Phương thức kiện dân sự để bảo vệ quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản.
I.
Lời mở đầu
Sở hữu là tiền đề phát sinh các quyền kinh tế, dân sự khác như quyền kinh doanh,
quyền tham gia giao dịch, quyền thừa kế tài sản,… sở hữu là vấn đề nền tảng của
mọi quan hệ xã hội, cũng như đóng vai trò quan trọng trong đời sống pháp lí. Trong
thực tế hiện nay, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu xảy ra rất đa dạng phong phú.
Có nhiều vụ việc nảy sinh gây bức xúc cho chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản. Do vậy, bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản của các cá
nhân, tổ chức là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của bất cứ Nhà nước nào. Bên
cạnh việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về phạm vi các quyền năng của
chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản để chủ thể có căn cứ thực hiện
một cách hiệu quả các quyền năng của mình trên thực tế thì Nhà nước còn quy định
các biện pháp để bảo vệ các quyền của chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản. Việc tìm hiểu các phương thức bảo vệ quyền sở hữu có ý nghĩa to lớn trong
việc giải quyết các vấn đề xâm phạm quyền sở hữu. Mục đích nghiên cứu của đề
tài: “ kiện dân sự để bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản” là nhằm làm
rõ thế nào là biện pháp bảo về quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, các
phương thức kiện theo quy định của Bộ luật dân sự hiện nay, những ưu điểm và
nhược điểm của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và
một số phương hướng hoàn thiện.
II.
Một số vấn đề về quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và bảo vệ
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
1.
Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Quyền sở hữu là tổng thể một hệ thống quy phạm pháp luật do nhà nước ban
hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc chiếm hữu, sử dụng và
định đọat các tư liệu tiêu dùng.
Điều 158 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của
luật”.
Như vậy, chủ thể quyền sở hữu có đầy đủ ba quyền năng: quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt.
Điều 179 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi
phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản”.
Điều 189 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “ quyền sử dụng là quyền khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”.
Điều 192 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “ quyền định đoạt là quyền chuyển giao
quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản”.
Điều 159 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
1. Quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài
sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác.
2. Quyền khác đối với tài sản bao gồm:
Quyền đối với bất động sản liền kề
Quyền hưởng dụng
Quyền bề mặt.
2.
Bảo vệ quyền sở hữu.
Pháp luật được coi là công cụ sắc bén và hữu hiệu nhất trong việc bảo vệ
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, đảm bảo cho chủ thể quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản thực hiện một cách hiệu quả và hợp lí các quyền năng
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.
Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là việc chủ thể quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản áp dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền
của mình hoặc yêu cầu cơ quan chức năng bảo vệ khi có hành vi xâm phạm xảy ra,
cụ thể: kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật; kiện yêu
cầu bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra đối với tài sản; kiện yêu cầu chấm
dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản hợp. Tuy nhiên bộ luật dân sự hiện nay chưa xây dựng một điều luật
cụ thể để định nghĩa về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản nhưng
chúng ta có thể khái quát khái niệm này trên tinh thần được thể hiện từ các điều
luật như sau:
Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là những cách thức, biện pháp
mà các chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản áp dụng để phòng ngừa
những hành vi xâm phạm sở hữu sẽ xảy ra hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xử lí những hành vi xâm phạm đối với quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản.
Như vậy, chủ thể áp dụng các cách thức, biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản là Nhà nước và cả người có quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản và biện pháp, cách thức được áp dụng bao gồm cả biện pháp có tính
chất phòng ngừa (như biện pháp tự bảo vệ của chủ sở hữu) và các biện pháp có tính
chất chế tài có thể áp dụng khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu xảy ra.
Đặc điểm của việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản:
Các biện pháp dân sự thì được áp dụng rộng rãi hơn so với các biện pháp
hành chính, hình sự
Do luật dân sự có đối tượng điều chỉnh là quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân và
phương pháp điều chỉnh là thỏa thuận. Trong đời sống thường ngày thì các thỏa
thuận, giao dịch dân sự diễn ra thường xuyên, phổ biến nên khi có xâm phạm
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thì việc áp dụng các biện pháp dân sự là
ưu tiên hơn. Các biện pháp hành chính bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định
những thể lệ nhằm quản lí và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và các cá nhân
công dân. Trong một số trường hợp nhất định thì Nhà nước sử dụng các biện pháp
cưỡng chế bằng bạo lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cá nhân
hay tổ chức nhất định về mặt vật chất hay tinh thần nhằm buộc các cá nhân hay tổ
chức phải thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất định để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu
bằng việc quy định một số hành vi nhất định xâm phạm đến quyền sở hữu là tội
phạm ( như trộm cắp, cướp giật,…) và quy định mức hình phạt tương xứng đối với
các hành vi phạm tội đó.
