Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

THỬ NGHIỆM NUÔI HÀU DÀY (Crassostrea ariakensis Fujita và Wakiya, 1929) VÀ VỌP SÔNG (Geloina coaxans Gmelin, 1791) TRONG AO NUÔI TÔM TẠI XÃ LÝ NHƠN, HUYỆN CẦN GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

THỬ NGHIỆM NUÔI HÀU DÀY (Crassostrea ariakensis Fujita
và Wakiya, 1929) VÀ VỌP SÔNG (Geloina coaxans Gmelin, 1791)
TRONG AO NUÔI TÔM TẠI XÃ LÝ NHƠN, HUYỆN CẦN
GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Họ và tên sinh viên: HỒ THỊ HỒNG MAI
Ngành: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Niên khóa: 2008 – 2010

Tp. Hồ Chí Minh
Tháng 08/2010


THỬ NGHIỆM NUÔI HÀU DÀY (Crassostrea ariakensis Fujita và Wakiya,
1929) VÀ VỌP SÔNG (Geloina coaxans Gmelin, 1791) TRONG AO
NUÔI TÔM TẠI XÃ LÝ NHƠN, HUYỆN CẦN GIỜ,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Tác giả

HỒ THỊ HỒNG MAI

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu cấp bằng Kỹ sư
ngành Nuôi Trồng Thủy Sản

Giáo viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN VĂN TRAI



Tp. Hồ Chí Minh
Tháng 08/2010
i


LỜI CẢM TẠ
Kính dâng lên cha mẹ lời biết ơn sâu sắc nhất.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban giám hiệu nhà trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Quý Thầy, Cô Khoa Thủy Sản đã tận tình dạy dỗ chúng tôi trong suốt quá trình
học tập tại trường.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Nguyễn Văn Trai đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ, động viên chúng tôi hoàn thành đề tài.
Gia đình anh Hòa, chú Ba xã Lý Nhơn, Huyện Cần Giờ đã tận tình giúp đỡ và
tạo điều thuận lợi cho chúng tôi thực hiện đề tài.
Bạn Châu Điền Minh Phụng, Dương Thị Phi Ni và các bạn cùng lớp đã giúp đỡ
chúng tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Do thời gian, kiến thức chuyên ngành còn hạn chế nên quá trình thực hiện và
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp không tránh được những thiếu sót, kính mong nhận
được sự đóng góp xây dựng của quý thầy cô và các bạn.

ii


TÓM TẮT
Đề tài “Thử nghiệm nuôi hàu dày (Crassostrea ariakensis Fujita và Wakiya,
1929) và vọp sông (Geloina coaxans Gmelin, 1791) trong ao nuôi tôm tại xã Lý Nhơn,
huyện Cần Giờ Tp. HCM” được thực hiện từ tháng 4/2010 đến tháng 7/2010, tại huyện
Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.

Đề tài gồm 2 nội dung:
Nội dung 1: thí nghiệm sự thích nghi của hàu trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng. Hàu
được thả trong 3 rổ nhựa (40x25x15 cm) và treo trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng gần
quạt nước và ống cấp nước cho ao nuôi. Hàu giống có nguồn gốc tự nhiên, có kích
thước trung bình là 65,67 ± 19,9 g.
Kết quả sau 4 tuần nuôi:
Các chỉ tiêu chất lượng nước (pH, độ trong, độ mặn và hàm lượng oxy hòa tan)
ao tôm có thả hàu thí nghiệm nhìn chung nằm trong khoảng thích hợp cho hàu sống và
phát triển. Tuy nhiên nhiệt độ nước ở ao nuôi thí nghiệm (31,2 - 33,2 0C) cao hơn so
với nhiệt độ thích hợp (20 – 30 0C) cho sự phát triển của hàu nên đã gây bất lợi và cho
tỉ lệ sống thấp (68,89 % sau 1 tháng nuôi).
Sau 4 tuần thí nghiệm, hàu có sự gia tăng trọng lượng có ý nghĩa so với hàu thả
nuôi ban đầu, đồng thời độ béo hàu cũng tăng đáng kể so với lúc mới thả. Điều này
cho thấy hàu có thể sống tốt trong môi trường ao nuôi tôm.
Nội dung 2: thí nghiệm sự thích nghi của vọp trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng
Thí nghiệm có 3 nghiệm thức, vọp được nuôi trong các khay (35x25x10 cm),
đặt ở đáy ao tôm trong cùng một ao tôm với 3 vị trí khác nhau: nghiệm thức 1 bố trí xa
máy quạt nước 25 m (NTI), nghiệm thức 2 bố trí trước máy quạt nước 5 m (NTII),
nghiệm thức 3 bố trí sau máy quạt nước 5 m (NTIII), mỗi nghiệm thức được lặp lại 3
lần. Vọp thí nghiệm có nguồn gốc tự nhiên và trọng lượng ban đầu là 35,36 ± 6,37 g.
Kết quả sau 8 tuần nuôi:
Các chỉ tiêu chất lượng nước (nhiệt độ, pH, độ trong, oxy hòa tan) trong ao tôm
đều nằm trong khoảng thích hợp cho vọp sống và phát triển. Nhưng độ mặn trong ao

iii


nuôi thí nghiệm vọp giảm đột ngột do thí nghiệm gặp vào mùa mưa nên ảnh hưởng
đến sự phát triển của vọp.
Sau 8 tuần thí nghiệm, vọp ở nghiệm thức II có sự gia tăng trọng lượng có ý

nghĩa so với nghiệm thức I ở lần đo 3, tuy nhiên độ béo vọp giữa các nghiệm thức có
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Như vậy, vọp ở nghiệm thức II là tăng trưởng tốt
nhất nhưng lại không khác biệt có ý nghĩa với nghiệm thức III. Điều này cho thấy vọp
nuôi ở vị trí gần quạt nước (kể cả trước lẫn sau quạt nước) có tốc độ tăng trưởng như
nhau và tốt hơn so với vị trí xa quạt. Tỷ lệ sống ở 3 nghiệm thức là 100 % trong
khoảng thời gian thí nghiệm cho thấy vọp hoàn toàn thích ứng với điều kiện nuôi ghép
với ao tôm.

