Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

S KKN VE SINH CA NHAN 13

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.69 MB, 17 trang )

PHÒNG GD-ĐT QUẾ SƠN
TRƯỜNG MG HƯƠNG AN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC

SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM
ĐỀ TÀI:

“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC VỆ SINH CÁ
NHÂN CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI”

HỌ VÀ TÊN: VÕ THỊ HỒNG NHIÊN
CHỨC VỤ : TTCM, GIÁO VIÊN
ĐƠN VỊ
: TRƯỜNG MẪU GIÁO HƯƠNG AN


2

NĂM HỌC : 2013 – 2014
I. ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC VỆ SINH CÁ NHÂN
CHO TRẺ 5 -6 TUỔI.
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Có thể khẳng định rằng chăm sóc sức khỏe trẻ thơ là công việc của toàn
xã hội. Trẻ em nếu được chăm sóc, nuôi dưỡng và vệ sinh cá nhân tốt sẽ ít ốm
đau bệnh tật, phát triển tốt và dần trở thành một con người khỏe mạnh, góp
phần quan trọng vào việc phát triển trí tuệ cho trẻ mầm non và đó là một trong
những mục tiêu để thực hiện các nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục toàn diện trẻ


mầm non hiện nay.
Từ việc giáo dục vệ sinh cá nhân tốt cho trẻ sẽ giúp trẻ dần củng cố và
hoàn thiện các kĩ năng, kĩ xảo, trẻ trở nên thông minh, khéo léo cả đôi bàn tay
và trí óc từ đó trẻ biết tự giác lựa chọn, điều chỉnh hành vi, thói quen ăn uống,
vệ sinh phòng bệnh, luyện tập sức khỏe sao cho có lợi nhất cho sức khỏe của
bản thân.
Giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ còn tạo điều kiện hình thành thói quen
nhanh chóng hòa nhập vào công việc, làm cơ sở cho trẻ bước vào các hoạt
động nhận thức một cách có tổ chức, có sự chú ý để giải quyết một nhiệm vụ
có tính độc lập, có khả năng tự phục vụ bản thân trong đời sống sinh hoạt
hằng ngày.
Ngoài ra, việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ ngay từ lứa tuổi mẫu
giáo còn tạo ra sự liên thông giữa các bậc học. Đó là cơ sở, là tiền đề để xây
dựng nên những con người đầy đủ sức khỏe, trí tuệ và năng lực để đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Bên cạnh đó, hiện nay một số bệnh đang
diễn ra phức tạp và đặc biệt là những bệnh thường gặp ở trẻ như: Bệnh “tay chân - miệng”, bệnh “đau đỏ mắt”… những bệnh này nguyên nhân chính lay
lan ở trẻ là do vệ sinh cá nhân không tốt.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Điều quan trọng nhất đối với con người chúng ta hiện nay là sức khỏe,
có sức khỏe chúng ta mới có thể học tập và làm tốt công việc. Ngoài yếu tố di
truyền, chăm sóc sức khỏe, chế độ dinh dưỡng hợp lí thì phần lớn sức khỏe
phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc vệ sinh, bao gồm vệ sinh môi trường và vệ
sinh cá nhân. Đối với trẻ mầm non việc giáo dục ý thức vệ sinh cá nhân nhằm
giúp trẻ khỏe mạnh, có thói quen vệ sinh, có hành vi văn minh và phòng
chống bệnh tật. Việc làm này cần có sự kiên trì, tỉ mỉ của cô giáo, sự phối hợp
rèn luyện thói quen cho trẻ giữa gia đình và nhà trường, sự đầu tư trang thiết
bị chăm sóc vệ sinh và các điều kiện thuận tiện cho hoạt động vệ sinh của trẻ.
Không phải trẻ nhỏ nào cũng có thói quen biết rửa tay khi tay bẩn, biết
rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, biết đánh răng, rửa mặt đúng quy
trình… muốn tạo được thói quen cho trẻ thì nhiệm vụ của cô giáo là hết sức



