Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.07 KB, 13 trang )

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1 – LUẬT K40C

1. Nguyễn Thị Lài
2. Nguyễn Thị Mỹ Uyên
3. Đặng Thị Mỹ Duyên
4. Võ Thanh Huyền
5. Nguyễn Thị Trâm Anh
6. Trần Thị Hà
7. Nguyễn Thị Thanh Nhàn
8. Phạm Thị Phương
9. Đặng Thị Ngọc Anh
10.Võ Thị Mỹ
11.Phạm Ngọc Huyền Trang
12.Đinh Đức Hiệp
13.Mai Văn Đức


Chủ đề 1
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật
Dân sự 2015
A. Phần mở đầu
Hợp đồng là một trong những chế định pháp lí có bề dày lịch sử, là nền tảng của
các giao dịch dân sự và hoạt động kinh doanh thương mại trong phạm vi khu vực
cũng như trên thế giới. Cùng với đó xu hướng chung của thế giới hiện nay là mở
cửa hội nhập toàn cầu hóa và khu vực hóa đời sống kinh tế quốc tế, sự liên kết về
kinh tế và thương mại giữa các quốc gia tăng và mở rộng, Việt Nam cũng nằm
trong xu thế đấy. Điển hình là chúng ta đã gia nhập rất nhiều tổ chức quốc tế như:
AFTA ( Khu vực tự do thương mại ASEAN), WTO ( Tổ chức thương mại thế giới),
TPP( Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương), ASEAN ( Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á), APEC ( Diễn đàn Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương).
Tình hình đó đặt ra cho chúng ta những cơ hội và thách thức nhất định, khi đó


chúng ta cần phải tìm cách hội nhập và vượt qua. Song, có thể khẳng định rằng, hội
nhập kinh tế quốc tế đã tạo đà cho nền kinh tế phát triển, mang lại những thuận lợi
lớn cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Theo xu thế ấy, ngày nay hợp đồng đóng một
vai trò hết sức quan trọng , nó được thể hiện trong hầu hết các quan hệ của các bên
trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, tài chính, dịch vụ,... hợp đồng đã trở thành một công
cụ pháp lí vững chắc để xác lập quan hệ giữa các chủ thể phát sinh từ các giao dịch
dân sự, kinh tế, đồng thời là công cụ, phương tiện, là cơ sở để chúng ta giải quyết
các tranh chấp khi có mâu thuẫn xảy ra giữa các bên.
Để làm rõ hơn về vấn đề này, đồng thời để ta có một cái nhìn khái quát và toàn
diện hơn, đánh giá được, nhận thức đúng đắn và đầy đủ về điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng, nhóm 1 đã chọn đề tài: “Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo
quy định của Bộ luật Dân sự 2015.” Đây là vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn
hết sức to lớn trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự trong tình hình hiện nay.
B. Phần nội dung


I. Khái quát chung về hợp đồng
1. Khái niệm
Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực
hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu trong đời sống xã hội. Tuy
vậy, trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra một thuật ngữ chính xác, như
thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng ở nhiều quốc gia hiện nay là việc không
mấy dễ dàng. Nhiều quốc gia cho rằng thuật ngữ “ hợp đồng” (contractus) hình
thành từ động từ “contrahere” trong tiếng La- tinh, có nghĩa là “ràng buộc” , và
xuất hiện lần đầu ở La Mã vào khoảng thế kỷ V-IV trước công nguyên.
Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có rất nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng
để chỉ về hợp đồng như: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, tờ giao ước, tờ ưng
thuận, chấp thuận… Sau này, các văn bản hiện hành của nhà nước ta không còn
được sử dụng thuật ngữ “khế ước”, hay “hiệp ước” như trước đây mà sử dụng các
thuật ngữ có tính “chức năng”, “công cụ”3 như hợp đồng dân sự, hợp đồng lao