iv


MỤC LỤC
Đề mục

Trang

Trang tựa

i

Lời cảm tạ

ii

Tóm tắt

iii

Mục lục


v

Danh sách các bảng biểu

vii

Danh sách các đồ thị

viii

Danh sách các hình

ix

Chương 1. GIỚI THIỆU

1

1.1 Đặt vấn đề

1

1.2 Mục tiêu đề tài

2

Chương 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3


2.1 Tình hình nuôi nhuyễn thể 2 mảnh vỏ trên thế giới và Việt Nam

3

2.2 Sơ lược về hàu dày Crassostrea ariakensis Fujita và Wakiya, 1929

4

2.3 Sơ lược về vọp sông Geloina coaxans (Gmelin, 1791)

8

2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của nhuyễn thể 2 mảnh vỏ

12

Chương 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

16

3.1 Nội dung

16

3.2 Phương pháp nghiên cứu

16

3.2.1 Thời gian và địa điểm


16

3.2.2 Dụng cụ thí nghiệm

16

3.2.3 Phương pháp bố trí thí nghiệm

16

3.2.3.1 Sự thích nghi của hàu trong ao tôm thẻ chân trắng thâm canh

16

3.2.3.2 Sự thích nghi của vọp trong ao tôm thẻ chân trắng thâm canh

17

Chương 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

21

4.1 Khả năng thích nghi của hàu dày (Crassostrea ariakensis Fujita và Wakiya,
1929) trong ao tôm thẻ chân trắng thâm canh

21

4.1.1 Biến động một số yếu tố môi trường trong ao tôm có hàu thí nghiệm

21


v


4.1.2 Kết quả sinh trưởng của hàu

24

4.2 Khả năng thích nghi của vọp sông Geloina coaxans (Gmelin, 1791)
trong ao tôm thẻ chân trắng thâm canh

30

4.2.1 Biến động một số yếu tố môi trường trong ao tôm có thả vọp thí nghiệm

30

4.2.2 Kết quả sinh trưởng của vọp

33

Chương 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

42

5.1 Kết luận

42

5.2 Đề nghị


42

TÀI LIỆU THAM KHẢO

44

PHỤ LỤC

vi


DANH SÁCH CÁC BẢNG BIỂU
Bảng

Nội dung

Trang

4.1

Môi trường nước ao tôm nuôi hàu thí nghiệm từ tháng 4 - tháng 5

4.2

Giá trị trung bình các chỉ tiêu chất lượng nước ao tôm

22

có nuôi hàu thí nghiệm


22

4.3

Kích cỡ hàu thí nghiệm qua các lần đo

25

4.4

Độ béo của hàu sau thí nghiệm

27

4.5

Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về các chỉ tiêu kích thước
và trọng lượng hàu thí nghiệm

28

4.6

Tỷ lệ sống của hàu qua các lần kiểm tra

29

4.7


Môi trường nước ao tôm nuôi vọp thí nghiệm từ tháng 5 - tháng 7

30

4.8

Giá trị trung bình các chỉ tiêu chất lượng nước ao tôm
có thả vọp thí nghiệm

31

4.9

Kích cỡ ban đầu vọp thí nghiệm

33

4.10

Chiều dài vọp thí nghiệm qua các lần đo

34

4.11

Chiều rộng vọp thí nghiệm qua các lần đo

35

4.12


Chiều cao vọp thí nghiệm qua các lần đo

36

4.13

Trọng lượng vọp thí nghiệm qua các lần đo

37

4.14

Độ béo vọp thí nghiệm qua các lần đo

39

4.15

Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về các chỉ tiêu kích thước
và trọng lượng vọp thí nghiệm

40

vii


DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ
Đồ thị


Nội dung

Trang

4.1

Sự tăng trưởng chiều dài hàu thí nghiệm

25

4.2

Sự tăng trưởng chiều rộng hàu thí nghiệm

26

4.3

Sự tăng trưởng chiều cao hàu thí nghiệm

26

4.4

Sự tăng trưởng trọng lượng hàu thí nghiệm

27

4.5


Độ béo của hàu thí nghiệm

28

4.6

Tỷ lệ sống của hàu qua các lần đo

29

4.7

Biến động một số yếu tố môi trường nước ao tôm có thả vọp

31

4.8

Sự tăng trưởng chiều dài vọp thí nghiệm

34

4.9

Sự tăng trưởng chiều rộng vọp thí nghiệm

35

4.10


Sự tăng trưởng chiều cao vọp thí nghiệm

37

4.11

Sự tăng trưởng trọng lượng vọp thí nghiệm

38

4.12

Độ béo của vọp thí nghiệm

39

viii


DANH SÁCH CÁC HÌNH ẢNH
Hình

Nội dung

Trang

2.1

Hàu dày (Crassostrea ariakensis)


4

2.2

Vọp sông (Geloina coaxans)

9

3.1

Cách đo các chỉ tiêu kích thước

19

4.1

Ao tôm nuôi hàu thử nghiệm

21

4.2

Ao tôm nuôi vọp thí nghiệm

30

ix


Chương 1

GIỚI THIỆU
1.1

Đặt Vấn Đề
Việt Nam là nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có vị trí địa lý thuận

lợi và tiềm năng lớn về thủy sản. Đặc biệt ở vùng nước lợ, mặn thì con tôm đang được
chú ý và nuôi nhiều nhất với các hình thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, bán
thâm canh đến thâm canh. Có thể nói rằng đến giai đoạn hiện nay các hình thức nuôi
thâm canh cũng bị chững lại, nhiều vùng đìa bỏ không như: Cần Giờ, Long An, Bến
Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, v.v. Nguyên nhân việc nuôi tôm ngày
càng khó khăn là do nguồn chất thải của tôm đã làm cho môi trường nước bị ô nhiễm
ngày càng nghiêm trọng và lây lan dịch bệnh thường xuyên xảy ra. Vấn đề giảm thiểu
nguồn chất thải trong ao nuôi cũng như thải ra ngoài môi trường ngày càng cấp thiết.
Theo Nguyễn Chính (2005), sự thất bại trong nuôi tôm một phần là do người
nuôi chưa nắm vững đặc điểm sinh học của đối tượng nuôi để áp dụng các kỹ thuật
nuôi phù hợp cho từng vùng, mặt khác là do những đối tượng có khả năng làm sạch
môi trường bị khai thác quá triệt để, bao gồm cả nhuyễn thể 2 mảnh vỏ (Bivalvia) nên
môi trường nước ngày càng ô nhiễm.
Trong số các loại động vật thân mềm, các loài 2 mảnh vỏ không chỉ là sản
phẩm hải sản được ưa thích mà còn mang lại hiệu quả kinh tế đối với loại hình nuôi
sinh thái. Bên cạnh đó, chúng có đặc tính lọc nước, vì thế chúng có thể được sử dụng
như là một hệ thống lọc sinh học để cải thiện chất lượng nước (Mazzola và Sara, 2001;
Shpigel và Blaylock, 1991; Shpigel và ctv., 1997, trích bởi Như Văn Cẩn, Chu Chí
Thiết và Martin S Kumar, 2009), đóng góp vào phát triển nuôi trồng thủy sản bền
vững.
1