3

quan trọng. Cô giáo phải thường xuyên rèn luyện và tạo thói quen cho trẻ với
nhiều hình thức.
Các hoạt động trong chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non rất
đa dạng và phong phú. Phát huy đặc trưng các môn học chúng ta phải thể hiện
hết chức năng là chăm sóc và giáo dục, hai chức năng này song song hòa
quyện với nhau, trong giáo dục có lồng ghép chăm sóc. Là giáo viên trực tiếp
giảng dạy các cháu, chăm lo cho các cháu từng bữa ăn, giấc ngủ đòi hỏi bản
thân tôi cần phải nắm bắt yêu cầu cụ thể để có kế hoạch hướng dẫn, rèn luyện
thói quen vệ sinh cá nhân cho các cháu một cách nhẹ nhàng và khéo léo.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ đã dược các cấp các ngành quan
tâm và đặc biệt là bậc học mầm non đã đưa vào áp dụng từ rất lâu. Trong thực
tế sau khi đưa vào áp dụng thì hiệu quả chưa cao, tỉ lệ trẻ mắc bệnh như: sâu
răng, giun sán, bệnh ngoài da… vẫn còn cao, cụ thể là trong đợt khám sức
khỏe lần 1 ở trường tôi do cơ sở y tế xã khám thì tỉ lệ trẻ xếp loại A là 35%,
loại B là 65%. Kết luận của các y, bác sĩ chủ yếu là trẻ bị bệnh về răng miệng,
giun sán và bệnh ngoài da.
Bể nước có vòi dành riêng cho lớp chưa có. Điểm trường có 4 lớp với
hơn 120 học sinh dùng chung 14 vòi nước, vì vậy rất khó khăn trong việc rèn
thao tác vệ sinh cá nhân cho trẻ và việc giám sát trẻ khi trẻ thực hành vệ sinh
cá nhân.
Bên cạnh đó việc quan tâm đến vệ sinh cá nhân cho trẻ ở một số phụ
huynh còn lơ là, chủ quan. Một số phụ huynh do bận công việc nên chưa chú
ý đến việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ hoặc phụ huynh có quan tâm
nhưng chưa thường xuyên, chưa kịp thời.
Là giáo viên dạy bán trú nhiều năm ở trường, có một thực tế làm tôi

luôn trăn trở đó là việc rèn thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ là một việc làm
hết sức khó khăn. Xác định nhiệm vụ cũng như trách nhiệm nặng nề của
mình, bản thân tôi lúc nào cũng canh cánh trong lòng phải làm thế nào để rèn
cho trẻ được thói quen rửa tay, rửa mặt, chải răng… một cách tự giác và đúng
quy trình.Với tinh thần trách nhiệm cao, lòng say mê nhiệt tình ham học hỏi.
Nên tôi tự hỏi mình rằng: Phải làm gì? Làm như thế nào? … để đưa ra những
biện pháp tối ưu nhất khi thực hiện chuyên đề giáo dục vệ sinh cá nhân cho
trẻ.
Từ lý do trên, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm là: “Một số biện
pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 5 – 6 tuổi ”.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ
và từ thực tế trẻ ở lớp, bản thân tôi đặc biết chú ý đến việc làm thế nào để giáo
dục vệ sinh cá nhân cho trẻ và làm thế nào để giảm tỉ lệ trẻ mắc bệnh do vệ
sinh cá nhân không tốt gây ra.


4

Ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp tôi đã bắt tay vào nghiên cứu
chuyên đề về “Giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 5 – 6 tuổi” do Vụ giáo dục
mầm non ban hành, các nội dung tuy không mới lạ nhưng đi vào chiều sâu,
với tầm quan trọng và yêu cầu nhiệm vụ của bậc học mầm non trong giai
đoạn phát triển kinh tế thời kì đổi mới của đất nước, sự đầu tư trang bị cơ sở
vật chất và đào tạo con người đáp ứng thời kì công nghiệp hóa - hiện đại
hóa…. Đòi hỏi mỗi giáo viên cần có sự đầu tư rèn luyện kĩ năng chăm sóc,
phục vụ cho bản thân trẻ, để trẻ có một sức khỏe toàn diện về thể chất - tinh
thần từ lứa tuổi mẫu giáo. Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục
vệ sinh cá nhân cho trẻ nên tôi đã quan sát, nghiên cứu để tìm ra những biện
pháp phù hợp nhất đối với trẻ như sau:

1. Biện pháp 1: Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng về giáo dục vệ sinh cá
nhân cho bản thân.
Để làm tốt công tác giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi, thì việc cần làm đầu tiên của bản thân tôi là bồi dưỡng kiến thức và các
kĩ năng thực hiện thao tác vệ sinh cá nhân của mình thật thuần thục. Thấy rõ
mục đích yêu cầu và tầm quan trọng của công việc đang làm, nắm vững nội
dung giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ và nguyên tắc hướng dẫn thực hành các
thao tác như: Rửa tay, lau mặt, chăm sóc răng miệng…cho trẻ. Tôi đã tự tìm
tòi các tài liệu có liên quan đến chuyên đề vệ sinh cá nhân để nghiên cứu, sau
đó cùng trao đổi với ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp để thực hiện.
Tôi thường tiến hành nghiên cứu, tìm tòi tư liệu vào thời gian nghỉ hè
khi không bận bịu lắm về công tác chuyên môn. Tôi học lí thuyết và xem lại
cách thực hành, sau đó tôi tiến hành áp dụng vào con của tôi ở nhà nhằm mục
đích ghi nhớ lâu hơn.
Nhờ sự hỗ trợ của BGH về trang bị một số tài liệu như: Bé giữ vệ sinh;
bé sạch, bé khỏe; thực hành vệ sinh; lô tô vệ sinh, tranh ảnh về rửa tay bằng
xà phòng, tranh các bước lau mặt. Qua thực hành thực tế dưới hình thức hoạt
động vui chơi, hoạt động lao động tự phục vụ, giúp cho trẻ ghi nhớ nhanh qua
các bài thơ, bài hát. Mặt khác tôi sưu tầm thơ, truyện, làm tập tranh có nội
dung giáo dục vệ sinh để ở góc thư viện cho trẻ xem, hay đọc cho trẻ nghe và
cùng trẻ xem tranh, trò chuyện về nội dung tranh … nhằm giúp trẻ nhớ tốt các
thao tác khi rửa tay, lau mặt…
Nhà trường cấp phát đầy đủ đồ dùng, dụng cụ cá nhân cho trẻ, yêu cầu
đồ dùng của trẻ đều phải có kí hiệu riêng để trẻ nhận biết và lấy đúng đồ dùng
cá nhân của mình. Vào đầu năm học, việc nhận biết kí hiệu cá nhân đối với
các cháu là một vấn đề hết sức khó khăn vì trẻ còn nhỏ, một số trẻ mới đến
trường lớp. Tôi đã tập cho trẻ nhận biết kí hiệu với nhiều hình thức khác
nhau: khi phát vở cho trẻ tôi hỏi về kí hiệu vở của trẻ hoặc đồ dùng có kí hiệu
gì? Nếu trẻ nhầm tôi nhắc lại cho trẻ nhớ. Khi trẻ lấy đúng đồ dùng thì tôi mới
cho trẻ thực hiện vệ sinh. Nếu trẻ không nhận biết được đồ dùng cá nhân thì

nguy cơ lây lan các bệnh về mắt, răng miệng là rất lớn.


5

Việc dạy cho trẻ nhận biết kí hiệu đã khó khăn thì việc dạy trẻ thực hành
vệ sinh không kém phần vất vả. Với hoạt động vệ sinh rửa tay với xà phòng,
đối với trẻ thao tác thật khó khăn. Trẻ chỉ thích “chơi với nước và xà phòng”
không theo hướng dẫn của cô vì trẻ chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc rửa
tay bằng xà phòng trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và rửa tay đúng cách.
Trước hết tôi trò chuyện với trẻ, dạy trẻ đọc các bài thơ về giáo dục vệ sinh.
Ví dụ: Bài thơ:
“Rửa tay”
Đã đến giờ ăn rồi
Rửa tay nhanh nhanh thôi!
Nhớ làm theo 7 bước
Xoa xà phòng đều tay
Xoay xoay từng ngón tay
Kỳ cọ mu bàn tay
Đan xen các ngón tay
Chụm 5 ngón xoay lòng
Mở nước rửa sạch tay
Lấy khăn lau khô tay. (Tự biên)
Tôi đặt những câu hỏi gợi mở cho trẻ trả lời:
+ Vì sao trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh phải rửa tay?
+ Vì sao phải rửa tay với xà phòng?
Tôi cho trẻ nói lên suy nghĩ của mình để trẻ ý thức và biết được tầm
quan trọng của việc rửa tay với xà phòng, cho trẻ thực hiện theo thao tác rửa
tay không có nước, rửa đúng quy trình, rửa thật sạch nhưng không bắn nước
ra ngoài và tiết kiệm nước, cho trẻ lần lượt ra rửa tay bằng xà phòng dưới vòi

nước sạch để tôi theo dõi, nhắc nhở trẻ hàng ngày, từ đó tạo thói quen cho trẻ.
Dần dần trẻ có ý thức tự giác biết cách rửa tay và giữ vệ sinh.
Ví dụ: Vào những ngày đầu năm học tôi dạy trẻ các bước rửa tay, cách
lau mặt, cách chải răng, sau đó cho trẻ thực hiện có sự theo dõi, giám sát của
tôi. Khi thấy trẻ đã thực hiện đúng các thao tác tôi cho trẻ tự thực hiện vệ sinh
cá nhân và theo dõi trẻ bằng cách quan sát từ xa hoặc khi trẻ đang thực hiện
vệ sinh tôi cố ý đi đến gần trẻ và quan sát xem trẻ có thực hiện đảm bảo chưa
khi không có tôi bên cạnh. Nếu trẻ chưa làm tốt tôi sẽ hướng dẫn trẻ và nhắc
nhở trẻ lần sau con phải chú ý thực hiện cho đúng để bàn tay hoặc hơi thở
thơm hơn, sạch sẽ hơn.
2. Biện pháp 2: Xây dựng kế hoạch giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ ở
lớp:
- Sau khi đã bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về giáo dục vệ sinh cá nhân
cho trẻ, tôi xây dựng cho mình một kế hoạch cụ thể để giáo dục vệ sinh cá
nhân cho trẻ ở lớp. Kế hoạch được cụ thể hóa từng tháng và đặc biệt chú ý đối
với những tháng đầu năm.
Ví dụ: + Tháng 8: “Tập cho trẻ thao tác rửa tay bằng xà phòng dưới
vòi nước sạch”. Trong thời gian ổn định lớp, tôi hướng dẫn cách rửa tay bằng


