Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài tập nhóm số 1 luật ngân hàng tìm hiểu cơ sở pháp lí, vai trò của ngân hàng nhà nước trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và đưa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.61 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự hình thành và phát
triển của thị trường tài chính cũng đặc biệt quan trọng. Sự phát triển năng động
với tốc độ cao của kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhu cầu thường xuyên và to
lớn về nguồn tài chính để đầu tư và tạo lập vốn kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của xã hội. Là một bộ phận của thị trường tài chính, thị trường tiền tệ
rất đáng được quan tâm, với sự tham gia của nhiều chủ thể với những mục đích
khác nhau : chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể kiểm soát hoạt động của
thị trường. Trong đó ngân hàng nhà nước là chủ thể quan trọng trong thị trường
tiền tệ. Ngân hàng nhà nước cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh
toán cần thiết để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế, điều tiết thị trường tiền tệ,
giám sát hoạt động của các ngân hàng. Nắm bắt được tầm quan trọng về vai trò
của ngân hàng nhà nước, chúng em xin chọn đề tài “ Tìm hiểu cơ sở pháp lí, vai
trò của ngân hàng nhà nước trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội và đưa ra ý kiến pháp lí dựa trên thực trạng phát triển kinh tế xã hội năm
2013” . Đây là đề tài có tính chất rộng lớn, với kiến thức hạn hẹp chắc chắn
chúng em không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý quý
báu từ phía các thấy cô. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I.

CƠ SỞ PHÁP LÍ ĐỂ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN KẾ

HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI.
Ngân hàng Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc giúp quốc gia thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Để nhận thấy được vai trò đó chúng ta cần

1


phải có cơ sở để nhận ra rằng Nhà nước đã trao quyền đó cho Ngân hàng Nhà


nước.
Trên cơ sở vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước ta thấy được quy định rõ
tại Khoản 1; 2 Điều 2 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010:
“1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ
quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước,
có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.”
Với tư cách là một pháp nhân và thuộc sở hữu Nhà nước nên Ngân hàng Nhà
nước cũng có vị trí trong cấu trúc tổ chức hệ thống Nhà nước cũng rất khác biệt
so với các tổ chức doanh nghiệp khác, vừa là một cơ quan quản lý hành chính
nhà nước ngang Bộ vừa là Ngân hàng Trung ương quốc gia. Ngân hàng nhà
nước thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước thành lập theo Sắc lệnh số 15/SL
ngày 6/5/1951 của Chủ tịch nước. Pháp luật đã quy định cho Ngân hàng Nhà
nước có những quyền hạn và nhiệm vụ để có thể thực hiện kế hoạch kinh tế - xã
hội của đất nước, căn cứ pháp lý cụ thể tại Khoản 3 Điều 2 Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam năm 2010 “Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và
ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền,
ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ”;
và cụ thể những quyền hạn và nhiệm vụ để có thể thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế tại Khoản 4 luật này:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ. Dấu
hiệu này cho thấy vị trí của Ngân hàng Nhà nước có chức năng quản lý hành
2


chính nhà nước về một lĩnh vực chuyên ngành giống như nhiều Bộ khác. Với tư
cách là cơ quan ngang Bộ, Ngân hàng Nhà nước được trao thẩm quyền riêng để
thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước riêng về lĩnh vực tiền tệ và

hoạt động ngân hàng trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ quốc gia:
- Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước;
- Xây dựng dự cán chính sách tiền tệ quôc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc
hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; xây dựng chiến lược phát
triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng;
- Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động
ngân hang; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng theo thẩm quyền;
- Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ
trường hợp do Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân
hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận chia, tách hợp nhất,
sáp nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật;
-

Kiếm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng; xử lí các vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền;
- Quản lí việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của
Chính phủ;
- Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện các cân thanh toán quốc tế;
- Quản lí hoạt động ngoại hối và quản lí hoạt động kinh doanh vàng;