Hàu (Crassostrea sp.) và vọp sông (Geloina coaxans Gmelin, 1791), là những

loài tiềm năng dùng kết hợp trong ao nuôi tôm. Theo Nguyễn Chính (2007), hàu là
một trong những loài động vật thân mềm có giá trị kinh tế, có tính ăn lọc phiêu sinh
thực vật chủ yếu là tảo đơn bào và mùn bã hữu cơ (trích bởi Trần Tuấn Phong và Ngô
Thị Thu Thảo, 2010). Do đó, hàu có vai trò như “một bộ lọc sinh học” xử lý môi
trường góp phần làm sạch các cặn bã hữu cơ, hạn chế ô nhiễm môi trường (Lê Minh
Viễn và Phạm Cao Minh, 2007). Vọp sông (Geloina coaxans Gmelin, 1791) cũng là
loài ăn lọc, phân bố rộng, có nhiều ở vùng ngập mặn Cần Giờ. Chúng cũng có khả
năng làm sạch môi trường, sức sống mạnh, chịu được sự dao động lớn về độ mặn, thịt
vọp ngon. Hiện nay vọp rất được ưa chuộng làm thực phẩm nhưng nguồn cung lại
chưa đáp ứng đủ vì việc nuôi đối tượng này chưa phổ biến.
Nghiên cứu về hàu và vọp sông đã có những thành công trong công nghệ sản
xuất giống, nuôi thương phẩm, nhưng việc nuôi kết hợp chúng trong ao nuôi tôm vẫn
chưa phổ biến và cần có nghiên cứu để làm cơ sở phát triển. Do vậy chúng tôi thực
hiện đề tài “Thử nghiệm nuôi hàu dày (Crassostrea ariakensis Fujita và Wakiya,
1929) và vọp sông (Geloina coaxans Gmelin, 1791) trong ao nuôi tôm tại xã Lý Nhơn,
huyện Cần Giờ, Tp. Hồ Chí Minh” nhằm đa dạng hóa các mô hình nuôi và góp phần
hạn chế ô nhiễm môi trường.
1.2

Mục Tiêu Đề Tài
- Xác định khả năng sống của hàu Crassostrea ariakensis (Fujita và Wakiya,

1929) và vọp (Geloina coaxans Gmelin, 1791) trong ao nuôi tôm nước lợ.
- Đánh giá khả năng sinh trưởng của 2 loài này trong ao nuôi tôm.

2


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1

Tình Hình Nuôi Nhuyễn Thể 2 Mảnh Vỏ Trên Thế Giới và Việt Nam
Nghề nuôi nhuyễn thể 2 mảnh vỏ đã có từ lâu đời và xuất phát từ những nước

vùng ôn đới. Trong lịch sử có lẽ La Mã là nước đầu tiên biết nuôi nhuyễn thể 2 mảnh
vỏ và đối tượng đầu tiên được chú ý là hàu, thế kỷ thứ 2 trước công nguyên Sergius
Orata đã xây dựng trại nuôi hàu. Truyền thuyết cho rằng một trong những lý do mà đế
quốc La Mã xâm chiếm Anh Quốc bởi vì quần đảo này có nguồn lợi hàu rất phong phú
và chất lượng cao. Nghề nuôi một số loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ khác phát triển tương
đối chậm hơn so với nuôi hàu. Ở vùng nhiệt đới, nguồn lợi tự nhiên rất phong phú cho
nên nghề nuôi nhuyễn thể 2 mảnh vỏ cũng phát triển chậm.
Ở Việt Nam nghề nuôi chỉ mới phát triển gần đây. Miền Bắc nuôi một số đối
tượng như hàu cửa sông Ostrea rivularis (sông Bạch Đằng, Quảng Ninh và Lạch
Trường, Thanh Hóa), vẹm Mytilus viridis (Thừa Thiên), ngao dầu Meretrix meretrix
(Thái Bình), trai ngọc nước biển Pinctada (Quảng Ninh, Hải Phòng, Phú Yên và Nha
Trang) và trai ngọc nước ngọt Hyriopsis (Hồ Tây, Hà Nội). Miền Nam chủ yếu nuôi
hai đối tượng là nghêu (Meretrix lyrata) ở Bến Tre, Tiền Giang và sò huyết (Anadara
granosa) ở Kiên Giang. Tuy nhiên có rất ít công trình nghiên cứu kỹ thuật nuôi các
loài thuộc nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, chủ yếu các công trình nghiên cứu ở Việt Nam là
đánh giá nguồn lợi. Chỉ tìm thấy một số công trình bao gồm các thông tin khoa học,
sách hoặc giáo trình như: Cẩm nang nuôi thủy sản nước lợ của Nguyễn Anh Tuấn năm
1994; Kỹ thuật nuôi ngao, nghêu, sò huyết, trai ngọc của Ngô Trọng Lư năm 1996;
Đặc điểm sinh học và kỹ thuật ương nuôi nghêu Meretrix rylata Sowerby của Nguyễn
Hữu Phụng năm 1996.