động, hợp đồng thương mại. Đây là điểm cá biệt bởi trong pháp luật của nhiều
nước, người ta chỉ sử dụng thuật ngữ “hợp đồng” nói chung, chứ không sử dụng
thuật ngữ hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động… một cách
cụ thể như pháp luật Việt Nam. Khác với BLDS 2005 khái niệm về hợp đồng dân
sự thì BLDS 2015 đưa ra khái niệm về hợp đồng nói chung, theo Điều 385 BLDS
2015 thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia thỏa thuận.”
2. Bản chất của hợp đồng
Dù được hình thành trong lĩnh vực quan hệ xã hội nào thì hợp đồng luôn có những
đặc điểm chung: hợp đồng là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện của các bên tham
gia hợp đồng, hợp đồng phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết,
các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng chủ yếu gắn bó với lợi ích vật chất của các
bên giao kết. Thứ nhất, hợp đồng là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện của các bên
tham gia giao kết. Thứ hai, hợp đồng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia giao kết. Thứ ba, các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng chủ yếu gắn với
lợi ích vật chất của các bên giao kết.


Hợp đồng dân sự trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp đồng phải chứa
đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự trùng hợp ý chí của các bên. Việc
giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng tự do giao kết hợp đồng, nhưng không
được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Yếu tố thoả thuận đã bao hàm trong nó yếu
tố tự nguyện, tự định đoạt và sự thống nhất về mặt ý chí. Đây là yếu tố quan trọng
nhất tạo nên sự đặc trưng của hợp đồng so với các giao dịch dân sự khác.
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự nguyện bình đẳng Hợp đồng
được xác lập dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên, thông qua bàn bạc, thống nhất về
các điều khoản trong nội dung hợp đồng. Tuy nhiên, có một số loại hợp đồng
không có sự biểu hiện bàn bạc, dường như chỉ là một bên đơn phương ấn định điều
khoản của hợp đồng còn bên kia có thể chấp nhận hay không chấp nhận điều khoản

ấy. VD: HĐ dịch vụ bưu chính viễn thông…Đối với những loại hợp đồng này
không phải là không có sự thỏa thuận giữa các bên mà thực ra đây là một dạng
biểu hiện khác của sự thỏa thuận. Sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng chính
là sự thống nhất ý chí giữa các bên, vì thế các bên có thể cùng nhau xây dựng các
điều khoản trong nội dung hợp đồng hoặc một bên tự xây dựng các điều khoản sau
đó bên kia ưng thuận. Hợp đồng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa
vụ của các bên Mọi hợp đồng dân sự đều là sự thỏa thuận giữa các bên tham gia.
Nhưng không phải mọi sự thỏa thuận giữa các bên đều là hợp đồng dân sự. Sự thỏa
thuận giữa các bên mới chỉ là điều kiện cần, muốn hình thành nên một hợp đồng
dân sự thì phải đáp ứng được điều kiện đủ đó là sự thỏa thuận nhằm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
II. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015
1. Lý luận chung về điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng dân sự
Từ điển luật học đưa ra khái niệm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: là
các yếu tố cần và đủ được pháp luật qui định để giao dịch dân sự được công nhận
trước pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Theo quy định tại
Điều 121 BLDS 2015 thì hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự nên có thể
hiểu như sau: Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự là các yếu tố cần và đủ


được pháp luật qui định để hợp đồng được công nhận trước pháp luật và bảo về
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.
Vì hợp đồng cũng là một loại giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 116 BLDS
2015: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” nên điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 BLDS 2015 cũng chính là diều
kiện có hiệu lực của hợp đồng:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập.

b) Chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
c) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định.”
Qui định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự có ý nghĩa pháp lý rất quan
trọng.
-Thứ nhất, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các bên tham gia. Việc quy định
các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng giúp nâng cao ý thức, trách nhiệm của các
bên khi tham gia, đồng thời bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. VD: hợp
đồng được xác lập do lừa dối, đe dọa sẽ bị tuyên bố vô hiệu, bảo vệ quyền lợi của
bên bị lừa dối, đe dọa. Bởi vì hợp đồng vi phạm điều kiện “Người tham gia giao
dịch hoàn toàn tự nguyện”.
- Thứ hai, góp phần ổn định quan hệ dân sự nói riêng và quan hệ xã hội nói chung.
Theo đó có thể xác định, một HĐMBHH có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau
đây:
- Một là, chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập để thực hiện nghĩa
vụ theo hợp đồng.