3


- Kí kết, tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy
định của pháp luật;
- Đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ
và ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Chính phủ ủy

quyền;
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa
học công nghệ ngân hàng.
Tuy nhiên nếu hiểu rằng vị trí pháp lí của Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn
giống như các cơ quan quản lí hành chính chuyên ngành cấp Bộ khác thì cũng
không chính xác. Bởi lẽ, Ngân hàng Nhà nước còn có tư cách là Ngân hàng
Trung ương, ta thấy không một Bộ hay cơ quan ngang Bộ nào khác có tư cách
giống như vậy cả.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước với tư cách là Ngân hàng Trung ương của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nắm trong tay quyền hạn của Ngân hàng
Trung ương, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất có quyền thực hiện
nghiệp vụ ngân hàng trên toàn lãnh thổ quốc gia trong từng thời kì cho phù hợp
với những yêu cầu khách quan của đời sống kinh tế - xã hội:
- Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát hành,
thu hồi, thay thế và tiêu hủy tiền;
- Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh
toán cho nền kinh tế;
- Điều hành thị trường tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thị trường mở;
- Kiểm soát dự trữ quốc tế; quản lí dự trữ ngoại hối nhà nước;
4


- Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng, làm dịch vụ thanh toán, quản lí
các phương tiện thanh toán;
- Làm đại lí và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc nhà nước;
- Tổ chức hệ thống thông tin và làm các dịch vụ thông tin ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng Nhà nước còn phải thực hiện các nhiệm vụ và quyền
hạn khác khi tình hình kinh tế - xã hội có sự thay đổi để kịp thời định hướng và
ổn định kinh tế- xã hội.
Như vậy, Ngân hàng Nhà nước vừa có tư cách pháp lí của Ngân hàng Trung

ương lại vừa có tư cách pháp lí của cơ quan quản lí hành chính chuyên ngành
cấp Bộ. Việc pháp luật quy định như vậy một mặt thể hiện tầm quan trọng và vị
trí quan trọng nhất của Ngân hàng Nhà nước trong hệ thống các Ngân hàng, mặt
khác lại thể hiện cơ cấu tổ chức thuốc Chính phủ có quyền lực Nhà nước đảm
bảo cho việc thực hiện hiệu quả các nghiệp vụ ngân hàng của mình; như vậy việc
quản lý và điều tiết hoạt động ngân hàng sẽ trở nên dễ dàng hơn, đảm bảo tính
thực thi hơn.
II.

VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC
HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI

1. Ảnh hưởng cung ứng tiền đến nền kinh tế
Mọi họat động của ngân hàng đều ảnh hưởng mật thiết đến cung ứng tiền
trong nền kinh tế. Cung ứng tiền thay đổi làm biến động giá cả, sản lượng quốc
gia, do đó một cách gián tiếp mọi họat động ngân hàng ảnh hưởng sâu sắc đến
nền kinh tế.
Sự khác biệt trong chính sách cung ứng tiền là khoảng cách giữa chính sách
cung ứng nới lỏng và chính sách cung ứng thắt chặt.
5


Chính sách cung ứng tiền nới lỏng làm cho tiền tệ trở nên dồi dào hơn. Điều
này kích thích tiêu dùng cho cuộc sống và cho đầu tư nhiều hơn. Sự gia tăng tiêu
dùng và đầu tư làm sản xuất liên tục được mở rộng, tuyển mộ thêm công nhân,
giảm thất nghiệp và gia tăng thu nhập quốc dân. Nền kinh tế tăng trưởng với giá
cả tăng cao hơn trước.
Chính sách cung ứng tiền thắt chặt làm cho chi phí để có tiền cao hơn và
tiền trở nên khan hiếm. Sản xuất thiếu vốn, người mua thiếu tiền buộc phải cắt
giảm chi tiêu và đầu tư, điều này dẫn đến tổng cầu giảm và giá cả hạ. Cái giá