3


2.2


Sơ Lược Về Hàu Dày Crassostrea ariakensis Fujita và Wakiya, 1929

Vị trí phân loại
Ngành thân mềm: Molusca
Lớp hai mảnh vỏ: Bivalvia
Bộ cơ lệch: Anisomyaria
Tổng họ: Ostreacea
Họ: Ostreidae
Giống: Crassostrea
Loài: Crassostrea ariakensis (Fujita and Wakiya, 1929)
Tên tiếng Anh: Ariake Oyster
Tên Việt Nam: Hàu dày

Hình 2.1: Hàu dày (Crassostrea ariakensis)
Đặc điểm hình thái
Theo Nguyễn Ngọc Thạch (2005), hàu dày có dạng hình trứng, vỏ hàu lớn.
Kích thước chiều cao trung bình 100 – 150 mm. Phân bố nhiều ở Cần Giờ nhưng là
loài không phổ biến ở Việt Nam.
Vỏ của hàu dày, có mặt ngoài màu nâu và phân chia thành nhiều lớp tương tự
như các lớp vảy xếp chồng lên nhau. Mặt trong vỏ thường có màu trắng. Vết cơ khép
vỏ có màu trắng hoặc đen. Vỏ trái thường lớn hơn vỏ phải. Hình dạng vỏ thay đổi tùy
theo loài, tuổi, mật độ bám và phương pháp nuôi (Nguyễn Như Trí, 2000).

4


Màng áo gồm 2 tấm bao lấy phần nội tạng của cơ thể. Phần phía trên của hai
tấm màng áo dính với nhau (phần gần đỉnh vỏ), phần phía dưới tự do. Cơ khép vỏ
trước bị thoái hóa, chỉ còn lại cơ khép vỏ sau. Cấu tạo của cơ khép vỏ gồm cơ vân và

cơ trơn (Nguyễn Như Trí, 2000).
Phân bố
Cai và ctv. (1992) báo cáo rằng hàu được nuôi ở vùng cửa sông đến các vùng
dưới triều nông của vịnh Zhanjiang (Trung Quốc), nơi nhiệt độ nước khoảng từ 14 đến
31,8 0C và độ mặn dao động 7,5 - 30,2 ‰ (The National Research Council, 2004).
Những báo cáo khác cho rằng các loài hàu thường được tìm thấy ở những nơi có độ
mặn dao động từ 9 đến 30 ‰ (Cahn, 1950, trích bởi The National Research Council,
2004) và nó có thể chịu được độ mặn dưới 10 ‰ trong thời gian ngắn (Amemiya,
1928, trích bởi The National Research Council, 2004).
Crassostrea ariakensis được tìm thấy dọc theo bờ biển Trung Quốc (Tschang
và Tse-kong, 1956, trích bởi The National Research Council, 2004), miền Nam Nhật
Bản (Rao, 1987, trích bởi The National Research Council, 2004), Đài Loan,
Philippines, Thái Lan, Việt Nam, và miền Bắc Boreno và Malaysia (Zhou và Allen,
2003, trích bởi The National Research Council, 2004). Ngoài ra, C. ariakensis còn
được tìm thấy trên bờ biển phía tây bắc của Ấn Độ và Pakistan. Tuy nhiên, phạm vi
phân bố bên ngoài Trung Quốc và miền Nam Nhật Bản đã không được di truyền xác
nhận (Allen và ctv., 2002, trích bởi The National Research Council, 2004), và có sự
nhầm lẫn đáng kể về phân loại các loài (Coan và ctv., 2000; Carriker và Gaffney năm
1996; Zhou và Allen, 2003, trích bởi The National Research Council, 2004). Đôi khi
C. ariakensis đã được xác định là Ostrea rivularis, C. rivularis, C. discoidea (e.g.,
Awati và Rai, 1931; Harry, 1985; Rao, 1987, trích bởi The National Research Council,
2004) hoặc C. paulucciae (Carriker và Gaffney, 1996, trích bởi The National Research
Council, 2004).
Phương thức sống
Ở giai đoạn ấu trùng chúng sống phù du. Ấu trùng hàu có khả năng bơi lội nhờ
vào hoạt động của vành tiêm mao hay đĩa bơi. Ở giai đoạn trưởng thành hàu sống bám
trên các giá thể (sống cố định) trong suốt đời sống của chúng. Nhiều loài hàu tạo thành
quần thể dày đặc nhiều tầng (rạn hàu, bãi hàu).
5



Thức ăn và phương thức bắt mồi.
Thức ăn của ấu trùng bao gồm vi khuẩn, sinh vật nhỏ, tảo silic (Criptomonas,
Platymonas, Monax) hoặc trùng roi có kích thước 10um hoặc nhỏ hơn. Ấu trùng cũng
có thể sử dụng vật chất hòa tan trong nước và những hạt vật chất hữu cơ (detritus).
Giai đoạn trưởng thành thức ăn chủ yếu là thực vật phù du và mùn bã hữu cơ. Các loài
tảo thường gặp là các loài tảo silic như: Melosira, Coscinodiscus, Cyclotella,
Skeletonema, Navicula, nitzschia, Thalassiothrix và Thalassionema.
Phương thức bắt mồi của hàu là thụ động theo hình thức lọc. Cũng như các loài
nhuyễn thể 2 mảnh vỏ khác, hàu bắt mồi trong quá trình hô hấp nhờ vào cấu tạo đặc
biệt của mang. Khi hô hấp nước có mang theo thức ăn đi qua bề mặt mang, các hạt
thức ăn sẽ dính vào các tiêm mao trên bề mặt mang nhờ vào dịch nhờn được tiết ra từ
tiêm mao. Hạt thức ăn kích cỡ thích hợp (nhỏ) sẽ bị dính vào các dịch nhờn và bị tiêm
mao cuốn thành viên sau đó chuyển dần về phía miệng, còn các hạt thức ăn quá lớn
tiêm mao không giữ được sẽ bị dòng nước cuốn đi khỏi bề mặt mang sau đó tập trung
ở mép màng áo và bị màng áo đẩy ra ngoài.
Đặc điểm sinh sản
Giới tính: có hiện tượng biến tính (thay đổi giới tính) ở hàu. Trên cùng cơ thể
có lúc mang tính đực, có lúc mang tính cái và cũng có khi lưỡng tính. Tỉ lệ lưỡng tính
trong quần thể thường thấp.
Phương thức sinh sản: tùy theo loài mà hình thức sinh sản khác nhau. Nhóm
Crassostrea và Saccostrea thì đẻ trứng và tinh trùng ra môi trường nước, quá trình thụ
tinh và phát triển ấu trùng diễn ra trong nước. Đối với nhóm Ostrea thì quá trình thụ
tinh và phát triển ấu trùng diễn ra bên trong xoang màng áo của cá thể mẹ đến giai
đoạn diện bàn hoặc muộn hơn mới ra khỏi cơ thể mẹ.
Mùa vụ sinh sản: ở vùng nhiệt đới sau một năm đã thành thục và tham gia sinh
sản. Mùa vụ sinh sản xảy ra quanh năm nhưng tập trung từ tháng 4 - 6. Mùa vụ sinh
sản ở vùng nhiệt đới thường ít tập trung và kéo dài hơn so với vùng ôn đới. Tác nhân
chính kích thích đến quá trình thành thục và sinh sản của hàu là nhiệt độ, nồng độ
muối và thức ăn có trong môi trường.