- Hai là, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
- Ba là, Sự tự nguyện của các chủ thể, trong giao kết hợp đồng các bên phải
hoàn toàn tự nguyện đó là tự do ý chí nhằm bảo đảm hiệu lực của hợp đồng
trên thực tế phù hợp với ý chí đích thực của các bên. Nếu khác đi thì không
còn là hợp đồng.
- Bốn là, hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật (nếu
pháp luật có quy định). Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời
nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại

hợp đồng mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân
theo các quy định đó. Theo đó, đối với những trường hợp pháp luật quy định
hợp đồng phải được lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị
tương đương thì các bên phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Nếu các
bên không lập bằng văn bản thì đó có thể được coi là căn cứ tuyên bố hợp
đồng vô hiệu.
2. Thực trạng quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
theo Bộ luật Dân sự 2015
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thiện chí, ngay tình trong quan hệ
dân sự, trước đây, BLDS năm 2005 quy định kéo dài thêm một thời hạn nhất định
để các bên tự mình khắc phục, sửa chữa những thiếu sót về mặt hình thức. Cụ
thể,trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc
các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên
thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó
mà không thực hiện thì Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 143 BLDS năm
2005). Quy định này khá linh hoạt, thể hiện sự tôn trọng tự do ý chí của chủ thể,
góp phần hạn chế rủi ro pháp lý trong việc tuyên bố giao dịch vô hiệu; tuy nhiên,
xét cho cùng thì nó vẫn chưa mang tính đột phá trong cách thức giải quyết vấn đề
này.
Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ 01/7/2016) đã có những cách tiếp cận rất
mới, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền công dân, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng
hơn, ổn định hơn trong giao lưu dân sự, thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sản
xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường; hạn chế sự can thiệp của cơ quan
công quyền vào quan hệ dân sự; bảo đảm sự ổn định của giao dịch dân sự, các
quan hệ liên quan và hạn chế sự không thiện chí của một bên trong việc lợi dụng


việc không tuân thủ quy định về hình thức để không thực hiện cam kết của mình.
Theo đó, BLDS năm 2015 vẫn kế thừa BLDS năm 2005 khi quy định giao dịch

dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, nhưng lần
đầu tiên ghi nhận các ngoại lệ để Tòa án có thể công nhận giao dịch dân sự không
tuân thủ quy định về hình thức có thể được công nhận hiệu lực như sau:
Theo quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015, giao dịch dân sự vi phạm quy định
điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn
bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa
án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt
buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa
án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các
bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Theo quy định của Điều 129 BLDS nêu trên, chúng ta có thể thấy một số vấn đề
sau đây:
Thứ nhất, hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao
dịch. Có hai trường hợp giao dịch được coi là không tuân thủ về hình thức,đó là:
Văn bản giao dịch không đúng quy định của pháp luật và văn bản giao dịch vi
phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực. Như vậy, giao dịch dân sự đã
được xác lập giữa các bên, trước hết, phải được thể hiệnbằng văn bản vàtrường hợp
giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu
theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử cũng được coi là giao dịch bằng
văn bản (khoản 1 Điều 119 BLDS năm 2015). Giao dịch dân sự được thể hiện bằng
lời nói, bằng hành vi cụ thể thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật này.
Ở đây, cần xác định rõ thế nào là giao dịch bằng văn bản nhưng văn bản đó không
đúng quy định của luật,vì hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn vấn đề này. Theo
cách hiểu thông thường thì giao dịch đúng quy định của luật là giao dịch tuân thủ
các nội dung mà pháp luật quy định. Chẳng hạn, hợp đồng có thể có các nội dung
nội sau đây: Đối tượng của hợp đồng; số lượng, chất lượng; giá, phương thức

thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ
của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; phương thức giải quyết tranh chấp
(Điều 398 BLDS năm 2015).Hợp đồng vay có các nội dung như: Nghĩa vụ của bên