6

xà phòng dưới vòi nước sạch cho trẻ bằng cách cô làm mẫu nhiều lần kết hợp
với phân tích rõ ràng, cụ thể từng bước rửa tay. Tiếp theo tôi cho trẻ nhắc lại
cách rửa tay, cho trẻ rửa tay không nước, cháu nào rửa chưa đúng tôi sửa sai
kịp thời và cho cháu đó thực hành nhiều lần, tôi trò chuyện cùng trẻ về các
bước rửa tay ở mọi nơi, mọi lúc, đến khi nào cháu thực hành đúng thì thôi.
Cuối cùng tôi cho trẻ thực hành rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước sạch và
có sự giám sát của tôi.
+ Tháng 9: “Tập cho trẻ thao tác chải răng”. Đầu tiên tôi làm mẫu và

phân tích cách chải răng bằng mô hình hàm răng giả, tôi làm mẫu nhiều lần
cho cháu quan sát. Tiếp theo tôi mời từng cháu lên thực hành thao tác chải
răng bằng hàm răng giả và nói lại cách chải răng. Sau đó, tôi cho cháu thực
hành chải răng sau khi ăn. Để kiểm tra cháu thực hành có đúng thao tác chải
răng không, tôi lần lược cho từng cháu thực hành chải răng, tôi quan sát xem
cháu làm có đúng không, nếu cháu làm chưa đúng tôi kịp thời sửa sai cho
cháu và đến giờ hoạt động chiều tôi tiếp tục trò chuyện và hướng dẫn cháu đó
chải răng.
3. Biện pháp 3: “Tích hợp giáo dục vệ sinh cá nhân vào các hoạt
động”
a. Tích hợp giáo dục vệ sinh vào hoạt động học có chủ đích:
- Tôi tích hợp giáo dục vệ sinh cá nhân vào các hoạt động có chủ đích
trong từng môn học tùy theo từng chủ đề, đặc biệt chú trọng vào các chủ đề
trường mầm non, bản thân, gia đình…
Ví dụ: Hoạt động khám phá khoa học với đề tài “Tìm hiểu về cơ thể của
bé” tôi đã lồng ghép giáo dục vệ sinh vào bài dạy vừa nhẹ nhàng vừa lôi cuốn
trẻ, giúp trẻ nhớ lâu tôi đã lồng câu chuyện “Tại ai?” vào phần giới thiệu bài.
Câu chuyện có nội dung như sau:
“Một hôm, bạn Mũi tâm sự: Mấy hôm nay tôi bị ngứa như có con gì
nằm trong đấy. Còn Mắt thì vừa buồn vừa than: Tôi đỏ tấy lại còn nhức nữa
chứ. Không biết vì sao? Khi ra đường cô chủ đeo khẩu trang và kính che tụi
mình rồi mà! Mũi và Mắt tìm chưa ra nguyên nhân thì Miệng lên tiếng: “Tôi
nghe tâm sự của hai bạn rồi, các bạn biết không? Chỉ tại cô chủ, mấy hôm nay
cô chủ cho tay làm việc nhiều quá, nào là vẽ giữa sân, xếp hình, chơi đừa với
các bạn mà không chịu rửa tay còn ngoáy vào bạn Mũi, dụi vào bạn Mắt làm
các bạn đau và ngứa đó thôi. Để Miệng nói với cô chủ phải thường xuyên rửa
tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, khi chơi xong…kẻo còn
ảnh hưởng đến bạn Tai, bạn Bụng và cả tôi nữa đấy”. Mắt còn nói thêm: Nhờ
Miệng nói với cô chủ là: Khi nào dùng khăn lau chúng tôi phải nhớ rửa tay
thật sạch với xà phòng mới lấy khăn lau nhé, chúng tôi sợ đau lắm rồi”.

- Với chủ đề “Gia đình” tôi đã phối hợp cùng giáo viên âm nhạc lồng
ghép giáo dục vệ sinh cá nhân vào trong giờ giáo dục âm nhạc cho trẻ một
cách nhẹ nhàng, trẻ trả lời các gợi ý tôi đưa ra một cách hứng thú.


