Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

Nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thủy sản ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 186 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
------------------

MAI THỊ DIỆU HẰNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THỦY SẢN VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ


HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
------------------

MAI THỊ DIỆU HẰNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THỦY SẢN VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng


Mã số

: 9.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. VŨ VĂN NINH
2. PGS, TS. ĐỖ VĂN THÀNH

HÀ NỘI - 2019


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình
nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các tài liệu, kết quả
trình bày trong luận án là trung thực có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả

Mai Thị Diệu Hằng


ii

MỤC LỤC
Trang



iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BEP
CPBH
CPQLDN
CPTC
DN VNN
DN
DNCP
DNNN
DNTNHH-TN
DT
HQKD
KT-XH
LN
NPT
NSNN
ROA
ROE
ROS
SWOT
TNXH
TS
TSDH
TSNH
TTCK
TTS

VCSH

: Tỷ suất sinh lời kinh tế cuả tài sản
: Chi phí bán hàng
: Chi phí quản lý doanh nghiệp
: Chi phí tài chính
: Doanh nghiệp
: Doanh nghiệp
: Doanh nghiệp cổ phần
: Doanh nghiệp nhà nước
: Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn - tư nhân
: Doanh thu
: Hiệu quả kinh doanh
: Kinh tế xã hội
: Lợi nhuận
: Nợ phải trả
: Ngân sách nhà nước
: Lợi nhuận ròng trên tài sản
: Lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu
: Lợi nhuận ròng trên doanh thu
: Streng-Weakness-Opportunity-Threat.
: Trách nhiệm xã hội
: Thủy sản
: Tài sản dài hạn
: Tài sản ngắn hạn
: Thị trường chứng khoán
: Tổng tài sản
: Vốn chủ sở hữu



iv

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang


v

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế của tất cả các quốc gia hiện nay doanh nghiệp (DN) giữ vai
trò then chốt. Với tư cách là các công dân được pháp luật cho phép thành lập, tồn tại
và phát triển thì mục tiêu của các doanh nghiệp là phục vụ sự phát triển của xã hội.
Sự đáp ứng đúng các nhu cầu cho các chủ thể kinh tế xã hội khác nhau là con đường
chung để các nhà đầu tư vào DN tìm kiếm lợi nhuận và thực hiện các mục tiêu của
mình. DN nào càng đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, DN đó càng có cơ hội tồn tại lâu
dài và phát triển mạnh mẽ, nhà đầu tư vào DN có lợi nhuận tốt và bền vững. Khi đó,
các nhà kinh tế nhìn nhận là DN hoạt động hiệu quả cao, đóng góp vào sự hiệu quả
của cả nền kinh tế quốc gia, đa quốc gia và toàn thế giới.
Dù hoạt động kinh doanh dù ở lĩnh vực nào, kinh doanh hiệu quả là nhiệm vụ
quan trọng mà các DN phải đạt được. Nâng cao được hiệu quả kinh doanh (HQKD)

là điều kiện cần giúp doanh nghiệp nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình trên
thị trường, thực hiện được các mục tiêu lợi nhuận hay phát triển. Thị trường ngày nay
không chỉ bó hẹp ở phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi khu vực và thế
giới. Cạnh tranh trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế như vậy là rất khó khăn.
Vì vậy trong quản trị, các DN cần phải liên tục đánh giá lại HQKD của mình để từ đó
có giải pháp phù hợp nhằm gia tăng hiệu quả của các hoạt động kinh doanh, nâng cao
được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên trường quốc tế.
Kinh doanh hiệu quả cả về kinh tế, xã hội là mục tiêu trước mắt và cũng là lâu
dài của hầu hết các doanh nghiệp. Bởi vì kinh doanh hiệu quả không chỉ cho thấy
doanh nghiệp đó đã hoạt động tốt trong lĩnh vực của mình mà còn cho thấy doanh
nghiệp đó xứng đáng để tồn tại và phát triển, đóng góp cho sự phát triển chung của
nền kinh tế của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, yêu cầu kinh
doanh hiệu quả không chỉ dừng lại ở việc đòi hỏi doanh nghiệp có khả năng làm tốt
nhất những gì mình có thể mà còn đáp ứng được nhu cầu cao hơn ở phạm vi rộng hơn
trong khu vực và toàn cầu. Vì vậy phạm trù hiệu quả kinh doanh không chỉ dừng lại ở
phạm vi doanh nghiệp cá biệt mà phải là hiệu quả kinh tế của ngành, hiệu quả kinh tế
xã hội của quốc gia trong lĩnh vực đó.


2
Trong những năm đầu của thế kỷ 21, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển mạnh
mẽ của ngành thủy sản Việt Nam nói chung, các DN thủy sản nói riêng. Năm 2017,
chúng ta cán mốc xuất khẩu ra thị trường thế giới hơn 8 tỷ đôla Mỹ các mặt hàng
thủy sản. Các DN cũng đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng từ thị trường trong
nước. Để đạt được thành tựu đó, các DN thủy sản ở Việt Nam đã không ngừng nỗ
lực, cố gắng trong sản xuất kinh doanh, đáp ứng tiêu chuẩn cao từ phía thị trường
trong và ngoài nước. Doanh thu liên tục gia tăng. Tuy vậy, các DN cũng gặp phải
muôn vàn khó khăn phải giải quyết: từ đáp ứng các vấn đề Luật pháp quốc tế đến các
qui định luật pháp quốc gia, từ vấn đề hội nhập sử dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại
đến vấn đề phát huy truyền thống đất nước, từ vấn đề trách nhiệm kinh tế - tài chính