phải trả là sản xuất bị thu hẹp, thất nghiệp tăng, thu nhập quốc dân giảm và nền
kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái.
Do đó cung ứng tiền là sức mạnh đầy quyền lực của ngân hàng nhà nước.
Khi ngân hàng nhà nước điều tiết cung ứng tiền tức là nó bắt đầu tiến hành điều
tiết nền kinh tế.
2. Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
Khoản 1 điều 3 Luật NHNNVN quy định: “Chính sách tiền tệ quốc gia là
các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu
lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề
ra.một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định
giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội,
đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”
Có thể hiểu rằng, Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước do ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi thông qua
các công cụ biện pháp của mình nhằm đặt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền,
6


tạo công ăn việc làm, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
Tùy điều kiện các nước mà chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai
hướng: chínhsách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản
xuất kinh doanh) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất
làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh)
Ngân hàng trung ương tham gia thị trường tiền tệ với vai trò điều tiết, quản
lý thị trường, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, đảm bảo thị trường tiền tệ
hoạt động theo đúng mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các
công cụ quản lý tiền tệ như:
+


Nghiệp vụ thị trường mở

+

Lãi suất

+

Dự trữ bắt buộc

+

Tỉ giá hối đoái

+

Tái cấp vốn.
3. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
a. Lãi suất
Lãi suất là tỉ lệ phần trăm giữa khoản tiền người đi vay trả cho người cho

vay trên tiền vốn trong một khoảng thời gian nhất định như 1 tháng, 1 năm.
Ngân hàng trung ương với vai trò của mình đưa ra một khung lãi suất hay
ấn định một trần lãi suất cho vay để hướng các ngân hàng thương mại điều chỉnh
lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới quy mô tín dụng của nền kinh tế và
ngân hàng trung ương có thể đạt được quản lí mức cung tiền của mình.

7



Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm của ngân hàng nhà
nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của các ngân hàng
thương mại làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo. Bằng công cụ này giúp
cho ngân hàng trung ương thực hiện quản lí lượng tiền cung ứng theo mục tiêu
của từng thời kì.
b. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền dự trữ mà các ngân hàng bắt buộc phải giữ lại do
theo quy định của ngân hàng trung ương, gửi lại ngân hàng trung ương, không
hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo
một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng
thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Dự trữ bắt buộc là công cụ mang nặng tính quản lí Nhà nước, giúp ngân
hàng trung ương chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động
của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đôi một lượng nhỏ tỉ lệ dữ trữ bắt buộc là ảnh
hưởng rất lớn tới mức cung tiền).
c. Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở là nhưng hoạt động mua bán chứng khoán do ngân
hàng trung ương thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua
đó điều tiết lượng tiền cung ứng.
Khi ngân hàng trung ương mua (bán) chứng khoán sẽ làm cho cơ số tiền tệ
tăng (giảm) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi). Nếu thị trường mở chỉ
gồm ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại thì hoạt động này sẽ
làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại, nếu bao gồm cả
công chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông.
8


Chính vì vận dụng tính linh hoạt của thị trường mà đây được coi là công cụ
năng động, hiệu quả, chính xác của chính sách tiền tệ (vì khối lượng chứng
khoán mua (bán) tỉ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém

về chi phí, dễ đảo ngược tình thế).
d. Tỉ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối quan hệ về mặt giá trị giữa hai loại
đồng tiền. Nói cách khác, tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này
được biểu hiện bằng một số lượng đơn vị tiền tệ của nước khác.
Sự biến động của tỉ giá hối đoái có tác động rất lớn đến mọi mặt của hoạt
động kinh tế từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dung
trong nước qua biển đổi giá cả hàng hóa. Do vậy, tỉ giá hối đoái là một công cụ
để NHTW thực thi chính sách tiền tệ của mình. Khi vận hành tỷ giá hối đoái,
NHTW có thể ấn định tỷ giá cố định, hoặc thả nổi tỉ giá theo quan hệ cung cầu
ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
e. Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó ngân hàng trung ương sẽ cung
ứng tiền cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng thương
mại trên cơ sở nhận tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các ngân
hàng trung ương.
Ngân hàng trung ương điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất
tái chiết khấu phù hợp phù hợp với mục tiêu thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó
làm giảm hoặc tăng lượng tiền trong lưu thông. Nếu chính sách của ngân hàng
trung ương là muốn bành trướng khối lượng tiền tệ, ngân hàng trung ương
khuyến khích các ngân hàng thương mại trong việc đi vay bằng cách hạ lãi suất
9