Tương tự như hàu C. virginica, hoạt động sinh sản của hàu C. ariakensis cũng
theo mùa, và chu kỳ sinh sản bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và điều kiện môi trường trong
6


vùng. Ở Trung Quốc, mùa sinh sản là giữa tháng 4 và tháng 6 (Cai và ctv., 1992, trích
bởi The National Research Council, 2004). Vùng cửa sông Zhujiang mùa sinh sản là
tháng 6 đến tháng 9 mà chủ yếu trong tháng 6 đến tháng 7, một hoạt động sinh sản thứ
hai có thể xảy ra nếu điều kiện môi trường thích hợp (Zhou và Allen, 2003, trích bởi
The National Research Council, 2004). Asif (1979) cho rằng tuyến sinh dục đã bắt đầu
xuất hiện ở cá thể 2 - 3 tháng tuổi (0,4 - 0,6 cm chiều dài vỏ) và ở thời điểm này những
cá thể lưỡng tính cũng được phát hiện (The National Research Council, 2004).
Đặc điểm sinh trưởng
Hàu có tốc độ sinh trưởng khá nhanh. Ở các nước nhiệt đới thì thời gian nuôi
trung bình thay đổi từ 8 - 12 tháng. Còn ở các nước ôn đới thì thời gian nuôi dài hơn,
thông thường từ 12 - 24 tháng. Tốc độ tăng trưởng phụ thuộc vào các yếu tố: sự phong
phú của nguồn thức ăn, độ mặn, mật độ nuôi, phương pháp nuôi, vị trí bám so với bề
mặt nước (Nguyễn Như Trí, 2000).
Coan và ctv. (2000) cho rằng C. ariakensis có thể đạt chiều cao vỏ lên đến 20
cm, trong khi Carriker và Gaffney (1996) cho rằng những con hàu có thể đạt 20 - 24
cm chiều cao vỏ (The National Research Council, 2004). Hàu tăng trưởng tương đối
nhanh ở ven biển và vùng biển miền Nam Trung Quốc, thường trong vòng 2 - 3 năm
(10 – 15 cm chiều dài vỏ ) có thể được thu hoạch khi nuôi trong điều kiện thích hợp
(Guo và ctv., 1999, trích bởi The National Research Council, 2004)
Ở Mỹ, tỷ lệ tăng trưởng thay đổi theo điều kiện môi trường nuôi. Ví dụ như,
Langdon và Robinson (1996), không có sự khác biệt trong tốc độ tăng trưởng của C.
ariakensis và C. gigas ở các vùng Puget Sound, Washington, và Coos Bay, Oregon,
khi nuôi trên bãi triều hoặc bè nổi ở Yaquina Bay, Oregon (The National Research
Council, 2004). Cả hai loài đạt được chiều cao vỏ khoảng 10cm trong khoảng 2 năm.
C. gigas đã tăng trưởng nhanh hơn C. ariakensis khi được đặt trong túi lưới treo trên

các giàn nuôi ở vùng dưới triều vịnh Tomales, California (miền trung California), C.
ariakensis đã tăng lên chỉ khoảng 6 cm trong khoảng 1,5 năm, trong khi C. gigas đạt
được một chiều cao vỏ trung bình là 10 cm (The National Research Council, 2004).
Calvo và ctv. (2001) đã phát triển C. ariakensis tam bội trong túi lưới trên khay
nổi tại 6 vị trí ở vùng biển Virginia vịnh Chesapeake; 2 vị trí được đặt trong độ mặn
thấp (<15 ‰), 2 trong độ mặn trung bình (15 - 25 ‰), và 2 trong độ mặn cao (>25 ‰)
7


(The National Research Council, 2004). Trong quá trình nuôi, hàu đạt chiều cao vỏ
trung bình 6,4 cm (2 năm), và tăng trưởng rất nhanh trong khoảng 9 tháng đầu sau đó
chậm lại. Kết quả nhận thấy, vỏ tăng trưởng chậm hơn đáng kể (2,6 mm/tháng) ở độ
mặn thấp so với độ mặn trung bình (4,9 mm/ tháng) và cao nhất ở độ mặn cao (6,2
mm/tháng) (The National Research Council, 2004).
Địch hại và khả năng tự bảo vệ
Địch hại của hàu bao gồm các yếu tố vô sinh (nồng độ muối, nhiễm bẫn, độc tố,
lũ lụt) và yếu tố hữu sinh bao gồm các sinh vật cạnh tranh vật bám (Balanus, Anomia),
sinh vật ăn thịt (Rapana, sao biển, cá), sinh vật đục khoét (Teredo, Bankia), sinh vật
ký sinh (Myticola, Polydora) và các loài tảo gây nên hiện tượng hồng triều (Ceratium,
Peridium).
Hàu có khả năng tự bảo vệ nhờ vào vỏ, khi gặp kẻ thù chúng khép vỏ lại. Ngoài
ra chúng còn có khả năng chống lại các dị vật (cát, sỏi), khi dị vật rơi vào cơ thể màng
áo sẽ tiết ra chất xà cừ bao lấy dị vật.
2.3

Sơ Lược Về Vọp Sông Geloina coaxans (Gmelin, 1791)

Vị trí phân loại
Ngành thân mền: Mollusca
Lớp hai mảnh vỏ: Bivalvia

Bộ mang thật: Eulamellibranchia
Bộ phụ: Heterodonta
Họ: Corbiculidae
Giống: Geloina
Loài: Geloina coaxans (Gmelin, 1791)
Tên tiếng Anh: Mud clam
Tên Việt Nam: Vọp sông
Theo Lê Minh Viễn (2008), vọp sông có các đặc điểm sau đây:
Đặc điểm hình thái
Cũng như các động vật 2 vỏ khác, vọp sông có dạng hình tam giác. Trên mặt vỏ
đường sinh trưởng mịn, xếp khít nhau, da màu vàng rêu phát triển thành phiến, ở cá
8


thể già da bóng màu nâu vàng. Mặt trong vỏ trắng, mặt khớp vỏ trái phải đều có 3 răng
giữa, răng giữa trước nhỏ, 2 răng sau chẻ đôi.
Răng phía trước vỏ phải nhỏ nhô cao, răng bên phía trước vỏ trái thì thô. Vết cơ khép
vỏ sau lớn hình chữ nhật, vết mép màng áo và vịnh màng áo không rõ. Vỏ cá thể
trưởng thành cao 75 mm, dài 60 mm, rộng 40 mm.