Việc bảo vệ quyền sở hữu bằng các biện pháp dân sự tạo cho người bị xâm
phạm sự chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình khi các quyền năng của
mình bị xâm phạm. Pháp luật đã ghi nhận quyền tự bảo vệ của chủ thể quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản, bao gồm:
Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản phải chấm dứt hành vi xâm phạm. Đây là biện pháp thể hiện sự chủ
động của chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Việc thương lượng,
thỏa thuận hòa giải sẽ đưa ra một biện pháp hòa bình trên cơ sở mục đích của chủ
thể quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí hành vi xâm phạm quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật.
Kiện bồi thường tài sản.
Nếu sử dụng các phương pháp hành chính, dân sự thì chủ thể quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản không thể hiện được sự chủ động mà là các cá nhân, người có
thẩm quyền trên cơ sở phương pháp mệnh lệnh – phục tùng, mang tính quyền lực
nhà nước
Sử dụng biện pháp dân sự sẽ mang lại hiệu quả cao nhất cho người bị thiệt
hại.
Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản theo phương pháp dân sự tạo khả
năng khôi phục các lợi ích vật chất cao nhất cho người bị xâm phạm. Bởi lẽ, các
biện pháp hành chính, hình sự chủ yếu tác động vào nhân thân của người xâm
phạm, còn những chế tài mang tính tài sản như mức tiền phạt thì phải tuân thủ theo
mức khung tại các văn bản pháp luật và được nộp vào ngân sách nhà nước. Trong
khi đó, biện pháp dân sự bảo vệ quyền sở hữu buộc người xâm phạm buộc phải
hoàn trả tài sản đó và phải bồi thường khắc phục toàn bộ những thiệt hại đã xảy ra
cho người bị xâm phạm. Do vậy, bảo vệ quyền sở hữu là biện pháp tối ưu nếu xét
về khía cạnh kinh tế.
3.
Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Khi các quyền năng của chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bị
xâm phạm, đặc biệt trong những trường hợp chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản mất khả năng kiểm soát thực tế với vật thì pháp luật luôn cho phép chủ
thể đó thực hiện quyền truy đòi đến cùng tài sản của mình. Việc thực thi quyền đó
có thể thực hiện bằng biện pháp tự bảo vệ hoặc phương pháp bảo vệ thông qua Tòa
án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo phương thức kiện dân sự.
a.
Phương thức tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn
chặn bất kì người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp
không trái với quy định của pháp luật (Khoản 1 Điều 164 Bộ luật dân sự 2015). Là
việc chủ thể quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản tự mình tiến hành các biện
pháp không trái với quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản.
Phương pháp này thể hiện tính định đoạt cao độ của chủ thể. Chủ thể quyền
sở hữu sẽ chính là người thực hiện phương pháp này và tự bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản là biện pháp mang tính chất dự phòng trong việc ngăn
chặn các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản từ các
chủ thể khác. Tuy nhiên, việc thực hiện phương pháp này phải không trái với quy
định của Pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội. ( ví dụ như một gia đình giàu
có, có rất nhiều tiền thì họ có thể cất giấu tiền trong két sắt, xây dựng hàng rào cao
xung quanh nhà ở chứ nghiêm cấm việc họ mắc đường dây lưới điện xung quanh
nhà để phòng trộm cắp đột nhập vào nhà vì việc mắc đường dây lưới điện là cực kì
nguy hiểm).
Đây là một biện pháp bảo vệ không gây quá nhiều tốn kém về mặt kinh tế
mà vẫn tạo khả năng kịp thời ngăn chăn những hành vi xâm phạm từ đầu.