7

Ví dụ: Bài hát “Chiếc khăn tay” nhạc và lời “Văn Tấn”, chúng tôi
lồng giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ một cách nhẹ nhàng như: được mẹ tặng
chiếc khăn, bạn rất yêu quí chiếc khăn của mẹ tặng cho mình. Bạn dùng khăn
lau tay mỗi khi rửa tay xong, để đôi tay không bị bẩn thì áo quần, sách vở
cũng được sạch sẽ đấy các con ạ. Các con phải học tập bạn để giữ vệ sinh cơ
thể sạch sẽ nhé.
- Trong hoạt động tạo hình ở đề tài“Nặn quả” thuộc chủ đề “Ngành
nghề”, ngoài việc chuẩn bị đầy đủ cho trẻ về khăn để trẻ lau tay sau khi nặn,
tôi còn giáo dục trẻ yêu quí sản phẩm của bác nông dân làm ra. Khi mẹ mua
các loại quả về ăn, các con nhớ để mẹ rửa sạch, gọt vỏ trước khi ăn.
- Hoạt động làm quen với toán “Nhận biết, phân biệt to hơn, nhỏ
hơn”, tôi cho trẻ nhận biết, phân biệt to hơn - nhỏ hơn bằng đồ dùng vệ sinh
cá nhân của trẻ và bố mẹ như: khăn mặt to hơn dùng cho người lớn (bố, mẹ),
khăn mặt nhỏ hơn dùng cho người nhỏ. Bàn chải to hơn dùng cho người lớn,
bàn chải nhỏ hơn dùng cho trẻ nhỏ (con)… Từ đó, trẻ còn hiểu thêm người
lớn sử dụng đồ dùng to hơn, trẻ con sử dụng đồ dùng nhỏ hơn.
- Hoặc hoạt động làm quen văn học với bài thơ “Đôi mắt của em”, tôi
lồng giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ theo cách khác tránh sự lặp lại và nhàm
chán cho trẻ. Tôi cho trẻ trò chuyện về đôi mắt.
+ Đôi mắt giúp chúng ta những gì?
+ Nếu mắt bị bệnh, đau không nhìn thấy thì điều gì sẽ xảy ra?
+ Muốn cho đôi mắt sáng trong veo, không bị đau, các con phải làm
gì?

Từ đó, không những giúp trẻ tiếp thu bài nhanh mà còn hiểu được và
biết cách bảo vệ mắt như: không dụi tay bẩn lên mắt, rửa mặt thường xuyên
bằng nước sạch, đi ra đường phải có kính bảo vệ mắt…
b. Tích hợp giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày.
Thường xuyên giáo dục trẻ vệ sinh ở mọi lúc mọi nơi trong các hoạt
động vui chơi hay các hoạt động khác.
Giờ đón trẻ: Mỗi buổi sáng, trong giờ đón trẻ tôi trò chuyện với trẻ về
công việc sau khi trẻ thức dậy như cháu làm những công việc gì sau khi ngủ
dậy (nếu trẻ không trả lời được thì tôi nhắc trẻ sau khi ngủ dậy cháu phải chải
răng, súc miệng, rửa mặt).
+ Các con chải răng như thế nào? Mẹ cho con dùng loại kem có cay
không?
+ Sau khi chải răng xong con thấy miệng thế nào?
+ Các con có thích chải răng không? Vì sao?
+ Ở nhà các con có khăn lau mặt riêng để rửa mặt không?
+ Con tự lau mặt hay mẹ lau mặt cho con?
+ Khi lau mặt xong con thấy thế nào? Có thoải mái, sảng khoái
không?


8

Tôi cho trẻ nói lên suy nghĩ của mình như: vì sao con thích chải răng,
rửa mặt. Vì sao không thích? Sau đó tôi trò chuyện với trẻ về tầm quan trọng
của việc đánh răng, rửa mặt, vệ sinh cá nhân cho cơ thể sạch sẽ.
Hay trong giờ họp mặt đầu tuần, tôi tích hợp giáo dục vệ sinh cá nhân
cho trẻ bằng những câu chuyện ngộ nghĩnh, hay bài thơ thật gần gũi với trẻ,
trẻ rất hứng thú trong giờ họp mặt.
Ví dụ: Tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện “Bạn Lan bị sâu răng”.
“Mấy hôm nay Lan đến lớp cứ lấy tay ôm miệng khóc, cô và bạn