cho đến các vấn đề trách nhiệm xã hội, môi trường. Cũng có nhiều đơn vị phá sản bỏ
cuộc, cũng có nhiều doanh nghiệp cất cánh, trở thành các nhà sản xuất kinh doanh
lớn và chủ lực trên thị trường quốc tế.
Qua nghiên cứu, tác giả luận án nhận thấy: hiện nay còn rất nhiều quan niệm
khác nhau về hiệu quả kinh doanh của DN. Vì thế cũng tồn tại quan điểm khác nhau
về các phương pháp đo lường hiệu quả, các bộ chỉ tiêu khác nhau để đánh giá hiệu
quả, các tranh luận xác định mối quan hệ giữa HQKD và các nhân tố ảnh hưởng rất
đa dạng. Tác giả thấy rằng mỗi quan điểm đều có cở khoa học rất vững vàng nhưng
chưa đầy đủ vì DN là một chủ thể kinh tế có đời sống rất phong phú, phức tạp đòi hỏi
các nhà chính sách, các nhà nghiên cứu, các nhà quản trị phải nhìn nhận DN ở nhiều
góc độ đa dạng và toàn diện hơn là một đối tượng hay công cụ phát triển kinh tế.
Trên thế giới hiện nay, bối cảnh kinh tế hiện nay đã có nhiều thay đổi. Tiến bộ
khoa học kỹ thuật và cách mạng công nghệ 4.0, đã đưa các quốc gia, các DN và con
người xích lại gần nhau hơn bao giờ hết. Dù DN bạn ở Việt Nam cũng có thể đáp ứng
nhu cầu cho các đối tác trên toàn thế giới nếu bạn có đủ khả năng. Cơ hội để các DN
tìm kiếm lợi nhuận cũng như phát triển rất đa dạng và lớn. Tất nhiên thách thức cũng
rất nhiều khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế. Các DN sẽ phải đối mặt với nhiều
khó khăn, nhiều rào cản. DN cần phải nhìn nhận rõ vị trí, vai trò, điểm yếu, điểm
mạnh, cơ hội, thách thức của mình để có chiến lược phát triển phù hợp, để thực hiện
bốn chữ kinh doanh hiệu quả.


3
Các DN thủy sản ở Việt Nam tuy còn rất non trẻ nhưng đã chứng minh được
tiềm lực phát triển trong thời gian đổi mới kinh tế đất nước. Những đóng góp của DN
cho sự phát triển chung là rất đáng ghi nhận. Hơn nữa, ngành thủy sản Việt Nam là
ngành có rất nhiều tiềm năng phát triển.Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, kết qủa
kinh doanh của các DN thủy sản Việt Nam còn thấp, chưa xứng với tiềm lực của DN
và ngành. Cụ thể, nếu so với các ngành kinh tế khá, khả năng sinh lời thấp và thiếu ổn
định hơn rất nhiều cho dù doanh thu tăng trưởng rất ổn định. Cơ cấu vốn nghiêng về

nợ phải trả rất lớn khiến cho lo ngại về rủi ro tài chính và kinh doanh tăng cao. Xuất
khẩu phát triển nhưng hàng bị trả lại cũng rất nhiều. Các quốc gia nhập khẩu thường
xuyên nghi ngại về xuất xứ, chất lượng của DN Việt. Số lượng các DN niêm yết trên
TTCK còn ít và chưa thu hút nhà đầutư. Số lượng DN rất lớn nhưng chủ yếu là DN
qui mô vừa và nhỏ, thiếu sự liên kết chặt chẽ trong chuỗi giá trị ngành. Ngành thủy
sản là một mũi nhọn kinh tế nhưng chưa có các DN xuyên quốc gia đủ lớn để giữ vai
trò đầu tàu cho phát triển mạnh mẽ ra thị trường thế giới.
Xuất phát từ những quan điểm đa dạng về hiệu quả kinh doanh trên thực tế.
Xuất phát từ những nghiên cứu về một số doanh nghiệp thủy sản ở Việt Nam điển
hình với rất nhiều phát hiện về sự bất cập trong vấn đề hiệu quả tài chính, hiệu quả
kinh doanh tổng thể và phát triển bền vững, tác giả nhận thấy:cần thiết phải nhận thức
lại về thế nào là kinh doanh hiệu quả và làm sao để nâng cao HQKD của các doanh
nghiệpthủy sản ở Việt Nam hiện nay. Để ngành thủy sản vươn lên xứng tầm là ngành
knh tế mũi nhọn của Việt Nam, để các DN thủy sản Việt Nam vươn lên là những con
chim đầu đàn trong ngành thủy sản trên thế giới.
Vì vậy,tác giả đã lựa chọn nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hiệu quả kinh
doanh, thực trạng cũng như giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh tại các
doanh nghiệp thủy sản ở Việt Nam hiện nay làm đề tài nghiên cứu trong luận án tiến
sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Tổng quan các công trình trong nước
a. Hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp.
Vấn đề HQKD đã được các nhà kinh tế học trên thế giới đi sâu nghiên cứu từ
những năm 1930, đặc biệt từ những năm 1960 đến nay. Hoạt động sản xuất kinh
doanh như thế nào được coi là có hiệu quả? Những biểu hiện cụ thể của HQKD là gì?


4
Đánh giá HQKD bằng cách nào? Làm sao để sản xuất kinh doanh có hiệu quả? Đó là
những nội dung được đặt ra cho nhiều nhà khoa học, nhà quản lý và điều hành sản

xuất quan tâm nghiên cứu.
“HQKD là sự so sánh tương quan giữa kết quả đầu ra và các chi phí đã phát
sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh”.
Ở Việt Nam, nhiều tác giả nghiên cứu về HQKD có cùng quan điểm này như
các tác giả Ngô Đình Giao, Lưu Bích Hồ, Trần Văn Thao. Các tác giả này cho rằng
hiệu quả là quan hệ tỷ lệ hoặc hiệu số giữa kết quả với chi phí bỏ ra để đạt được kết
quả đó. Quan điểm này đề cập đến hiệu quả chính là trình độ sử dụng chi phí tạo ra
kết quả như thế nào. Tuy nhiên, nếu hai đối tượng, dùng quan hệ hiệu số giữa một chỉ
tiêu kết quả với một chỉ tiêu chi phí nào đó thì ta lại thu được một chỉ tiêu kết quả
khác, không so sánh được là ai hiệu quả hơn. Kết quả này chưa phản ánh được hiệu
quả. Quan điểm này cũng mới chỉ đề cập đến chi phí thực tế phát sinh mà bỏ qua mối
quan hệ giữa chi phí với nguồn lực của chi phí đó. Vì thế chỉ tiêu đo lường hiệu quả
cũng chỉ dừng lại ở việc so sánh đơn giản theo số tuyệt đối.
- Theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc trường Đại học Kinh tế Quốc
dân, Đại học Thương mại, Học viện Bưu chính viễn thông…đánh giá HQKD phải
đánh giá về sức sản xuất, suất hao phí và sức sinh lời. Trong đó đánh giá HQKD bao
gồm việc đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định, hiệu quả sử dụng tài sản lưu
động, khả năng sinh lời của vốn thông qua chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời vốn
CSH. Việc đánh giá HQKD được đánh giá HQKD trên cả góc độ khả năng sử dụng
các nguồn lực và khả năng sinh lời của nguồn lực. Tuy nhiên, việc phân tích suất hao
phí chính là xem xét nghịch đảo các chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất nên ít có ý nghĩa.
Quan điểm này đi sâu phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận tài sản
trong doanh nghiệp. Nhưng ngành nghề khác nhau có điểm đặc thù khác nhau trong
vấn đề đó nên không thể so sánh giữa các DN được là DN nào hiệu quả hơn về khía
cạnh hao phí, sức sinh lời. Hơn nữa hoạt động kinh doanh của DN chịu sự tác động
rất nhiều bởi các yếu tố bên ngoài nên vấn đề hiệu quả nội bộ chỉ là một khía cạnh
của hiệu quả kinh doanh.
Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Công trình bày trong giáo trình “Phân
tích kinh doanh” của trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Theo ông, đánh giá HQKD