Tuy nhiên, phương pháp này không mang tính quyền lực, tính cưỡng chế nhà
nước nên trong từng trường hợp phải tùy thuộc vào sự thiện chí của người xâm
phạm. (ví dụ, khi anh A mượn của anh B chiếc xe đạp mà đến ngày hôm sau anh B
đòi lại chiếc xe đạp đó. Nếu anh A có thiện chí giả lại chiếc xe thì không có vấn đề
gì xảy ra, nhưng nếu anh A không trả lại thì để bảo vệ quyền sở hữu của mình thì
buộc anh B phỉa nhờ đến cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết. Khi đó việc
bảo vệ quyền sở hữu sẽ thông qua Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
phương thức kiện dân sự).
b.
Phương thức bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thông qua
Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo phương thức kiện dân sự.
Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền
phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Khoản 2 Điều 164
Bộ luật dân sự 2015).
Kiện đòi lại tài sản.
Kiện đòi lại tài sản là biện pháp bảo vệ quyền chiếm hữu của chủ sở hữu, chủ thể
có quyền khác đối với tài sản. Mục đích của người khởi kiện khi thực hiện phương
thức này là nhằm lấy lại tài sản của mình đang bị người khác chiếm hữu trái pháp
luật.
Khi áp dụng phương thức này phải thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, đối với nguyên đơn: chủ thể có quyền đòi lại tài sản phải là chủ sở
hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản. Về nguyên tắc chung: tài sản đang bị bị
đơn chiếm giữ bất hợp pháp đã rời khỏi chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với
tài sản ngoài ý chí của những người này thì có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm
hữu bất hợp pháp.
Thứ hai, đối với bị đơn: phải là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
đối với tài sản (bao gồm người chiếm hữu, người sử dụng và người được lợi về tài
sản). điều kiện này rất quan trọng bởi vì nhiều khi chủ sở hữu, chủ thể có quyền
khác đối với tài sản phát hiện ra người chiếm hữu tài sản của mình lúc trước nhưng
lúc này người chiếm hữu tài sản đó đã trở thành chủ sở hữu của tài sản do được xác
lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
Điều 236 Bộ luật dân sự 2015 quy định: người chiếm hữu, người được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời
hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu
tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp bộ luật này, bộ luật
khác có liên quan quy định.
Thứ ba, đối tượng kiện đòi lại tài sản phải là vật đang có thực, còn tồn tại
trên thực tế. trường hợp tài sản là vật không còn tồn tại do bị mất hoặc bị tiêu hủy
thì lúc này không thể áp dụng phương thức kiện đòi lại tài sản. Vật hiện còn được
hiểu là còn nguyên trạng thái ban đầu hoặc về cơ bản vẫn còn nhưng đã bị giảm sút
giá trị hoặc đã được làm tăng giá trị.
Vậy tiền có được coi là đối tượng của kiện đòi lại tài sản không?
Xuất phát từ tính chất pháp lí cũng như cơ chế pháp lí điều chỉnh mà tiền
được xem là một loại tài sản riêng biệt. Khi tiền bị chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật thì về mặt bản chất chủ sở hữu không thể kiện đòi lại tài sản thông
thường được mà thực chất sẽ là kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. chủ sở hữu chỉ
có thể kiện đòi lại tiền ( với tư cách là kiện đòi tài sản) trong trường hợp biết rõ số
sêri của những tờ tiền đó mà hiện đang bị người khác chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật. Đối với trường hợp tiền đã bị được bao gói niêm phong mà bị người
khác chiếm hữu trái pháp luật và hiện số tiền đó vẫn đang còn nguyên bao gói thì
việc kiện đòi lại tài sản trong trường hợp này là kiện đòi lại tài sản là vật chứ không
phải kiện đòi lại tiền.
Giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong giao dịch dân sự là giấy tờ
chứng minh cho quyền tài sản vô danh. Giá trị của giấy tờ có giá chính là giá trị
của quyền tài sản mà nó minh chứng. Giấy tờ có giá là loại tài sản hữu hình, được
xếp vào loại tài sản động sản trong cách phân loại tài sản là động sản và bất động
sản. Giấy tờ có giá có thể coi là đối tượng của kiện đòi lại tài sản khi chủ thể chứng
minh được quyền sở hữu của mình, giấy tờ còn tồn tại và biết được người đang
chiếm hữu.
Quyền tài sản không thể là đối tượng kiện đòi lại tài sản do tính chất của quyền tài
sản là loại tài sản vô hình.
Thứ tư, không rơi vào trường hợp pháp luật quy định không phải trả lại tài
sản.