động viên, an ủi cũng không nín. Đến giờ ăn cơm, ăn cũng không được. Giờ
ngủ trưa hôm đó trong cơn mê man, mơ mơ tỉnh tỉnh bạn nghe Sâu mẹ nói với
lũ sâu con: “Các con ơi! Chúng ta sinh sống trong miệng cô bé này thật là
sung sướng. Nào là thịt, cơm, cá, bánh ngọt…bám đầy răng cô bé, chúng ta
tha hồ ăn no nê”.Tỉnh dậy bạn vô cùng hoảng sợ, kể cho cô và các bạn nghe
và nhớ ra rằng: Mấy hôm nay trời lạnh, ăn cơm xong,bạn rất lười đánh răng.
Vậy mà bố còn mua về cái bánh ga tô thật to có đầy bơ và kem, ngon thật, đây
là món khoái khẩu, ăn mãi cũng không chán. Nằm xem ti vi thế là ngủ quên
nên không đánh răng trước khi đi ngủ”. Hiểu ra mọi chuyện cô ân cần khuyên
nhủ bạn và nhắc cả lớp: “Các con phải đánh răng sau khi ăn xong và trước khi
đi ngủ, kẻo lũ sâu đục khoét lấy thức ăn dư bám vào răng, kẽ răng vừa đau
nhức lâu ngày sẽ bị sâu răng”
Hay tôi cho trẻ đọc bài thơ: “ Mèo và Bé”
Mèo ơi ! Rửa mặt
Sao phải dùng tay
Khăn vắt trên dây
Sao Mèo không lấy
Mèo quên rồi đấy
Bé chả thế đâu!
Phải có khăn lau
Vừa mau vừa sạch.
+ Vì sao Mèo không rửa mặt bằng khăn mà dùng bằng tay?
+ Dùng bằng tay có sạch không?
+ Sau khi rửa mặt các con lau mặt bằng gì?
Qua bài thơ trẻ hiểu phải sử dụng khăn sạch để rửa mặt, không được
rửa bằng tay vừa bẩn lại không hợp vệ sinh.
Trong giờ hoạt động ngoài trời như dạo chơi sân trường, tôi cho trẻ
quan sát các tranh tuyên truyền về giáo dục vệ sinh (Chải răng đúng cách, giữ
cho đôi mắt sáng, khỏe, thao tác rửa tay đúng…). (Hình minh họa số 1)
Hay trước giờ ăn, tôi thường xuyên nhắc nhở và cho trẻ rửa tay có sự

giám sát của cô, trẻ ăn xong đánh răng, vệ sinh cá nhân mới vào ngủ.
Khi trẻ ngủ dậy tôi không cho trẻ ra ăn ngay mà cho trẻ đi vệ sinh, sau
đó cho trẻ rửa tay, rửa mặt sạch sẽ cho tỉnh táo rồi sau đó mới ăn xế.


9

Trong giờ nêu gương cuối ngày, tôi thường xuyên chú trọng và đưa
tiêu chí thi đua “Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ”. Được các bạn trong
lớp bầu chọn và nhất trí thì sẽ được cắm cờ.
Tôi đã tạo môi trường vệ sinh trong lớp như vẽ những hình ảnh về
chăm sóc, giáo dục vệ sinh, quy trình rửa tay, rửa mặt, đánh răng vui ngộ
nghĩnh ở khu vực trẻ làm vệ sinh cá nhân.
Làm bảng tin tuyên truyền với nội dung phong phú, hình ảnh đẹp để
tuyên truyền đến các bậc phụ huynh và các cháu như hình ảnh hàm răng bị
sâu, hình ảnh các nốt nhỏ mầu đỏ trên tay, lưỡi, chân của bệnh tay chân
miệng. (Hình minh họa số 2)
4. Biện pháp 4: Tăng cường sự phối kết hợp giữa gia đình và nhà
trường:
Mục đích của việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ là phòng tránh một
số bệnh thường gặp ở trẻ và nhằm rèn cho trẻ thói quen vệ sinh văn minh bền
vững cho trẻ, trước hết tôi phải làm tốt công tác tuyên truyền để các bậc phụ
huynh nhận thức đầy đủ về mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc
giữ gìn vệ sinh cá nhân cho trẻ. Trong buổi họp đầu năm tôi tổ chức tuyên
truyền đến bậc phụ huynh bằng nhiều hình thức như: Thảo luận về ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc vệ sinh cá nhân cho trẻ, quy trình rửa tay bằng xà
phòng dưới vòi nước sạch, cách chải răng, cách lau mặt. Sau khi thảo luận, tôi
cùng giáo viên phụ trách lớp làm mẫu về các bước rửa tay bằng xà phòng
dưới vòi nước sạch, thực hành cách chải răng bằng mô hình hàm răng giả
(Hình minh họa số 3), cách lau mặt.... Và để giúp trẻ có thói quen tốt trong

việc vệ sinh cá nhân tôi yêu cầu mỗi phụ huynh nên sắm cho trẻ một số đồ
dùng cá nhân ở nhà như: Xà phòng, khăn mặt, bàn chải, kem đánh răng phù
hợp với trẻ, những đồ dùng đó phải để vừa tầm với của trẻ và cần chú ý tập
cháu làm vệ sinh đúng cách khi cháu ở nhà. (Hình minh họa số 4)
Trong giờ đón và trả trẻ tôi tuyên truyền với phụ huynh bằng nhiều
hình thức, trao đổi với phụ huynh những vấn đề mà trẻ hay mắc phải, đặt biệt
là đối với những trẻ không có thói quen rửa tay sau khi đi vệ sinh, khi tay bẩn,
rửa mặt không đúng quy trình, chải răng chưa đúng cách…qua những lần trao
đổi như vậy tôi thấy nhận thức của phụ huynh ngày cũng khác đi, phụ huynh
dần chú ý nhắc nhở cháu khi ở nhà, thói quen của trẻ cũng được thiết lập.
Thuận lợi cho cô hơn trong việc giáo dục tạo thói quen vệ sinh cá nhân cho
trẻ.
Làm tốt công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường để thống nhất
nội dung, phương pháp hướng dẫn vệ sinh, chăm sóc thân thể, từ đó hình
thành thói quen vệ sinh cá nhân tốt cho trẻ ở nhà và ở lớp một cách đồng nhất.
Ví dụ: Vào những ngày nghỉ tôi thường xuyên đến nhà phụ huynh để
cùng trò chuyện với phụ huynh về cách rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước
sạch, cách lau mặt, cách chải răng… và trò chuyện về lợi ích của việc giáo
dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Bên cạnh đó, tôi thường quan sát xem ở nhà trẻ