5
phải đánh giá qua 3 cấp độ từ thấp đến cao. Biểu hiện đầu tiên của HQKD là hiệu
suất, tiếp đến là hiệu năng và sau cùng là hiệu quả sử dụng chi phí, sử dụng các yếu
tố đầu vào. Hiệu suất hoạt động thể hiện cường độ hoạt động của các yếu tố đầu vào,
thể hiện tương quan giữa kết quả sản xuất đầu ra với lượng yếu tố đầu vào được sử
dụng để sản xuất được đầu ra ấy. Hiệu năng hoạt động là khả năng hoạt động mà
doanh nghiệp có thể đạt được khi sử dụng các yếu tố đầu vào, nó được thể hiện thông
qua các chỉ tiêu phản ánh tốc độ quay vòng của các yếu tố đầu vào hay thời gian một
vòng quay của từng yếu tố đầu vào. Hiệu quả sử dụng chi phí, sử dụng các yếu tố đầu
vào thể hiện khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp
càng cao thể hiện khả năng đem lại lợi nhuận của các yếu tố càng cao và điều đó thể
hiện HQKD của doanh nghiệp càng cao. Những cấp độ nói trên chỉ nhằm đạt được
đến mục tiêu cuối cùng của DN là tối đa hóa lợi nhuận có được từ việc sử dụng các
yếu tố đầu vào và quản trị các hoạt động của DN.
Tuy vậy, một DN tồn tại và phát triển có thể có nhiều mục tiêu trong các giai
đoạn khác nhau, có nhiều mối quan hệ với các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế.
Vì thế việc xem xét hiệu quả theo 3 cấp độ cũng chỉ phản ánh một khía cạnh hiệu quả
hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp mà thôi. Bộ chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh
doanh theo quan điểm này rất đa dạng. Chỉ tiêu đo lường hiệu suất, hiệu năng, khả
năng sinh lời. Nhưng chi tiết đến hiệu suất, hiệu năng sẽ giảm tính tổng thể nên khó
so sánh và đánh giá với DN khác ngành khác. Cũng khó khái quát được các nhân tố
khách quan từ bên ngoài. Sự đánh giá như vậy phù hợp cho công tác quản trị nội bộ
nhiều hơn.
- Theo quan điểm của nhà khoa học kinh tế người Pháp giảng dạy tại trường Đại
học Tổng hợp Paris I Pantheon Sorbone là Josette Peyrard, đánh giá HQKD của
doanh nghiệp được xác định thông quan khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Cùng
quan điểm này là tác giả Ngô Thế Chi, thuộc Học viện Tài chính hay Nguyễn Tấn
Bình khi đánh giá HQKD của doanh nghiệp chỉ đánh giá khả năng sinh lời. Khả năng
sinh lời theo quan điểm này được đánh giá theo khả năng sinh lời hoạt động, khả

năng sinh lời kinh tế và khả năng sinh lời tài chính. Trong đó, khả năng sinh lời hoạt
động thực chất là phản ánh khả năng sinh lời của doanh thu thuần. Khả năng sinh lời
kinh tế phản ánh khả năng sinh lời của tổng tài sản mà doanh nghiệp đang quản lý và


6
sử dụng. Khả năng sinh lời tài chính được xem xét trên 2 chỉ tiêu: khả năng sinh lời
vốn CSH và khả năng sinh lời của vốn thường xuyên. Quan điểm đánh giá trên đã
phản ánh khá rõ HQKD của doanh nghiệp thông qua việc đánh giá khả năng cuối
cùng là tạo ra lợi nhuận của các yếu tố như doanh thu, tổng tài sản, nguồn vốn CSH,
nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp. Đây là cách đánh giá khái quát nhất về
khía cạnh kinh tế tài chính của tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Khả năng sinh lời cao nghĩa là tất cả các hoạt động sử dụng yếu tố đầu vào,
quản trị nội bộ DN, quản trị bên ngoài DN về tổng thể là nhịp nhàng hiệu quả. Quan
điểm này đưa đến bộ chỉ tiêu đo lường rất gọn nhẹ và dễ so sánh với bên ngoài như
DN khác hay ngành lĩnh vực. Tuy vậy, có những hoạt động thể hiện là DN đang hoạt
động hiệu quả mà các chỉ tiêu tài chính không đo lường dễ dàng được bằng đồng tiền
như mức độ hài lòng của các chủ thể liên quan các hoạt động của DN như: nhà điều
hành DN, người lao động, nhà cung cấp, khách hàng, cộng đồng, Chính Phủ. Những
yếu tố định tính này thực ra ảnh hưởng lâu dài đến khả năng duy trì sự tồn tại và phát
triển lâu dài của DN-một khía cạnh khác của vấn đề hoạt động hiệu quả.
Công trình nghiên cứu của Chow (1994), “Hiêu quả logicstisc: Định nghĩa và
đo lường”. Tác giả định nghĩa HQKD là đạt đươc mục tiêu tăng trưởng doanh thu,
đảm bảo viêc làm và điều kiện làm việc, hài lòng khách hàng, khả năng sinh lợi, hiêu
quả chi phí, trách nhiệm xã hội. Tác giả cũng đề nghị cần nỗ lực phát triển các chỉ
tiêu đo lường HQKD tại các DN ở ngành nghề khác nhau. Bên canh đó cần tìm các
phương pháp nghiên cứu, các phương thức đo lường hợp lý và ý nghĩa công tác quản
trị. Định nghĩa này không chỉ đúng với lĩnh vực Logicstic mà còn có ý nghĩa với các
doanh nghiệp ở các ngành khác nữa. Mỗi doanh nghiệp thuộc các ngành và lĩnh vực
khác nhau cần xây dựng cho mình bộ chỉ tiêu đo lường HQKD phù hợp. Tác giả luận