tái chiết khấu và những điều kiện tái chiết khấu cũng dễ dãi. Ngược lại, khi ngân
hàng trung ương muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối lượng tiền tệ, sẽ thực hiện
nâng lãi suất chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo hướng khó khăn
hơn.
Ngân hàng trung ương cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực
tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống ngân hàng thương mại.


III.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI NĂM 2013
QUA VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC.

Với 40 Ngân hàng thương mại Việt Nam tính đến cuối năm 2012, có vốn
điều lệ xấp xỉ 250 ngàn tỷ đồng tương đương 12 tỷ USD, tức là bằng quy mô
trung bình của một ngân hàng khu vực châu Á. Với khoảng 100 ngân hàng
thương mại hoạt động phục vụ cho nền kinh tế có GDP năm 2012 là 136 tỷ USD,
thì thấy rằng hệ thống ngân hàng thương mại có quá nhiều ngân hàng đang hoạt
động nhưng quy mô vốn quá nhỏ, cần phải tái cấu trúc cả về số lượng và chất
lượngngân hàng để phục vụ nền kinh tế.
Theo khẳng định từ ngân hàng nhà nước, hiện nay thanh khoản bằng VND
của hệ thống các tổ chức tín dụng được cải thiện, nguy cơ đổ vỡ hàng loạt từ
cuối năm ngoái đã được đẩy lùi, các tổ chức tín dụng đã thực sự quan tâm hơn
trong việc quản trị rủi ro thanh khoản, đảm bảo an toàn hệ thống. Điều này được
thể hiện qua số dư tiền gửi của tổ chức tín dụng tại ngân hàng nhà nước luôn cao
hơn so với yêu cầu dự trữ bắt buộc; Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm
10-11%/năm so với đầu năm và ổn định ở mức thấp, không còn tình trạng căng
thẳng về thanh khoản, đẩy lãi suất lên cao như trong năm 2011. Cùng với đó, các
10


tổ chức tín dụng đã mua một lượng lớn trái phiếu chính phủ để cơ cấu lại danh
mục đầu tư và dự phòng thanh khoản; hoạt động của các tổ chức tín dụng về cơ
bản an toàn, lành mạnh, trật tự kỷ cương thị trường đã được khôi phục và tiếp tục
được duy trì ổn định.
Đến cuối tháng 8/2013, tổng phương tiện thanh toán tăng 9,16% so với
cuối năm 2012, phù hợp với định hướng tăng 14-16% trong năm 2013, thanh

khoản của hệ thống ngân hàng được đảm bảo. Các mức lãi suất chủ chốt được
điều hành theo hướng giảm dần, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
và nền kinh tế. Mặt bằng lãi suất VND trong 8 tháng đầu năm đã giảm khoảng 25%/năm so với đầu năm, trong đó lãi suất huy động giảm 2-3%/năm, lãi suất cho
vay giảm 3-5%/năm và đã trở về mức lãi suất của thời kỳ 2005-2006, các tổ chức
tín dụng cũng chủ động giảm lãi suất đối với những khoản cho vay còn tồn đọng.
Đến nay, trần lãi suất huy động đã giảm về mức 7%/năm và chỉ áp dụng
đối với kỳ hạn dưới 6 tháng, trần lãi suất cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên là
9%/năm, tỉ trọng những khoảng cho vay có lãi suất đến 13%/năm chiếm khoảng
74,97%.
Sau nhiều tháng tăng chậm, tín dụng bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc, nhu cầu
của doanh nghiệp về vốn cho sản xuất kinh doanh đã tăng mạnh do nhu cầu tiêu
thụ hàng hóa đã cải thiện mạnh. Tính đến cuối tháng 8/2013, tín dụng cho nền
kinh tế đã tăng 6,45% so với đầu năm, khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng tín
dụng 12% trong năm 2013 đang trở thành hiện thực.
Từ năm 2011 đến nay, tín dụng tuy tăng chậm hơn so với giai đoạn trước
đây, nhưng chất lượng tín dụng đã tăng cao, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
ở mức hợp lý. Điều hành chính sách tiền tệ và tín dụng đã gắn với chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế,
11