cho vay, nghĩa vụ trả nợ của bên vay, lãi suất, sử dụng tài sản vay (các điều 466,
467, 468 BLDS năm 2015)…; và một số loại hợp đồng theo quy định của luật
chuyên ngành cũng có những nội dung bắt buộc.Cụ thể, theo Điều 18, Luật Kinh
doanh bất động sản năm 2014 thì nội dung hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê
mua nhà, công trình xây dựng phải có các nội dung chính sau đây: Tên, địa chỉ của
các bên; các thông tin về bất động sản; giá mua bán, cho thuê, cho thuê
mua;phương thức và thời hạn thanh toán; thời hạn giao, nhận bất động sản và hồ sơ
kèm theo; bảo hành; quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng; phạt vi phạm hợp đồng; các trường hợp chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng và các
biện pháp xử lý; giải quyết tranh chấp; thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Như
vậy, quy định về các nội dung của hợp đồng trong BLDS năm 2015 và Luật chuyên
ngành chưa có sự thống nhất. Bộ luật Dân sự không yêu cầu hợp đồng phải có các
nội dung bắt buộc, mà chỉ quy định mang tính tùy nghi là “có thể có các nội dung”,
trong khi Luật Kinh doanh bất động sản thì quy định các nội dung mang tính bắt
buộc.
Những văn bản bắt buộc phải công chứng, chứng thực được quy định trong BLDS
và các văn bản luật chuyên ngành. Theo khoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015:
Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có
công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó. Theo đó, những
giao dịch pháp luật bắt buộc phải có công chứng, chứng thực như: Trường hợp mua
bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà
ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng (khoản 1 Điều
122 Luật nhà ở năm 2014); hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (khoản 3
Điều 167 Luật Đất đai năm 2013); giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có công

chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy
định của pháp luật về chứng thực (Điều 10, Thông tư 15/2014/TT- BCA quy định
về đăng ký xe)… Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015 thì nếu các
bên vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các
bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của
một bên hoặc các bên, khi giải quyết thì Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực
của giao dịch đó và các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Thứ hai, điều kiện để văn bản không tuân thủ hình thức được Tòa án ra quyết định
công nhận hiệu lực là một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa
vụ trong giao dịch. Theo Điều 274 BLDS năm 2015: Nghĩa vụ là việc mà theo đó,
một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao
vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc


không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).Theo đó, đối tượng của nghĩa vụ là tài
sản, công việc phải thực hiện hoặc không thực hiện, và đối tượng phải xác định
được. Quy định đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch có thể
hiểu là:
1. Một bên hoặc các bên đã chuyển giao ít nhất hai phần ba vật (nếu là vật cùng
loại thì phải giao ít nhất 2/3 số lượng với chất lượng như đã thỏa thuận là hợp lý),
nhưng với vật đặc định hoặc vật đồng bộ thì việc xác định 2/3 nghĩa vụ sẽ gặp khó
khăn.
2. Đã chuyển giao ít nhất hai phần ba quyền.
3. Một bên hoặc các bên đã trả ít nhất hai phần ba tiền hoặc giấy tờ có giá.
4. Một bên hoặc các bên đã thực hiện hoặc không thực hiện ít nhất hai phần ba
công việc đã thỏa thuận. Tuy nhiên, việc xác định thế nào cho chính xác một hoặc
các bên đã thực hiện hai phần ba nghĩa vụ sẽ gặp khó khăn trong thực tiễn giải
quyết, dễ dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng khi chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.