án thấy đây chính là hướng nghiên cứu mới mà các nhà nghiên cứu và nhà quản trị
DN phải tập trung giải quyết.
Phát triển các quan điểm về HQKD ở trên, dưới góc độ tài chính gần đây nhất
có một số quan điểm về HQKD đã được các giả nghiên cứu đưa ra phương pháp và
bộ chỉ tiêu xác định HQKD như sau:
Quan niệm 1: HQKD của doanh nghiệp phản ánh trình độ huy động và sử dụng
nguồn lực của DN để tạo ra kết quả tối ưu. HQKD phản ánh mối quan hệ giữa kết


7
quả đầu ra và nguồn lực đầu vào. Cụ thể là mối quan hệ tỷ lệ giữa doanh thu, lợi
nhuận trên các yếu tố vốn kinh doanh, vốn lưu động, vốn cố định…Các chỉ tiêu phản
ánh HQKD được xây dựng thông qua mối quan hệ tỷ lệ trên, qua khả năng sinh lời và
qua mối quan hệ giữa giá trị thị trường và giá trị sổ sách của các DN. Đây là cách tiếp
cận của Đoàn Thục Quyên (2015),” Các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của
các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”. Cách
tiếp cận này cũng được Nguyễn Đình Hoàn (2017),” Giải pháp nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh tại các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam” thực hiện trong nghiên
cứu của mình.
Luận án của Đoàn Thục Quyên đưa ra được các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh
doanh, các chỉ tiêu đo lường và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của
các doanh nghiệp theo quan điểm của Nguyễn Văn Công-Trường Đại học kinh tế
quốc dân. Luận án sử dụng phương pháp định lượng để kiểm tra sự ảnh hưởng của
các nhân tố tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy vậy, luận án cũng có
hạn chế là khi đưa ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh ở phần cơ sở lý
thuyết như: trình độ tổ chức sản xuất, nhân sự, hay môi trường kinh tế thì phần đánh
giá thực trạng hiệu quả kinh doanh của các DN sản xuất kinh doanh niêm yết, tác giả
không giải quyết được vấn đề này. Chỉ giải thích được vấn đề hiệu quả ở khía cạnh tài
chính.
Luận án của Nguyễn Đình Hoàn có một điểm mới đáng lưu ý là đưa ra thêm các

chỉ tiêu đo lường phản ánh HQKD. Cụ thể đo lường mối quan hệ giữa giá trị thị
trường và giá trị sổ sách của doanh nghiệp. Luận án cũng sử dụng mô hình kinh tế
lượng để đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời- một thước đo
HQKD. Việc tính toán hệ số Tobin’s Q và giá trị thị trường của doanh nghiệp cũng là
một điểm mới của luận án. Điều này chỉ ra rằng: tối đa hóa giá trị doanh nghiệp là
mục tiêu tiếp theo của DN bên cạnh khả năng sinh lời. Tác giả còn cho rằng, DN kinh
doanh hiệu quả ngoài việc phải đạt tới sự gia tăng giá trị doanh nghiệp DN còn cần
đạt hiệu quả ở khía cạnh xã hội. DN sản xuất kinh doanh hiệu quả cũng có nghĩa là
tồn tại phát triển bền vững, đồng nghĩa với việc hạn chế được rủi ro trong kinh doanh.
- Khi đề cập đến khía cạnh HQKD phải là gia tăng giá trị doanh nghiệp thì vấn
đề rủi ro tài chính, rủi ro kinh doanh cần phải được xem xét đến. Nghiên cứu của Lê


8
Hoàng Vinh (2014), Cơ cấu vốn và rủi ro tài chính trong doanh nghiệp, Luận án tiến
sĩ. Rủi ro tài chính có nguồn gốc từ cơ cấu vốn với tham gia của nguồn tài trợ với chi
phí cố định, điển hình là nợ. Rủi ro này cần được nhận diện đầy đủ hai nhóm biểu
hiện: một là mức độ phân tán lợi nhuận dành cho chủ sở hữu, hai là khả năng xảy ra
tình trạng kiệt quệ tài chính xuất phát từ những cam kết thanh toán nợ gốc và lãi cho
các chủ nợ. Vậy khả năng nhận diện và kiểm soát rủi ro tài chính là điều kiện ràng
buộc những quyết định về mức độ sử dụng nợ của các nhà quản trị tài chính DN.
Hiệu quả kinh tế tài chính cần có sự đánh giá song song khả năng sinh lời và mức độ
an toàn trong các hoạt động tài chính.
Quan niệm 2: HQKD của DN được phản ánh qua mối quan hệ của tỷ suất sinh
lời DN với chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp (WACC). Nếu mối quan hệ này
dương chứng tỏ DN sử dụng vốn cho hoạt động kinh doanh của mình là hiệu quả.
Ngược lại, DN kinh doanh không hiệu quả khi khả năng sinh lời kinh tế thấp hơn lãi
suất đi vay hay chi phí sử dụng vốn chủ. Cách tiếp cận này được đề cập trong luận án
tiến sỹ “Giải pháp Tài chính nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp xây
dựng thuộc Tổng công ty Sông Đà”, Nguyễn Văn Phúc (2015). Tuy vậy cách tiếp cận

này có thể được hiểu là hiệu quả khai thác nguồn vốn của doanh nghiệp nhiều hơn là
hiệu quả của các hoạt động kinh doanh nói chung. Và vì thế giải pháp được đưa ra là
giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh chứ chưa phải là các giải
pháp đồng bộ và toàn diện. Bởi vì đời sống của các DN còn có mục tiêu khác là cung
cấp các sản phẩm hàng hóa dịch vụ đem lại lợi ích cho xã hội, không chỉ là một dạng
đầu tư vốn hay tài chính đơn thuần.
Các quan điểm trên đều có sự phù hợp nhất định khi phản ánh được các khía
cạnh đo lường HQKD. Ở đây vai trò của khả năng sinh lời là rất quan trọng. Tuy vậy,
theo quan điểm của tác giả thì khả năng sinh lời chỉ phản ánh được một trong các
mục tiêu kinh doanh hiệu quả mà các doanh nghiệp hiện đại hướng đến. Hiện nay khi
các nhà đầu tư, chủ nợ, các chủ thể khác đòi hỏi các doanh nghiệp dù ở ngành nào
cũng cần có sự phát triển bền vững, gia tăng được giá trị của mình thì mục tiêu sinh
lời không còn là duy nhất. Bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp còn phải cân
nhắc đến mục tiêu an toàn, các quyết định được lựa chọn sao cho giúp doanh nghiệp
giảm thiểu rủi ro, đảm bảo khả năng thanh toán (KNTT) cũng như đáp ứng đầy đủ