* Các trường hợp kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình
kiện đòi tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu
Điều 167 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản
không phải đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp
người chiếm hữu ngay tình có được động sản thông qua hợp đồng không có đền bù
với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng
có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị
mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Điều kiện: + Tài sản là động sản không phải đăng kí sở hữu rời khỏi chủ sở hữu
ngoài ý muốn.
+ Người đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật, có được tài sản thông
qua một hợp đồng không có đền bù.
Ví dụ: anh B mượn của anh A một chiếc xe đạp sau đó anh B lại mang chiếc xe đạp
đó đem cho anh C thì anh A có quyền đòi lại chiếc xe đạp của mình.
Theo đó, nếu người ngay tình có được tài sản thông qua giao dịch có đền bù và tài
sản đó không phải bị mất cắp, bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu thì nguyên
đơn không thể khởi kiện đòi lại tài sản.
Kiện đòi tài sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người
chiếm hữu ngay tình.
Điều 168 Bộ luật dân sự 2015 quy định: chủ sở hữu được đòi lại động sản phải
đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này.
Khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự 2015 :
Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự
khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác
lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường
hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại cơ
quan tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể
này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
như vậy, chủ sở hữu được đòi lại trừ hai trường hợp:
Trường hợp 1: người thứ ba chiếm hữu tài sản thông qua việc bán đấu giá hợp
pháp. Một người có dược tài sản thông qua mua đấu giá hoặc qua giao dịch với
người đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là chủ sở hữu của tài
sản là trường hợp mà người chiếm hữu ngay tình hoàn toàn không có lỗi nên được
pháp luật bảo vệ. Do đó, chủ sở hữu không được quyền kiện đòi lại tài sản từ người
chiếm hữu ngay tình mà chỉ có thể áp dụng phương thức kiện khác để khắc phục
thiệt hại về mặt vật chất cho mình như kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Người bị
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ở đây có thể là người quản lí cuộc bán đấu giá đó
do không chứng thực được các loại tài sản mang bán đấu giá.
Trường hợp 2: giao dịch với người là chủ sở hữu theo bản án, quyết định nhưng sau
đó bản án, quyết định bị hủy, sửa.
Ví dụ: bản án dân sự phúc thẩm tuyên anh A là chủ sở hữu của căn nhà. A đem bán
cho B với giá 200 triệu. Xét thấy bản án không phù hợp với tình tiết khách quan
nên hội đồng giám đốc thẩm đã hủy bản dân sự phúc thẩm đó. Trong quá trình xét
xử, tòa án tuyên căn nhà đó là của C. Tuy nhiên, B không phải trả lại C căn nhà đó
do việc bảo vệ người thứ ban ngay tình khi bản án, quyết định của Tòa bị hủy, sửa
mà A sẽ là người phải là người đền bù cho C số tiền bằng trị giá căn nhà đó.
* Các trường hợp không được kiện đòi tài sản
Trường hợp 1: tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu rời khỏi
chủ sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu. người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua
hợp đồng có đền bù với người không có quyền định đoạt đối với tài sản. ( ví dụ
như anh A mượn của anh B chiếc xe đạp sau đó anh A đem chiếc xe đạp đó bán cho
anh C. Tuy anh B là chủ sở hữu chiếc xe nhưng anh B không được kiện đòi lại
chiếc xe từ anh C do ở đây, pháp luật đã bảo vệ quyền lợi của anh C).
Trường hợp 2: tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động
sản mà người chiếm hữu ngay tình nhận được thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch
với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ
sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án,
quyết định bị hủy, sửa.
Trường hợp 3: tài sản là đối tượng của vụ kiện đã được xác lập quyền sở hữu
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo thời hiệu, quy định tại Điều 236
Bộ luật dân sự 2015:
Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay
tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất
động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác liên quan quy định khác.
* Hậu quả pháp lí của việc áp dụng phương thức kiện đòi lại tài sản.
Khi phương thức kiện đòi lại tài sản thỏa mãn các điều kiện đặt ra thì người chiếm
hữu tài sản buộc phải trả lại tài sản. Tuy nhiên hậu quả pháp lí sẽ khác nhau trong
hai trường hợp sau:
- Đối với người chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình thì ý chí của họ hoàn toàn ngay thằng. Do đó khi phải trả lại tài
sản thì họ không phải trả lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó.
- Đối với người chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
và không ngay tình thì khi trả lại tài sản, họ phải trả lại đồng thời cả hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản đó.