Hình 2.2: Vọp sông (Geloina coaxans)
Phân bố
Họ vọp (Corbiculidae) thường được nhắc đến có 5 giống và 10 loài, thích nghi
ở vùng nước mặn và nước lợ. Đó là các loài: Geloina coaxans (Gmelin, 1791),
Geloina erosa (Lightfoot, 1786), Geloina expansa (Mousson, 1849), Corbicua
fluminea (Muller, 1774), Batissa violacea (Lamarck, 1819), Batissa fortis (Prime,
1860), Polymesoda placans (Bosc, 1801), Polymesoda maritime (Orbigny, 1842),
Polymesoda placans (Hanley, 1845) và Cyrenobatissa subsulcata (Clessin, 1878),
trong đó loài vọp sông (Geloina coaxans) sinh sống chủ yếu ở vùng cao triều thấp
nước mặn và nước lợ ven sông rừng ngập mặn.


9


Đặc tính sinh học
Nhiệt độ thích hợp: vọp sông phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới gió mùa, thích
nghi ở nhiệt độ từ 15 – 32 0C. Những vùng nước có nhiệt độ nước thấp hơn không thấy
có loài vọp này sinh sống.
Độ mặn nước thích hợp: vọp phân bố ở những khu rừng ngập mặn ven biển,
nên chúng là loài rộng muối, thích nghi với sự dao động mạnh của nồng độ muối từ 10
– 30 ‰ (Eileen và Courney, 1982, trích bởi Lê Minh Viễn, 2008).
Tập tính sống và chất đáy: không đào hang vùi sâu vào lòng đất như một số
động vật thân mềm khác, vọp sông chủ yếu sống lộ thiên nhô một phần thân mình trên
đất, dễ dàng phát hiện khi khai thác lúc vọp trưởng thành. Thích hợp nhất là nền đáy
bùn nhão trong các khu rừng đước, sú, vẹt rậm rạp, có tán rừng che phủ.
Dinh dưỡng của vọp: thức ăn của ấu trùng vọp chủ yếu sử dụng nguồn thực vật
đơn bào như: Nanochloripsis sp., Isochrysis sp., Chaetoceros sp., và Platymonas sp.
Có kích thước hiển vi 3 – 4 micromet, khi trưởng thành sống ngoài tự nhiên chúng sử
dụng chủ yếu những phù du thực vật có kích thước lớn hơn, các loài tảo đáy, ấu trùng
của những động vật khác, mùn bã hữu cơ và những chất hòa tan trong nước, như các
muối khoáng (đặc biệt là các hợp chất muối canxi cần thiết cho sự hình thành vỏ).
Zainudin và cộng tác viên (2003) đã nghiên cứu thành phần thức ăn trong ruột của vọp
sông Geloina coaxans và kết luận rằng mùn bã hữu cơ trong khu rừng ngập mặn đã
đóng vai trò quan trọng trong cung cấp nguồn dinh dưỡng cho vọp (20 %), chủ yếu là
các acid béo không no mạch dài (Lê Minh Viễn, 2008) .
Sinh trưởng: vọp sông sinh trưởng nhanh trong thời gian đầu đời, từ 1 - 5 tháng
tuổi là thời kỳ phát triển vỏ, sau đó phát triển chậm dần – thời kỳ phát triển thịt. Sau 1
năm tuổi vọp có chiều cao vỏ trung bình khoảng 50 mm (Zainudin và ctv., 2003, trích
bởi Lê Minh Viễn, 2008).
Đặc tính sinh học sinh sản: vọp sông cũng giống như một số loài động vật

thân mềm khác có hiện tượng thay đổi giới tính trong vòng đời, rõ nhất là lưỡng tính
giai đoạn. Trong thực tế sản xuất ít khi bắt gặp hiện tượng lưỡng tính đồng thời, tức
cùng một lúc trong một cá thể tuyến sinh dục xuất hiện cả hai giới tính: tinh trùng –
mang tính đực và trứng - mang tính cái. Chính vì hiện tượng này nhiều người dễ bị
ngộ nhận cho rằng vọp sông là loài động vật đơn tính. Cụ thể Morton (1985) (trích bởi
10


Lê Minh Viễn, 2008) đã nghiên cứu sinh học sinh sản của quần thể loài Geloina erosa
ở những khu rừng ngập mặn ở Hồng Kông cho thấy 51,5 % cá thể là cái, 38,5 % là
đực, 0,5 % là lưỡng tính đồng thời và 9,5 % là không xác định giới tính. Ngoài ra tác
giả còn cho biết cá thể thành thục của loài vọp này ở kích thước khoảng 35 mm và sinh
sản diễn ra một lần trong một thời gian dài vào mùa hè. Cá thể thành thục thải trứng và
tinh trùng vào môi trường nước, quá trình thụ tinh diễn ra trong môi trường nước.
Ở vùng nước Đài Loan, Thái Lan, Malaysia, Indonesia mùa sinh sản của vọp
trùng vào mùa hè. Ở miền Nam Việt Nam mùa sinh sản của vọp sông chủ yếu trùng
vào mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 hàng năm, thời kỳ này tuyến sinh dục của vọp
trưởng thành căng phồng, lên kính hiển vi trứng và tinh trùng xuất hiện khá hoàn
chỉnh, vào bậc 3, 4 (theo thang sinh dục 5 bậc của Nash và Braley, 1988). Lúc này có
thể đưa vọp vào vỗ béo và kích thích đẻ dễ dàng. Vọp sông cũng giống như hàu, vẹm,
điệp, nghêu, sò huyết…hiện tượng sinh sản của chúng rất nhạy cảm với sự thay đổi
thời tiết. Thông thường sau các trận mưa và gió mùa đột ngột vọp có thể đẻ hàng loạt.
Công nghệ sản xuất giống nhân tạo vọp: mặc dù sản xuất giống những đối
tượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ đã đạt đến trình độ cao tại nhiều nước, nhưng sản xuất
giống vọp sông chưa được tìm thấy trong bất cứ tài liệu nào công bố. Tuy nhiên, các
thành tựu của công nghệ sản xuất giống các loài động vật thân mềm khác có thể hỗ trợ
cho nhau về phương pháp và công nghệ sản xuất vọp giống (Wong va Lim, 1985, trích
bởi Lê Minh Viễn, 2008).
Nuôi thương phẩm: xuất phát từ giá trị kinh tế - xã hội, làm sạch môi trường,
chi phí nuôi thấp vì không tốn thức ăn, nên những đối tượng nhuyễn thể 2 mảnh vỏ có