9
các nhu cầu chi tiêu cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đánh giá HQKD cũng vì thế
mà không chỉ dựa vào khả năng sinh lời. Trong các DN, mục tiêu lợi nhuận và mục
tiêu an toàn được các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp xem xét, cân nhắc gắn liền
với từng quyết định cụ thể trong mỗi giai đoạn hoạt động, trong từng trường hợp nhất
định. Đây là nhóm mục tiêu ngắn hạn, thường được đề ra theo từng năm.
Tuy vậy, mục tiêu mang tính dài hạn của các doanh nghiệp hiện nay còn là gia
tăng giá trị doanh nghiệp, phát triển bền vững. Để đạt đến mục tiêu này chúng ta phải
nhấn mạnh hiệu quả kinh tế- xã hội của doanh nghiệp. Vì hiệu quả kinh tế- xã hội
cùng với hiệu quả tài chính tạo nên và gia tăng giá trị cho doanh nghiệp. Hiện nay,
hiệu quả kinh tế xã hội của doanh nghiệp được xem xét trên một số khía cạnh như:
khả năng tạo ra việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước, chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, đảm bảo lợi ích của các chủ thể liên quan đến doanh nghiệp như cổ đông, nhà

cung cấp, khách hàng, người lao động…
Như vậy quan niệm “hiệu quả là MQH so sánh giữa kết quả thu được đầu ra
và nguồn lực bỏ ra ở đầu vào của quá trình kinh doanh” là tổng hợp nhất, bởi vì khái
niệm kết quả thu được và nguồn lực bỏ ra bao hàm hết cả các cách tiếp cận khác
nhau về hiệu quả. Nguồn lực bỏ ra có thể là lao động, tài sản, tiền vốn, tài nguyên, kể
cả chi phí cơ hội. Kết quả thu về có thể là doanh thu, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận,
giá trị doanh nghiệp, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường, giá trị văn hóa, năng
lực cạnh tranh… Hiệu quả kinh doanh tổng hợp vì vậy cần được xem xét cả khía
cạnh tài chính, khía cạnh xã hội. Hiệu quả kinh tế-xã hội, hiệu quả kinh tế-tài chính là
hai biểu hiện ra bên ngoài của hiệu quả kinh doanh. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh
của các DN, cần nghiên cứu hai khía cạnh biểu hiện của nó. Các chỉ tiêu đo lường
hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp vì vậy mà cũng cần xem xét cả hai nhóm:
nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế tài chính và nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả
xã hội.
Để đo lường hiệu quả kinh doanh ở góc độ kinh tế xã hội trong bối cảnh kinh
tế hội nhập toàn cầu, chúng ta phải tiếp cận doanh nghiệp là một công dân có tư cách
pháp nhân. Với tư cách một công dân muốn tồn tại, phát triển lâu dài phải có trách
nhiệm xã hội.Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (WB), CSR-Coporate Social
Responsibility- trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là sự cam kết của doanh nghiệp


10
đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên gia đình họ, cho
cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển
chung của xã hội. Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc
(WCED) trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” (Our common future) đưa ra năm
1987, đã phân tích các nguy cơ và thách thức đe doạ sự phát triển bền vững của các
quốc gia trên thế giới. Trong đó, quan trọng nhất phải kể đến khái niệm về phát
triển bền vững là “sự đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không gây trở ngại cho

các thế hệ mai sau” đang được sử dụng rộng rãi hiện nay.
Ở Việt Nam, theo Nguyễn Đình Cung và Lưu Minh Đức (2009) trong bài viết:
Trách nhiệm xã hội CSR, một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý Nhà
nước đối với CSR ở Việt Nam. Bài báo làm rõ thêm ý nghĩa ‘Kim Tự Tháp CSR’ về
lý luận đồng thời đánh giá thực trạng thực hiện CSR ở Việt Nam và chỉ ra những
điểm còn tồn tại. Đáng lưu ý là các tác giả đưa ra yêu cầu về việc đổi mới tư duy từ
phía Nhà nước đối với CSR. Tăng trưởng nhanh và môi trường sinh thái luôn là hai
mặt của các nền kinh tế đang phát triển.
Về chính sách công nghiệp, các tác giả - PGS.TS Phan Đăng Tuất và Lê Minh
Đức (2006) trong tài liệu “Chính sách công nghiệp theo định hướng phát triển bền
vững ở Việt Nam” trên cơ sở đánh giá tổng quan các chính sách phát triển công
nghiệp thời kỳ 1986-2005 đã phân tích các chính sách phát triển công nghiệp dưới
góc độ PTBV trên ba khía cạnh: kinh tế, xã hội, môi trường từ đó đề xuất các chính
sách phát triển bền vững công nghiệp của Việt Nam.
Như vậy phát triển bền vững được đề cập đến như một khái niệm cho sự phát
triển toàn cầu, các quốc gia, các ngành và các doanh nghiệp. Thuật ngữ doanh nghiệp
bền vững phản ánh năng lực tự điều chỉnh và thích nghi trong môi trường luôn biến
động (bền vững động), hàm chứa không chỉ các nội dung về kinh tế mà còn trách
nhiệm xã hội - Corporate Social Responsibility (CSR) của doanh nghiệp. Theo quan
điểm của tác giả Nguyễn Hữu Sở (2009) trong luận án Phát triển kinh tế bền vững ở
Việt Nam: “ doanh nghiệp bền vững là doanh nghiệp có thể phát triển ổn định, lâu
dài và có đóng góp tích cực cho sự phát triển của cộng động, xã hội; sự đóng góp
này không chỉ là đem lại sự thịnh vượng về kinh tế mà còn góp phần bảo vệ môi
trường và giải quyết tốt các vấn đề về mặt xã hội.


