử vẫn tiếp tục tiến hành xét xử và kết luận bị cáo phạm tội nhưng
có thể miễn hình phạt nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ; phạt cảnh cáo.cải tạo
không giam giữ nếu tội đó có quy định loại hình phạt này hoặc bị cáo hưởng án
treo nếu đủ điều kiện.
- Bổ sung quy định rằng buộc trách nhiệm pháp lý với người bị hại : Trong
vụ án hình sự, cùng với người phạm tội, người bị hại và người có liên quan trực
tiếp đến vụ án,là đối tượng tác động của tội phạm. Hơn ai hết, người bị hại là
14


người biết rõ các tình tiết xảy ra của vụ án.Nhiều trường hợp người bị hại biết rất
rõ người phạm tội nhưng không tố giác tội phạm vì nhiều lý do khác nhau như sợ

mất thời gian, sợ phiền hà, sợ bị trả thù...Sự không tố giác này đã làm cho một số
lượng lớn vụ án hình sự không được khởi tố, một số lượng lớn tội phạm không
được phát hiện, không bị xử lý.Do vậy, để hạn chế thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm,
tháo gỡ vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án, cần rằng buộc trách nhiệm
pháp lý với người bị hại, buộc họ phải hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng, nhất
là trong việc giám định thườn tích. Vì vậy, cần sủa đổi Điều 51 BLTTHS năm
2003 như sau : Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều
tra,Viện kiểm sát, Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng
và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì họ có thể
bị dẫn giải; nếu từ trối khai báo mà không có lý do thì có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự theo Điêu 308 Bộ luật hình sự 1999. Ngoài những kiến nghị trên
chúng ta cần phải : Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật; nâng cao
trình độ pháp luật, nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng; Thống kê,tổng hợp số
liệu về người bị hại để giúp cơ quan tiến hành tố tụng rút ra kinh nghiệm để sử lý
tốt hon các vụ án có người bị hại,từ đấy có biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích
của người bị hại nói riêng và người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nói
chung; Giáo dục ý thức pháp luật là việc làm không thể thiếu.

III. KẾT LUẬN
Qua những phân tích thì vì nhiều lý do khác nhau mà quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị hại chưa được bảo vệ tốt và kịp thời; trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự dường như cơ quan có thẩm quyền chưa xem người bị hại như một bên
của quá trình tố tụng để có sự quan tâm cần thiết. Vì vậy cần sửa đổi bổ sung một
số điều luật nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người bị hại, đó là một trong
những nội dung quan trọng trong định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ
thống pháp luật TTHS ở nước ta hiện nay.

15




×