10

đã có những đồ dùng cá nhân như khăn mặt, bàn chải, xà phòng… chưa,
những đồ dùng cá nhân đó để có vừa tầm tay của trẻ không. Nếu phụ huynh
chưa sắm cho trẻ tôi tuyên truyền về tầm quan trọng của việc vệ sinh cá nhân
đối với sức khỏe của trẻ và yêu cầu phụ huynh sắm cho trẻ các đồ dùng cá
nhân gồm khăn mặt, bàn chải, xà phòng, kem đánh răng …phù hợp với trẻ để
trẻ thực hiện vệ cá nhân ở nhà.
Thực hiện tuyên truyền qua góc trao đổi với phụ huynh của lớp, khai

thác triệt để tác dụng của tranh, tài liệu tuyên truyền; sáng tạo các nội dung
tuyên truyền chăm sóc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Ngoài ra, cần có đủ
đồ dùng, phương tiện đảm bảo cho việc chăm sóc vệ sinh trẻ. Những đồ dùng
nên để đúng nơi quy định, thuận tiện để trẻ dễ lấy và đảm bảo an toàn cho trẻ
khi sử dụng. Nhấn mạnh vai trò nêu gương của người lớn trong gia đình, giúp
trẻ được sống trong môi trường sạch sẽ, tạo điều kiện cho trẻ thực hành và ghi
nhớ những điều đã học, từ đó sẽ hình thành những kĩ năng cần thiết cho trẻ
trong cuộc sống
Tuyên truyền đến các bậc phụ huynh thông qua góc tuyên truyền
trước lớp với nội dung phong phú và phải thay đổi thường xuyên, lựa chọn
nội dung tuyên truyền phải hay, hấp dẫn, đẹp và đặc biệt là những bệnh diễn
ra theo mùa như bệnh đau mắt đỏ, bệnh chân - tay - miệng, bệnh sâu răng …
tạo được sự chú ý cho phụ huynh.
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Trong thời gian nghiên cứu và đưa vào áp dụng các biện pháp giáo dục
vệ sinh cá nhân cho trẻ 5 - 6 tuổi vào các hoạt động trong chương trình chăm
sóc, giáo dục trẻ ở lớp, bản thân tôi nhận thấy trẻ ở lớp có nhiều kĩ năng, kĩ
xảo trong việc làm vệ sinh cá nhân, trẻ đã tự làm vệ sinh cá nhân khi tay bẩn,
kết quả khám sức khỏe lần 2 cho trẻ do y tế địa phương khám được nâng cao;
đa số phụ huynh đều nắm bắt được cách chăm sóc, giáo dục vệ sinh cá nhân
cho trẻ ở gia đình cụ thể như:
* Trẻ mạnh dạn, tự tin, năng động và hứng thú khi tham gia vào hoạt
động vệ sinh cá nhân
* Trẻ có nhiều tiến bộ trong việc tự giác làm vệ sinh cá nhân khi tay bẩn,
sau khi đi vệ sinh…, các cháu đã thật sự có thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân.
Trẻ biết lau mặt đúng cách… điều này đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực trong
việc chăm sóc sức khỏe trẻ, phòng chống, ngăn ngừa được nhiều bệnh tật.
- 90%- 95% trẻ có kĩ năng thao tác vệ sinh cá nhân, có hành vi văn
minh và hiểu rõ được ích lợi của việc vệ sinh cá nhân.
- 100% trẻ có ý thức tốt việc làm của mình và thực hiện thường xuyên

hoạt động vệ sinh cá nhân.
- Đa số phụ huynh phối hợp tốt với giáo viên trong các hoạt động giáo dục
vệ sinh cá nhân cho trẻ, đặc biệt giúp giáo viên duy trì thói quen, kĩ năng thực
hiện thao tác vệ sinh cho trẻ khi ở nhà.