hình thức sống vùi tại những bãi triều đáy cát hay đáy bùn như: nghêu, ngao, sò huyết,
móng tay, tu hài, đã được nghiên cứu và nuôi phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như:
Trung Quốc, Indonesia, Đài Loan, Malaysia, Thái Lan, Phillipin (Lai và Wang, 1980,
trích bởi Lê Minh Viễn, 2008). Nguồn con giống cho nuôi thương phẩm chủ yếu được
khai thác từ tự nhiên. Tuy nhiên, trong những năm gần đây vì nhu cầu lớn mạnh và sự
phát triển của khoa học công nghệ, con giống từ sản xuất nhân tạo phục vụ cho nuôi đã
dần chiếm tỷ trọng lớn, góp phần không nhỏ phát triển nuôi các đối tượng này thành
hình thức công nghiệp, giải quyết lượng thực phẩm quý giá cho con người, tạo công ăn

11


việc làm và thu nhập đáng kể cho nhiều quốc gia (Wu và Chang, 1976, trích bởi Lê
Minh Viễn, 2008).
Vọp cũng có hình thức sống vùi mình trong lớp bùn hay bùn pha cát trong
những cánh rừng ngập mặn, nhưng việc nuôi đối tượng này chưa phổ biến. Nhiều quốc
gia có loài này phân bố chỉ khai thác nguồn lợi có sẵn trong tự nhiên để làm thực phẩm
nên sản lượng hàng năm suy giảm mạnh. Do đó đã có nhiều nhà khoa học kêu gọi mọi
người ra sức bảo vệ loài vọp quí giá này với mục đích là khôi phục lại nguồn lợi cũng
như ngăn chặn nạn phá rừng ngập mặn đang diễn ra hàng ngày hàng giờ. Một hướng
rất hiệu quả trong công tác phục hồi đối tượng này và ngăn chặn nạn phá rừng là phát
triển nuôi do chính người dân trong vùng quản lý và chăm sóc rừng.
2.4

Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Tốc Độ Tăng Trưởng Của Nhuyễn Thể 2

Mảnh Vỏ
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nhuyễn thể 2 mảnh vỏ.
Trong đó, thức ăn được coi là yếu tố quan trọng nếu không có thức ăn, duy trì tốc độ
tăng trưởng là không thể (Seed và Suchanek, 1992, trích bởi Elizabeth Gosling, 2001).

Mà nguồn thức ăn cung cấp cho nhuyễn thể 2 mảnh vỏ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
như nhiệt độ, thủy triều, độ sâu nước và mật độ cá thể. Ngoài ra, sự tăng trưởng của
nhuyễn thể 2 mảnh vỏ còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố nội sinh, ví dụ như kiểu gen và
tình trạng sinh lý, tương tác phức tạp với các yếu tố môi trường.
Bên cạnh đó, các tác nhân ảnh hưởng đến cường độ bắt mồi của hàu là thủy
triều, lượng thức ăn và các yếu tố môi trường (nhiệt độ, nồng độ muối).
Khi triều lên cường độ bắt mồi tăng, triều xuống cường độ bắt mồi giảm.
Trong môi trường có nhiều thức ăn thì cường độ bắt mồi thấp và ít thức ăn thì
cường độ bắt mồi cao.
Khi các yếu tố môi trường trong khoảng thích hợp thì cường độ bắt mồi cao và
khi các yếu tố môi trường ngoài khoảng thích hợp thì cường độ bắt mồi thấp.
Thức ăn
Thức ăn là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định tốc độ tăng trưởng
nhuyễn thể 2 mảnh vỏ ở trại giống và ngoài tự nhiên. Sự phát triển của những cá thể
ngoài tự nhiên có tương quan với rất nhiều sinh vật phù du (Utting, 1988; Smaal và
Stralen, 1990, trích bởi Elizabeth Gosling, 2001). Page và Hubbard (1987) cho thấy sự
12


tăng trưởng của vẹm Mytilus edulis tương quan với nồng độ chất diệp lục - a
(chlorophyll - a), trong khi sự tăng trưởng của hàu Crassostrea gigas tương quan với
nồng độ chất diệp lục - b (chlorophyll - b) (Brown, 1988) (trích bởi Elizabeth Gosling,
2001).
Thủy triều
Nhuyễn thể 2 mảnh vỏ chỉ ăn khi chúng ngập dưới nước. Do đó, mà những cá
thể sống trong vùng có thủy triều lên xuống thì giảm tốc độ tăng trưởng đáng kể so với
các cá thể được liên tục bao phủ bởi triều cường. Điều này cũng minh họa cho các loài
hàu Tiostrea lutaria, được giới thiệu vào Vương quốc Anh từ New Zealand, 1963
(Elizabeth Gosling, 2001).
Một số loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ có khả năng chịu đựng được sự bày khô.