11
Vì vậy tác giả cho rằng cần có một nghiên cứu rộng và khách quan hơn về Hiệu
quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong bối cảnh phát triển kinh tế đa dạng và
phức tạp như hiện nay. Riêng ngành thủy sản ở Việt Nam cũng cần có những nghiên

cứu chuyên sâu hơn để có những khuyến nghị phù hợp nhằm khai thác tiềm năng và
thúc đẩy được sự phát triển bền vững của các DN thủy sản ở Việt Nam.
b. Tổng quan các công trình nghiên cứu về thủy sản và doanh nghiệp thủy sản
Ngành thủy sản nói chung và các DN thủy sản nói riêng nhận được rất nhiều sự
quan tâm của Nhà nước, các chủ thể kinh tế xã hội và cả các nhà khoa học trong
ngoài nước. Bởi vì đây là ngành có nhiều thế mạnh của Việt Nam, đóng góp nhiều
cho an ninh lương thực quốc gia, xóa đói giảm nghèo, tăng thu ngoại tệ. Thời gian
qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về ngành và DN trong ngành và có nhiều kết
quả nhất định.Theo đánh giá của tiến sĩ Lâm Văn Mẫn trong luận án tiến sĩ: Phát triển
bền vững ngành thủy sản đồng bằng song Cửu Long đến năm 2015, ngành thủy sản
Việt Nam gặt hái được nhiều thành công. Thông qua phân tích thực trạng khai thác,
nuôi trồng, chế biến tiêu thụ thủy sản tại vùng này tác giả mô tả kỹ các vấn đề liên
quan đến phát triển bền vững của ngành về xã hội, tài nguyên, môi trường. Tuy nhiên,
tác giả cũng đi đến kết luận phát triển thủy sản thời gian qua chủ yếu quan tâm đến
mục tiêu kinh tế, chưa kết hợp được hài hòa các mục tiêu xã hội và môi trường. Các
đơn vị mới chỉ tập trung vào lợi ích trước mắt mà chưa quan tâm được đến lợi ích
phát triển lâu dài. Thực tế đã xuất hiện một số hậu quả xấu đối với nguồn tài nguyên
thủy sản, môi trường sinh thái và các vấn đề xã hội tại khu vực đồng bằng song Cửu
Long. Quá trình phát triển nhìn chung là thiếu bền vững và tính hiệu quả còn chưa
được xem xét một cách toàn diện.
Theo kết quả nghiên cứu của Bùi Đức Tuân (2010), Nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành chế biến thủy sản Việt Nam, Luận án tiến sĩ, thì hiện tại ngành thủy
sản mới chủ yếu đạt được trên cơ sở khai thác và tận dụng các lợi thế tự nhiên về tài
nguyên, lao động. Sự phát triển ngành chưa đặt trên nền móng vững chắc của các lợi
thế quốc gia khác như cầu trong nước, ngành phụ trợ, sự cạnh tranh trong nước. Tác
giả cũng đánh giá về thực trạng của năng lực cạnh tranh của ngành chế biến thủy sản
Việt Nam. Từ đó phát hiện ra những vấn đề đặt ra cho ngành trong quá trình phát
triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Theo nghiên cứu, vai trò của Chính Phủ là rất quan



12
trọng trong việc thúc đẩy và hỗ trợ các ngành trong việc tận dụng các lợi thế quốc gia
và xây dựng năng lực cạnh tranh. Như vậy tác giả đã nghiên cứu sâu về vấn đề năng
lực cạnh tranh, trong phạm vi hẹp là ngành chế biến thủy sản chứ chưa nghiên cứu
góc độ cả ngành thủy sản. Luận án cũng chưa đi sâu vào các DN và vấn đề năng lực
cạnh tranh của DN thủy sản, một yếu tố chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố tài chính
và phi tài chính. Các yếu tố có tính xã hội như uy tín thương hiệu, sự gắn bó và cống
hiến của người lao động, sự công nhận từ phía khách hàng hay đáp ứng các yêu cầu
chung từ thị trường có những ảnh hưởng lớn đến việc cạnh tranh của doanh nghiệp và
hiệu quả kinh doanh cuối cùng.
Theo Trần Hữu Ái (2014), trong luận án tiến sĩ, Nâng cao năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp thủy sản xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, thì để
DN có lợi nhuận cao và duy trì điều đó lâu dài thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh
tổng thể. Giả thuyết có 14 yếu tố trong cạnh tranh phải thực hiện đồng bộ: yếu tố chất
lượng, yếu tố giá, yếu tố thương hiệu, yếu tố nhân lực, yếu tố tài chính và thanh toán
quốc tế…Các DN thủy sản trên mới dừng lại ở khai thác lợi thế tự nhiên chứ khả
năng quản trị hạn chế. Trên cơ sở phân tích thực trạng năng lực canh tranh của các
DN, tác giả sử dụng các mô hình phân tích SWOT, mô hình kinh cương, ma trận hình
ảnh cạnh tranh, phương pháp định lượng, để chỉ ra rằng: có 8/14 nhân tố có ảnh
hưởng mạnh đến năng lực cạnh tranh của DN. Các giải pháp đưa ra rất đáng chú ý là
vấn đề nâng cao thương hiệu, hàng rào thuế quan và phi thuế quan, bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững. Như vậy quan điểm của tác giả cũng chú trọng đến
vấn đề thương hiệu và phát triển bền vững cho các DN thủy sản xuất khẩu.
Các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hay không phụ thuộc vào rất nhiều các
nhân tố ảnh hưởng. Vậy các nghiên cứu thực tế nào đã nghiên cứu sâu về vấn đề này?
Một nghiên cứu về ngành thủy sản gây sự chú ý cho các nhà nghiên cứu. Đó là
đề tài cấp Học viện của TS Phạm Thị Thanh Hòa (2016), Nghiên cứu các nhân tố
ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp thủy sản niêm yết tại Việt
Nam, Học viện Tài chính. Đề tài đã phân tích được thực trạng của vấn đề vốn của các
doanh nghiệp. Như vậy đề tài mới dừng lại ở nhóm các doanh nghiệp thủy sản niêm

yết và vấn đề tài chính là cơ cấu vốn. Cơ cấu vốn chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố
như: lãi suất cho vay trên thị trường, đánh giá của nhà đầu tư và chủ nợ, khả năng tiếp