phù hợp với chủ trương giảm dần tỉ trọng cung cấp vốn cho đầu tư phát triển từ
hệ thống các tổ chức tín dụng, tập trung vốn tín dụng ngân hàng cho lĩnh vực sản
xuất và kinh doanh.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì chính sách tiền tệ cũng còn nhiều
vấn đề cần bàn, đó là:
- Sự mất cân đối thể hiện ở tăng trưởng tín dụng quá nhanh trong những
năm trước đây, doanh nghiệp dễ dàng sử dụng tiền vay đầu tư sai mục đích, việc
quản lý các dòng tiền ra vào còn nhiều hạn chế đã dẫn đến là tỷ lệ nợ xấu của hệ
thống ngân hàng thương mại đang ở mức trên 10% tổng dư nợ 250.000 tỷ đồng.

- Chính sách quản lý, thanh tra ngân hàng tỏ ra chưa sát với thực tế, chưa
thực sự giám sát được việc thực thi hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại; cụ thể như lãi suất huy động vốn trong thời gian qua: nhiều ngân
hàng chấp nhận trả lãi suất tăng thêm từ 3-6% so với khung ngân hàng nhà nước
quy định lãi suất huy động năm; việc chấp hành tỷ lệ an toàn vốn rất thấp, ít có
tính tự giác đã làm cho một số ngân hàng vẫn trong tình trạng thiếu khả năng
thanh khoản.
- Quy luật kinh tế thị trường không được ngân hàng nhà nước áp dụng
một cách triệt để với những ngân hàng yếu kém, mất thanh khoản, cho vay vượt
tỷ lệ quy định… trong lộ trình sáp nhập, hợp nhất và mua lại ngân hàng; chưa
xem việc phá sản ngân hàng là việc làm bình thường của doanh nghiệp tuân thủ
quy luật vận động và pháttriển, vì vậy nhất thiết cần tái cấu trúc lại hệ thống
ngân hàng thương mại theo hướng thị trường.
- Mặt khác, độ trễ của chính sách tiền tệ tín dụng ngân hàng khi áp dụng
vào quản lý nền kinh tế Việt Nam đã tạo ra những bất cập thiếu linh hoạt, giật
cấp không đồng bộ trong việc phối kết hợp giữa các Bộ ngành, cơ quan Trung
12


ương với địa phươngcho việc áp dụng và thực thi chính sách, còn mang nặng cơ
chế xin cho và đan xen những nhóm lợi ích thao túng thị trường như vụ “thâu
tóm Sacombank” và sở hữu chéo vốn cổ phần ngân hàng làm suy yếu khả năng
cạnh tranh của các ngân hàng này, sử dụng vốn của ngân hàng để tập trung đầu
tư vào các khu đất vàng giữa thành phố Hà Nội, TP.HCM, các thành phố lớn
khác... cũng như tham gia sở hữu ngân hàng để dành ưu đãi vốn đầu tư cho
những công ty con, công ty “sân sau” làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính
sách tín dụng của ngân hàng phục vụ đối với nền kinh tế.
IV. Ý KIẾN PHÁP LÍ
Thứ nhất, thực hiện chính sách duy trì kiểm soát lạm phát nhưng phải đảm
bảo cho tăng trưởng kinh tế bền vững lâu dài, thông qua xây dựng chính sách