Shurink và Griffiths (1993) (trích bởi Elizabeth Gosling, 2001) thấy rằng trong 4 loài
vẹm Mytilus galloprovinvialis và Perna Perna tăng trưởng ở mức 80% khi ngập nước
liên tục, ngay cả khi bày khô 50 %, 66 % với Choromytilis meridionalis và chỉ có 54
% với Aulacomya ater.
Nhiệt độ
Nhiệt độ ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý và chi phối sự sinh trưởng của sinh
vật cho nên hầu hết các nghiên cứu đều tập trung tìm hiểu mối quan hệ giữa nhiệt độ
và sinh trưởng của nhuyễn thể 2 mảnh vỏ. Những nghiên cứu ban đầu của nhiều tác
giả trên đối tượng Crassostrea, Mercenaria và Mytilus nhằm xác định khoảng nhiệt độ
tối ưu cho sinh trưởng và nhiệt độ trú đông. Một số nghiên cứu khác đã nêu lên khoảng
nhiệt độ tối ưu cho sinh trưởng của Crassostrea virginica, Mercenaria mercenaria,
Mytilus californianus và Tivela stultorum, khi nhiệt độ ngoài khoảng tối ưu tốc độ sinh
trưởng sẽ giảm (Vakily, 1992, trích bởi Elizabeth Gosling, 2001).
Độ mặn
Nhuyễn thể 2 mảnh vỏ phản ứng lại với những thay đổi độ mặn bên ngoài ngoài
bằng cách đóng van vỏ và điều chỉnh nồng độ của các ion, acid amin và các phân tử
nhỏ khác ở bên trong cơ thể để duy trì khối tế bào tương đối không đổi. Lúc đầu tỉ lệ
ăn và hô hấp bị giảm sút, nhưng dần dần hồi phục như được đạt tới cân bằng thẩm
thấu. Khoảng thời gian cần thiết để hoàn toàn thích nghi với môi trường phụ thuộc vào

13


mức độ thay đổi độ mặn ban đầu (Almada - Villela, 1984, trích bởi Elizabeth Gosling,
2001).
Nhiều tài liệu nói về ảnh hưởng của độ mặn lên sự tăng trưởng ở những loài
vẹm và hàu. Vẹm phát triển tốt ở cửa sông nước lợ, nhưng điều này có lẽ liên quan đến
sự gia tăng mức thức ăn trong môi trường sống hơn là giảm độ mặn (Seed và
Suchanek, 1992, trích bởi Elizabeth Gosling, 2001).
Bayne (1965) (trích bởi Elizabeth Gosling, 2001) đã cho thấy rằng ấu trùng

vẹm từ một số cá thể ở phía Bắc xứ Wales đã không phát triển ở 19 ‰ và đã có sự
tăng trưởng chậm tại 24 ‰, nhưng ở 30 - 32 ‰ tăng trưởng bình thường.
Ngô Thị Thu Thảo, Trương Trọng Nghĩa (2005) nghiên cứu ảnh hưởng của
nồng độ muối khác nhau đến tốc độ tăng trưởng của sò huyết giống Anadara granosa.
Kết quả trong hai tuần đầu tiên của thí nghiệm, sò nuôi ở nồng độ muối 15 ppt có tốc
độ sinh trưởng hàng ngày cao nhất kế đến ở 10 ppt và thấp nhất ở 5 ppt.
Mật độ nuôi
Mật độ nuôi ảnh hưởng lớn đến tốc độ sinh trưởng của nhuyễn thể 2 mảnh vỏ.
Nuôi ở mật độ càng cao thì tốc độ phát triển của cá thể sẽ chậm hơn nuôi ở mật độ
thấp hay ở mật độ thích hợp.
Theo Như Văn Cẩn, Chu Chí Thiết và Martin S Kumar (2009) mật độ nuôi ảnh
hưởng lớn tới sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của ngao. Đối với ngao giống với chiều dài
vỏ 1,7 cm, trong số 4 mật độ nuôi khác nhau 0,34; 0,68; 1,36 và 2,04 kg/m2, thì mật độ
cao hơn tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn cũng như tỷ lệ sống thấp hơn. Đối với ngao giống
cỡ nhỏ với chiều dài vỏ là 1,0 cm, trong các mật độ nuôi 0,05; 0,1; 0,2 và 0,3 kg/m2, tỷ
lệ tăng trưởng tốt hơn ở mật độ nuôi thấp hơn.
Độ sâu và dòng chảy
Những thông tin về ảnh hưởng của độ sâu nước lên sự tăng trưởng của nhuyễn
thể 2 mảnh vỏ xuất phát từ những nghiên cứu được thực hiện trên loài nghêu ở các vị
trí nuôi khác nhau. Nghêu nuôi ở gần bờ, nước nông có tốc độ tăng trưởng cao hơn và
kích cỡ tối đa hơn so với những cá thể nghêu ở các vùng nước sâu hơn. Ở vùng nước
nông, nhiệt độ tương đối cao và quan trọng hơn là có nguồn thức ăn phong phú hơn
vùng nước sâu. Tuy nhiên, mối quan hệ nghịch giữa tăng trưởng và độ sâu là không
phù hợp cho các mô (tissues) khác (Elizabeth Gosling, 2001).
14


Dòng chảy cũng ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhuyễn thể 2 mảnh vỏ vì
có liên quan đến sự cung cấp thức ăn. Dòng chảy ảnh hưởng đến tốc độ lọc, mật độ
thức ăn trong thủy vực. Dòng chảy mạnh hay yếu dẫn đến lượng thức ăn ít hay nhiều.

Dòng chảy còn ảnh hưởng tới tập tính mở miệng của nhuyễn thể (Elizabeth Gosling,
2001).
Các nhân tố khác
Ánh sáng cũng làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhuyễn thể 2 mảnh vỏ,
cụ thể là ở vẹm. Nuôi vẹm trong bóng tối kéo dài, giảm ánh sáng, hoặc chu kỳ quang
trong 7 giờ hoặc ít hơn, làm gia tăng tốc độ phát triển của vẹm đáng kể, có thể là do
hoạt động bắt mồi tăng (Ameyaw- Akumfi và Naylo, 1987, trích bởi Elizabeth
Gosling, 2001).
Dông tố cũng có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng. Ấu trùng trai
Mercenaria mercenaria, được duy trì mô phỏng trong điều kiện dông bão cho thấy tốc
độ tăng trưởng của vỏ giảm đến 40 % so với trong điều kiện sóng nhẹ nhàng (Turner
và Miller, 1991, trích bởi Elizabeth Gosling, 2001).
Các yếu tố khác cũng làm giảm tốc độ tăng trưởng nhuyễn thể 2 mảnh vỏ như
nước có chlorine (Thompson và ctv, 2000), nồng độ oxygen trong nước thấp (Baker và
Mann, 1992), sự nở hoa của tảo độc (Chauvaud và ctv, 1998), các chất gây ô nhiễm
môi trường (kim loại nặng, nước thải), vật ký sinh, sự ăn nhau.(Elizabeth Gosling,
2001).

15


×