13
cận nguồn tài trợ của doanh nghiệp…Đề tài không giải quyết ngoài vấn đề vốn và cơ
cấu vốn còn nhân tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của đa số các doanh
nghiệp thủy sản (phần lớn là chưa niêm yết). Cơ cấu vốn là bài toán tài chính rất quan
trọng vì thế để giải quyết được cần phải đặt DN vào bối cảnh và thực tế của các
ngành, các nhóm DN, tình hình kinh tế chính trị và tài chính riêng của các quốc gia.
Có như vậy giải pháp cho bài toán cơ cấu mới có tính khả thi và thực sự hỗ trợ DN
nâng cao HQKD toàn diện và lâu dài. Vì vậy đây cũng là một khoảng trống cần được
nghiên cứu sâu hơn.
Năm 2017, trong luận án tiến sỹ “Kế toán quản trị chi phí môi trường tại các
doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam”, Ngô Thị Hoài Nam nhấn mạnh đến sự
cần thiết phải hoàn thiện công tác kế toán chi tiết về các chi phí môi trường, chi phí
thực hiện Trách nhiệm xã hội của các DN chế biến thủy sản. Vì chỉ khi xác định đúng
các chi phí theo dõi đánh giá đúng mức ảnh hưởng của chúng trong hoạt động
SXKD, nhà quản trị DN mới ra được các quyết định đúng đắn đến chiến lược sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tuy vậy, đề tài mới chỉ đi
sâu vào khía cạnh công tác ghi chép, theo dõi, cung cấp thông tin chứ chưa có đánh
giá về nguồn lực dành cho nhóm chi phí đó, chưa đánh giá được tác động của chúng
đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung tại các DN. Tác giả cũng chưa so
sánh được tương quan giữa vấn đề chi phí và vấn đề doanh thu lợi nhuận ở đầu ra vì
thế chưa chỉ ra được là những chi phí liên quan đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội
đó có thực sự đem lại lợi ích cho các DN về khía cạnh kinh tế hay không. Những chi
phí đó có thực sự đem lại hiệu quả kinh doanh mà các nhà sở hữu và điều hành phải
thực sự quan tâm giải quyết hay không.
Gần đây còn có công trình nghiên cứu của TS Đặng Ngọc Hùng (2016), Đề tài
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ trường Đại học công nghiệp Hà Nội.

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Đề tài đã sử dụng phối hợp
phương pháp định tính: phỏng vấn sâu, thống kê mô tả, so sánh, đánh giá…và
phương pháp định lượng, với mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Đây là điểm mạnh
trong nghiên cứu của tác giả và đề tài đã đạt được một số kết quả nhất định như: đề


14
xuất được 2 nhóm giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn, có tính khả thi cao. Tuy
vậy, đề tài dừng lại ở nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời, chưa
phải là nghiên cứu đánh giá những nhân tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh dài hạn của DN như vấn đề uy tín, thương hiệu, chất lượng sản phẩm, các
chính sách chiến lược tài chính hay trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Đề tài
cần phải chứng minh được những tác động của việc thực hiện hiệu quả xã hội là một
phần tác động đến hiệu quả kinh doanh của các DN. Vì thế để đạt đến mục tiêu phát
triển chung thì DN cần cải thiện cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Các nhân tố
ảnh hưởng đến HQKD cũng sẽ là rất nhiều các nhân tố tác giả đã đưa ra phân tích và
nhận định.
2.2.Tổng quan các công trình nước ngoài về HQKD của DN
Theo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài trong nhiều năm
qua có nhiều cách tiếp cận về HQKD, tùy thuộc vào ngành nghề của các DN nghiên cứu.
Chenand J.L. Dodd(1997), trongcông trình: “ An empirical examination of a
new corporate performance measure ” đã đưa ra mô hình Economic valueadded
(EVA) để đánh giá hiệu quả DN. Theo đó, giá trị kinh tế tăng thêm là thước đo phần
thu nhập tăng thêm từ chênh lệch giữa LN hoạt động trước lãi vay và sau thuế với chi
phí sử dụng vốn. Thước đo này thể hiện ưu điểm vượt trội so với cách đo lường hiệu
quả qua các chỉ tiêu tài chính như ROA, ROE, ROI đó là có tính tới chi phí sử dụng
VCSH, đây là chi phí cơ hội khi nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực này. Như vậy
các chỉ tiêu tài chính được coi như là thước đo chuẩn mực cho HQKD của các DN và

các nhà đầu tư.
Một nghiên cứu khác của A.J.Singh và Raymond S.Schmidgall trong bài báo
“Analysis of financial ratios commonly used by US lodging financial executives”
đăng trên tạp chí Journalof LeisureProperty, tháng 8 năm 2002 đã chỉ ra mức độquan
trọng của các chỉ tiêu phân tích HQKD về mặt tài chính trong 36 chỉ tiêu thường
được các nhà quản lý tài chính trong các khách sạn tại Mỹ. Theo kết quả nghiên cứu,
các chỉ tiêu đánh giá HQKD của các công ty là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử
dụng tài sản, hiệu quả quản lý và khả năng sinh lợi. Trong đó, chỉ tiêu phản ánh khả
năng sinh lợi được đánh giá là quan trọng nhất. Tuy nhiên nghiên cứu chưa đề cập
được ngoài 36 chỉ tiêu trên thì các nhân tố chính sách của nhà nước, tính chất của


15
ngành, môi trường kinh tế hay vấn đề lao động ảnh hưởng như thế nào tới HQKD của
các khách sạn tại Mỹ.
Khi đánh giá HQKD của một DN các nghiên cứu thường tập trung vào các chỉ
tiêu tài chính, tuy nhiên trong môi trường cạnh tranh toàn cầu những nhân tố phi tài
chính cũng cần được xem xét khi đánh giá hiệu quả hoạt động của DN. Trong nghiên
cứu “Measuring business performance in the high- tech manufacturing industry: A
case study of Taiwan’ s large- sized TFT-LCD panel companies” của Fang-Mei
Tseng, Yu-Jing Chiu, Ja- Shen Chen (2007) về đo lường HQKD của các công ty sản
xuất công nghiệp kỹ thuật cao tại Đài Loan đã xác định 5 nhân tố khi đánh giá
HQKD của các DN là: hiệu quả cạnh tranh, hiệu quả tài chính, năng lực sản xuất,
năng lực đổi mới và mối quan hệ chuỗi cung ứng.
Theo Hiệp hội đầu tư và phân tích tài chính của Mỹ, thống nhất đánh giá
HQKD của các DN theo hai nhóm chỉ tiêu cơ bản: nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu suất
hoạt động, nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời. Cũng đồng quan điểm này
nhưng mở rộng thêm thì Hiệp hội kế toán chứng Anh ACCA thì cần có nhóm chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả đầu tư của các cổ đông như các chỉ tiêu thu nhập trên cổ phiếu
thường, mức lợi nhuận của cổ phiếu so với cổ tức…