11

- Qua 2 lần khám sức khỏe cho trẻ, tỷ lệ trẻ mắc các bệnh về mắt, răng,
da, giun sán…ở lần 2 giảm rõ rệt. Cụ thể như sau: tỉ lệ trẻ xếp loại A là 72%,
tỉ lệ trả xếp loại B là 28%
VII. KẾT LUẬN:
Sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên vào trẻ ở lớp, với kết quả
đạt được bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau:
- Chịu khó học hỏi, tham khảo sách báo, tạp chí mầm non, trên mạng
Internet…học tập ở đồng nghiệp để nắm vững các phương pháp rèn luyện kĩ
năng, phân tích nội dung bài dạy, cung cấp tri thức mới, phương pháp mới mà
mình mới học được, mạnh dạn trao đổi đồng nghiệp để tìm ra những phương
pháp, biện pháp mới linh hoạt sáng tạo hơn. Đồng thời mạnh dạn áp dụng
những phương pháp trong chương trình GDMN mới ở các tập san, chuyên đề
mà bản thân tự nghiên cứu và được bồi dưỡng.
- Thực hiện đúng chương trình thời gian biểu, không cắt xén chương
trình, báo cáo kịp thời và trung thực. Phát huy năng lực của tổ trưởng chuyên
môn, huy động giáo viên có năng khiếu, nhiệt tình làm đồ dung dạy học, đồ
chơi phù hợp với chuyên đề cho toàn trường học tập và làm theo.
- Nâng cao chất lượng giảng dạy ở các môn học và các hoạt động như
hoạt động góc, chăm sóc vệ sinh cá nhân, hoạt động ngoài trời, lao động tự
phục vụ.
- Tổ chức thực hiện thường xuyên hoạt động chăm sóc vệ sinh cá nhân
cho trẻ.

- Kiểm tra, nhắc nhở, uốn nắn kịp thời các thao tác sai cho trẻ.
- Phối hợp các biện pháp thi đua, khen thưởng để tạo hứng thú và nâng
cao chất lượng chuyên đề.
VIII. ĐỀ NGHỊ:
Giáo dục trẻ có ý thức tự chăm sóc phục vụ vệ sinh cá nhân là một việc
làm phù hợp, mang lại nhiều lợi ích thiết thực góp phần giúp trẻ khỏe mạnh
và phát triển toàn diện, trẻ sẽ trở thành những chủ nhân tương lai với cách
sống văn minh, trí tuệ. Để làm tốt vấn đề này, tôi kính đề nghị Ban giám hiệu
trường tạo điều kiện cho bản thân tôi được tham quan, học hỏi ở các đơn vị
bạn về việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ, có kế hoạch xây cho lớp tôi các
vòi riêng để tiện cho việc làm vệ sinh cá nhân ở trẻ và sự quan sát, hướng dẫn
của cô được thuận lợi, dễ dàng hơn.
Giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ đã góp phần nâng cao sức khỏe, tăng
cường thể lực và trí tuệ cho trẻ, giúp trẻ trở thành một người lao động tài giỏi
trong tương lai.
Trên đây là một số kinh nghiệm giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 5 -6
tuổi, trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những sai sót, kính mong hội
đồng xét duyệt cùng đồng nghiệp góp ý, tôi xin chân thành cảm ơn.


12

Hương An, ngày 10 tháng 03 năm
2014.
Người viết.
VÕ THỊ HỒNG NHIÊN
IX. PHỤ LỤC:


13


Hình minh họa số 1


14

Hình minh họa số 2

Hình minh họa số 3


15

Hình minh họa số 4
X. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
Tài liệu về chăm sóc sức khỏe cho trẻ mầm non.
Mạng Internet.
Tài liệu về dinh dưỡng và sức khỏe cho trẻ.
Tài liệu về chăm sóc sức khỏe và vệ sinh trẻ em


16

XI. MỤC LỤC:
Trang
1. Tên đề tài……………………………………………………….. 1
2. Đặt vấn đề………………………………………………………. 1
3.Cơ sở lý luận…………………………………………………….. 1
4. Cơ sở thực tiễn………………………………………………….. 2

5. Nội dung nghiên cứu……………………………………………. 2
- Biện pháp 1: Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về giáo dục vệ sinh cá
nhân cho bản thân………………………………………………………… 3
- Biện pháp 2: Xây dựng kế hoạch giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ ở
lớp……………………………………………………………………… …4
- Biện pháp 3: Tích hợp giáo dục vệ sinh cá nhân vào các hoạt động:
+ Tích hợp giáo dục vệ sinh vào hoạt động học có chủ đích……….5
+ Tích hợp giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày….6
- Biện pháp 4: Tăng cường sự phối kết hợp giữa gia đình và nhà
trường………………………………………………………………………8
6. Kết quả nghiên cứu……………………………………………….9
7. Kết luận…………………………………………………………...9
8. Đề nghị…………………………………………………………...10
9. Phần phụ lục……………………………………………………...11


17

10.Tài liệu tham khảo……………………………………………….14
11. Mục lục………………………………………………………….15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×