Thứ ba, không phải việc một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba
nghĩa vụ trong giao dịch thì giao dịch đó đương nhiên có hiệu lực, mà cần có thêm
điều kiện là phải thông qua con đường Tòa án. Cụ thể là, theo yêu cầu của một bên
hoặc các bên, sau khi xem xét đầy đủ các điều kiện của giao dịch như đã nêu trên
thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
BLDS năm 2015 vẫn ghi nhận hình thức là một điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự theo tinh thần của BLDS năm 2005. Tuy nhiên, khi các bên giao dịch đã
đáp ứng những điều kiện nhất định do luật dự liệu (một bên hoặc các bên đã thực
hiện toàn bộ nghĩa vụ trong giao dịch) thì giao dịch dù có vi phạm về hình thức vẫn
được Tòa án công nhận hiệu lực pháp lý, làm cơ sở để phát sinh quyền và nghĩa vụ
của các bên. Quy định này là một sự thay đổi linh hoạt về tiêu chí đánh giá hiệu lực
pháp lý giao dịch dân sự so với BLDS năm 2005.
BLDS năm 2015 đã giải thoát điều kiện tuân thủ về hình thức trong mọi trường
hợp của BLDS năm 2005 để bảo vệ đến cùng quyền và lợi ích hợp pháp người
tham gia giao dịch có ý chí tự nguyện thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong giao dịch.
Đây là một giải pháp nhằm hạn chế cơ hội việc một bên không tự nguyện tham gia
giao dịch, lại viện dẫn lý do vi phạm về hình thức của giao dịch để hủy toàn bộ
giao dịch khi giá trị của đối tượng hợp đồng biến động có lợi hơn cho bên không
thiện chí tham gia.


Về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình, so với quy định trong BLDS năm 2005,
BLDS năm 2015 đã được ban hành theo hướng bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự. Quyền và lợi ích của
người thứ ba ngay tình được bảo vệ trong trường hợp “nhận được tài sản thông qua
bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau
đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa”
(tương tự quy định BLDS năm 2005).
Thứ nhất, Bộ luật dân sự 2015 không chỉ đề cập đến năng lực hành vi dân sự mà

còn đề cập đến năng lực pháp luật của chủ thể. Quy định như vậy chặt chẽ hơn so
với Bộ luật dân sự 2005 vì có những trường hợp năng lực pháp luật của chủ thể có
thể bị hạn chế do đó không thể mặc nhiên cho rằng mọi chủ thể đều có năng lực
pháp luật như nhau khi xác lập giao dịch dân sự. Thứ hai, Bộ luật dân sự 2015 quy
định cụ thể về năng lực hành vi dân sự của chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự
Cả hai bộ luật đều ghi nhận: Năng lực hành vi dân sự của một người được chia làm
ba trường hợp:
– Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (người từ đủ 18 tuổi, không bị hạn chế
hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự);
– Người có năng lực hành vi dân sự nhưng không đầy đủ (từ đủ 6 tuổi đến dưới 18
tuổi hoặc người đủ 18 tuổi bị hạn chế năng lực hành vi dân sự);
– Người không có năng lực hành vi dân sự (ngưới dưới 6 tuổi, người mất năng lực
hành vi dân sự). Pháp luật quy định người không có năng lực hành vi dân sự thì
không được xác lập giao dịch dân sự, người có năng lực hành vi dân sự nhưng
không đầy đủ có thể thực hiện một số giao dịch nhất định (thường là giao dịch
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày), người có năng lực hành vi dân sự
được xác lập mọi giao dịch dân sự. Như vậy, tùy vào từng giao dịch dân sự cụ thể
mà điều kiện về năng lực của chủ thể cũng có sự khác nhau. Như vậy, quy định
như Bộ luật dân sự 2015 "Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập" hợp lý và chặt chẽ hơn so với
quy định của Bộ luật dân sự 2005.
3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng.


Việc áp dụng các quy định về điều kiện ý chí của chủ thể khi tham gia hợp đồng
dân sợ còn nhiều vướng mắc, thiếu các quy định của pháp luật gây khó khăn cho
quá trình giải quyết các tranh chấp tại TAND, đó là :
- Thứ nhất, đối với việc xác định hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn Điều
126, BLDS 2015 chỉ đưa ra các nguyên nhân có thể dẫn đến sự nhầm lẫn