giảm lãi suất huy động và cho vay trên thị trường ngân hàng Việt Nam cũng như
giảm thiểu nguy cơ bất ổn hệ thống ngân hàng; gia tăng các hoạt động bảo lãnh
đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhất là các doanh nghiệp có tín nhiệm, có
dự án khả thi có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội cao;
Thứ hai, tăng cường các biện pháp chế tài phạt tài chính nghiêm khắc đủ
sức răn đe những vi phạm quản lý hệ thống ngân hàng thông qua công cụ dự trữ
bắt buộc, tỷ lệ an toàn vốn, giới hạn tỷ lệ cho vay theo quy mô của từng ngân
hàng; sáp nhập hoặc giải thể ngân hàng yếu kém về quản trị điều hành, mất thanh
khoản, mất vốn trầm trọng, để hướng hoạt động ngân hàng vào kinh doanh các
sản phẩm dịch ngân hàng phục vụ tốt cho kinh tế - xã hội và mang lại hiệu quả
cao cho nền kinh tế.
Thứ ba, cần coi trọng và phát triển các công cụ cảnh báo sớm, chuẩn hóa
các dự liệu thông tin của doanh nghiệp, ngân hàng; xây dựng mối liên kết giữa
cơ quan thuế quản lý doanh nghiệp với CIC ngân hàng, dự báo và phản biện
chính sách kinh tế trước các biến động nhanh của thị trường, xây dựng những
13


kịch bản chủ động ngăn chặn các nguy cơ bất ổn tiềm ẩn lợi ích cục bộ trong hệ
thống ngân hàng, cần minh bạch thông tin tài chính ngân hàng về hoạt động sáp
nhập, hợp nhất và mua bán ngân hàng để góp phần lành mạnh hóa thị trường tài
chính ngân hàng.
KẾT LUẬN
Chúng ta biết rằng bất kì một hoạt động kinh tế nào cũng liên quan đến
ngân hàng dù là gián tiếp hay trực tiếp. Như vậy lĩnh vực ngân hàng phải được
đặt ở vị trí hàng đầu, đặc biệt là ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương là
một nhân tố góp phần quan trọng trong ổn định hệ thống tài chính, tạo điều kiện
cho thị trường tiền tệ phát triển. Một khu vực ngân hàng vững mạnh sẽ hậu thuẫn
cho các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.Việc nghiên cứu tìm hiểu vai trò của Ngân hàng trung ương

trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là công việc hết sưc quan
trọng, giúp đi sâu vào những thực trạng, những mặt được và cần khắc phục để
tăng cường hơn nữa phạm vi, hiệu quả điều tiết tiền tệ của Ngân hàng trung
ương, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi thực tiễn và phù hợp thông lệ, nhằm xây dựng
một thị trường tiền tệ lành mạnh, hiệu quả và mở ra một vận hội lớn cho sự phát
triển kinh tế đất nước khi bước vào thế kỷ 21 với chương trình đẩy mạnh sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước, tiến tới hoà nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nôi.
2. Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng – NXB Lao Động.
3. Giải pháp cho chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa của Việt Nam
năm 2013 - PGS. TS. Nguyễn Thị Nhung & ThS. Phan Diên Vỹ - Đại
học Ngân hàng TP. HCM.
4. : “Chính sách tiền tệ 2011-2013: Những nỗ lực không
thể phủ nhận”.
5. Sách “ Ngân hàng Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển” – NXB
Chính trị quốc gia.
6. Sách “ Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường” – PTS Nguyễn Đức
Thảo.

15


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................1
I. CƠ SỞ PHÁP LÍ ĐỂ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI..................................................1
II. VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC
HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI................................5
1. Ảnh hưởng cung ứng tiền đến nền kinh tế............................................5
2. Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia...................................................6
3. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ...............................................7
III. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI NĂM 2013 QUA
VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC................................................10
IV. Ý KIẾN PHÁP LÍ....................................................................................13
KẾT LUẬN.........................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................15

16



×