Như vậy ở khía cạnh kinh tế tài chính thì HQKD được nhìn nhận dưới một số
góc độ cơ bản là khả năng sinh lời, khả năng cạnh tranh,chi phí cơ hội và năng lực
đổi mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, để
một DN có chỗ đứng vững bền và phát triển hiệu quả lâu dài thì hiện nay các nhà
nghiên cứu trên thế giới đề cập đến một vấn đề mang tính rộng hơn. Kinh doanh hiệu
quả là phải đáp ứng các yêu cầu không chỉ từ phía các chủ sở hữu DN mà còn phải
đáp ứng yêu cầu của xã hội. Tức là DN phải thực hiện tốt cả TNXN của mình hay
DN phải đạt hiệu quả về mặt kinh tế xã hội. Điển hình cho xu hướng này là mô hình
lý thuyết bảng điểm cân bằng của Robert S.Kaplan và David P. Norton, giúp đánh giá
hiệu quả hoạt động kinh doanh trên cả hai khía cạnh tài chính và phi tài chính. Theo
mô hình này HQKD cần được dánh giá trên 4 khía cạnh: khía cạnh tài chính nội bộ,
khía cạnh khách hàng, khía cạnh qui trình quản lý, khía cạnh phát triển DN.
Cũng theo quan điểm của nhà kinh tế A. Carroll (1999): Mô hình “Kim tự tháp”
về trách nhiệm xã hội-CSR được A. Carroll (1999) kế thừa và phát triển từ mô hình


16
3Ps. Theo đó, CSR bao gồm trách nhiệm kinh tế (Cần phải có lợi nhuận), trách nhiệm
pháp lý (Cần phải hoạt động theo đúng luật pháp), trách nhiệm đạo đức (Thực hiện
đúng những gì được coi là công bằng, đúng đắn, hợp lý) và trách nhiệm tùy tâm (Là
một công dân trách nhiệm tốt, có đóng góp cho nguồn lực cộng đồng, cải thiện chất
lượng cuộc sống). Mô hình này có tính toàn diện và khả thi cao, có thể được sử dụng
làm khuôn khổ cho tư duy chính sách của Nhà nước về CSR.

Theo một số nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học ở các quốc gia phát
triển, thực hiện trách nhiệm xã hội có ảnh hưởng tốt tới đổi mới doanh nghiệp và hiệu
quả kinh doanh của DN(Wargner 2010). Trong chính sách phát triển Châu Âu đến
năn 2020 (European Conmission 2010), nhiều giải pháp sé được thực hiện nhằm đổi
mới hoạt động của các DN hướng đến sự phát triển bền vững, thực hiện Trách nhiệm
xã hội, trong đó nhấn mạnh vai trò của các công cụ Tài chính. Tuy vậy có nghiên cứu

chỉ ra rằng không phải mọi hoạt động thực hiện trách nhiệm xã hội của DN đều tạo ra
giá trị cho doanh nghiệp, vì chúng tốn nhiều chi phí (Hillman and Keim 2001).
Một nghiên cứu định lượng gần đây ở Đài Loan về mối liên hệ giữa thực hành
trách nhiệm xã hội với giá trị thương hiệu và hiệu quả kinh doanh của các DN khu
vực công nghệ cao cũng có kết luận: các DN nên tiếp tục cố gắng thực hiện CSR và
quản trị thương hiệu để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. (David Han Min Wang 2015).
Một nghiên cứu về trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính của các ngân hàng ở Mỹ
cho kết luận: Các ngân hàng thực hiện trách nhiệm xã hội có ảnh hưởng tích cực đến
hiệu quả tài chính, ảnh hưởng này ở các ngân hàng qui mô lớn sẽ nhiều hơn ở các
ngân hàng qui mô nhỏ (Marcia Millton Cornett 2016).


17
Theo nhiều bài báo của Tạp chí Jounal of Cleaner Production số 35(2012)
khẳng định việc thực hành trách nhiệm xã hội có tác động đến giá trị của doanh
nghiệp. Các bài báo trong các số 112(2016), số 142 (2017) chỉ ra rằng:Hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp ở Tây Ban Nha, Ngân hàng ở Mỹ hay các DN ở chịu ảnh
hưởng không nhỏ từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội của chúng. Sự ảnh hưởng này
thông qua phản ứng của khách hàng, quyết định của nhà đầu tư.
Theo nhiều nghiên cứu khác ở ngoài nước như: Zeitun, R and Tian (2007),
Kipesha và Moshi (2014). Kết luận về các doanh nghiệp trong mẫu quan sát: việc gia
tăng vay nợ sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của DN. Như vậy các nghiên
cứu thực nghiệm cũng chỉ ra rằng có mối quan hệ giữa rủi ro tài chính và giá trị
doanh nghiệp. Các hành vi sử dụng nợ tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của
các DN.
Như vậy có thể nhận định rằng, ở phạm vi quốc tế hay ở Việt Nam, cách tiếp
cận của các nhà nghiên cứu hay nhà quản trị về khía cạnh HQKD của DN khá đa
dạng theo nhiều khía cạnh khác nhau. Tác giả nhận thấy điểm chung lớn nhất trong
các nghiên cứu là: mục tiêu của các nghiên cứu là tìm ra các giải pháp để các DN
hoạt động tốt hơn, đem lại lợi ích cho các chủ thể liên quan như: khách hàng, nhà

cung cấp đầu vào, chủ sở hữu và nhà đầu tư, Chính phủ và xã hội. Như vậy DN cần
phải đạt được cả hiệu quả về kinh tế, cả hiệu quả về mặt xã hội. Vậy cũng cần có
quan điểm khái quát về HQKD trong bối cảnh mới, với các chỉ tiêu đo lường phù hợp
để đo lường cả hai khía cạnh đã đề cập đến.
3. Khoảng trống nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan, tác giả rút ra một số khoảng trống nghiên cứu trong các
nghiên cứu về HQKD của các DN cần bổ sung trong thời gian tới như sau:
(1) Các nghiên cứu lý luận đã tập trung làm rõ về HQKD nhưng còn nhiều định
nghĩa, quan điểm khác nhau về HQKD, phạm vi xác định và các chỉ tiêu đo lường
HQKD vì thế chưa thống nhất. Do đó, cần làm rõ bản chất của HQKD của doanh
nghiệp là gì để từ đó xác định hiệu quả cần đạt được ở những khía cạnh nào, tiếp đó
xác định phạm vi tính toán bộ chỉ tiêu đo lường HQKD trong bối cảnh kinh doanh
các doanh nghiệp hiện đại.


×