trong hợp đồng mà không đưa ra khái niệm về nhầm lẫn đến một thực tế khi
giải quyết tranh chấp có liên quan đến vấn đề này Tòa án tuyên hợp đồng vô
hiệu do nhầm lẫn nhưng lại không giải thích được tại sao lại có sự nhầm lẫn
đó. Trong thực tế có không ít trường hợp Tòa án xác định có nhầm lẫn
nhưng phân tích kỹ thì kết luận về sự tồn tại hay không tồn tại nhầm lẫn có
thể khác. Mặt khác, quy định tại Điều 126 BLDS 2015 chỉ thừa nhận nhầm
lẫn đơn phương mà không công nhận nhầm lẫn song phương là yếu tố dẫn
đến hợp đồng dân sự vô hiệu. Song trên thực tế không hiếm những trường
hợp cả hai bên cùng nhầm lẫn mà không thể suy luận rằng ai trong hai bên
có lỗi. Và trong trường hợp đó nếu không tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì
không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp
đồng. Một điểm bất cập nữa là chưa nhấn mạnh đến mức độ nghiêm trọng
của nhầm lẫn dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng nhằm tránh các trường hợp
bị nhầm lẫn do cẩu thả hoặc do sự bất cẩn đến nghiêm trọng trong xác lập
hợp đồng. Nói cách khác quy định về nhầm lẫn theo Điều 126 BLDS 2015
chưa có cái nhìn khách quan về việc xem xét lỗi của các bên tham gia hợp
đồng dẫn đến hậu quả pháp lý không công bằng cho các bên.
- Thứ hai, đối với việc xác định hợp đồng được xác lập do bị lừa dối , đe dọa,
cưỡng ép Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp tại TAND việc xác định 1
hợp đồng được xác lập do bị lừa dối còn gặp không ít vướng mắc. Bởi quy
định tại Điều 127 BLDS 2015 thì sự lừa dối được coi là yếu tố dẫn đến hợp
đồng vô hiệu chỉ được giới hạn trong phạm vi lừa dối: “chủ thể, tính chất
của đối tượng, nội dung của hợp đồng” . Mà trên thực tế lại không có ít
những trường hợp lừa dối về mục đích, động cơ. Nếu chỉ căn cứ vào quy
định tại Điều 127 BLDS 2015 thì trường hợp đó sẽ không được xử lý. Tuy
nhiên nếu giải quyết thì quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị lừa dối trong
trường hợp này sẽ không được đảm bảo, vô hình chung pháp luật đã tiếp tay
cho hành vi lừa dối của một bên. Quy định về hợp đồng vô hiệu do bị đe dọa



tại Điều 127 BLDS 2015 còn hạn chế. Ngoài sự đe dọa liên quan trực tiếp
đến tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người tham gia
hợp đồng, chỉ có sự đe dọa nhằm gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, uy tín, nhân phẩm và tài sản của mình hoặc của người thân thích của
mình được coi là yếu tố có thể dẫn đến vô hiệu. Ngoài ra trên thực tế nhiều
trường hợp người bị de dọa mặc dù không phải là người thân thích nhưng lại
là người có vị trí quan trọng đối với người xác lập hợp đồng như người yêu,
bạn bè…Trong những trường hợp như vậy khiến các Thẩm phán lúng túng
trong việc quyết định tuyên hay không tuyên hợp đồng đó là vô hiệu.
- Thứ ba, Đối với việc xác định hợp đồng được xác lập do không tuân thủ quy
định về hình thức. Từ thực tiễn cho thấy, trong thời gian gần đây xảy ra
nhiều trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ về mặt hình thức, đặc biệt
là trong lĩnh vực đất đai, khi chuyển quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn
liền với đất. Đây là vấn đề phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo
dài, gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết thỏa đáng và cũng dễ dẫn
đến tình trạng tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật tuyên bố giao dịch dân
sự vô hiệu, từ đó gây lên những hệ lụy trong giải quyết hậu quả pháp lý của
giao dịch vô hiệu. Tình trạng này có nhiều nguyên nhân, trước hết là nhận
thức của một bộ phận người dân về pháp luật dân sự còn hạn chế; quy định
của BLDS là giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ về hình thức vẫn
còn chung chung, trong khi hình thức của từng loại giao dịch dân sự nằm rải
rác trong các chương, điều của BLDS, các luật và văn bản dưới luật. Điều
này đã gây khó khăn cho việc tiếp cận các quy định trong các văn bản pháp
luật để xác định hình thức của giao dịch.

C. Phần kết luận


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-


Bộ luật Dân sự năm 2005
Bộ luật Dân sự năm 2015
Luật nhà ở năm 2014
Luật Đất đai năm 2013
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014
Thông tư 15/2014/TT- BCA quy định về đăng ký xe
/>- />


×