Khởi kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc
thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
Điều 169 Bộ luật dân sự 2015 quy định : khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản, chủ thể có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật
phải chấm dứt hành vi đó hoặc có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.
Như vậy, chủ thể kiện là chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đang
kiểm soát tài sản và đang bị người khác gây khó khăn, cản trở việc thực hiện quyền
năng cụ thể. Người bị kiện là người có hành vi trái pháp luật, xâm phạm quyền
năng của chủ sở hữu hay chủ thể có quyền khác đối với tài sản.
Ví dụ: nhà anh A nằm trên một mảnh đất bị vây bọc bởi các bất động sản của các
chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra đường công cộng thì theo quy định của pháp
luật hoặc thỏa thuận giữa anh A và các chủ sở hữu bất động sản xung quanh, yêu
cầu chủ sở hữu đó dành cho mình một lối đi hợp lí, gây thiệt hại ít nhất trên bất
động sản có mở lối đi và có quyền yêu cầu các chủ sở hữu bất động sản xung
quanh nếu họ gây khó khăn hoặc cản trở việc mở lối đi của mình.
Mục đích chính của phương thức này là nhằm đảm bảo cho chủ sở hữu, chủ thể có
quyền khác đối với tài sản được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một
cách bình thường. Do đó khi áp dụng phương thức này sẽ mang lại hậu quả pháp lí
là người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản buộc phải
chấm dứt hành vi của mình.
Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Điều 170 Bộ luật dân sự 2015 quy định: chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với
tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản bồi thường thiệt hại.
Người bị kiện là người thứ ba chiếm hữu tài sản không ngay tình hoặc qua một
giao dịch dân sự không có đền bù, người có được tài sản từ sự tước đoạt quyền sở
hữu từ chủ sở hữu; cơ quan nhà nước có thẩm quyền có lỗi để người thứ ba có
được tài sản; người chiếm hữu có căn cứ pháp luật dựa trên chuyển giao tài sản.
Các trường hợp kiện:
Trường hợp 1: chủ sở hữu trước kiện bồi thường khi tài sản đã được xác lập cho
chủ sở hữu mới
Trường hợp 2: không xác định được người thực tế chiếm hữu tài sản.
Trường hợp 3: vật bị tiêu hủy hoặc không còn nguyên trạng ban đầu.
Trường hợp 4: người thứ ba ngay tình kiện bồi thường khi tài sản được trả về cho
chủ sở hữu đích thực.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu hoặc chủ thể có
quyền khác đối với tài sản có thể đặt ra đối với trường hợp bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng và ngoài hợp đồng.
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thì các bên có thể
thỏa thuận về điều kiện bồi thường, mức bồi thường, phương thức bồi thường,…
trong hợp đồng và khi có tranh chấp xảy ra, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ
căn cứ vào thỏa thuận trong hợp đồng để giải quyết.
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì điều kiện để có
thể áp dụng biện pháp khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm
phạm bao gồm:
Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra. Đây là điều kiện đầu tiên, cần thiết để áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi lẽ nếu không có thiệt hại thì cũng không thể
buộc người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, có hành vi trái pháp luật. Nếu hành vi gây thiệt hại được coi là hợp
pháp như trường hợp người thi hành công vụ, gây thiệt hại trong trường hợp phòng
vệ chính đáng hoặc tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại sẽ không phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy
ra. Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân và tất yếu dẫn đến thiệt hại xảy ra thì
người có hành vi đó phải bồi thường thiệt hại. nếu nguyên nhân có thể không phải
do hành vi mà có thể do tài sản đó tự hư hỏng do hết thời gian sử dụng hoặc do
kém chất lượng thì người thực hiện hành vi đó sẽ không phải bồi thường thiệt hại
và chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro.
Thứ tư, có lỗi ở người gây thiệt hại. Người gây thiệt hại phải chịu bồi thường
thiệt hại. Nếu gây thiệt hại do trường hợp bất khả kháng hoặc lỗi hoàn toàn ở chủ
sở hữu thì người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
* Hậu quả pháp lí của việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Nếu các bên không có thỏa thuận gì khác về mức bồi thường, phương thức bồi
thường thì thiệt hại về tài sản sẽ theo nguyên tắc thiệt hại bao nhiêu bồi thường bấy
nhiêu và có thể bao gồm thiệt hại sau đây:
Thiệt hại do tài sản bị mất
Thiệt hại do tài sản bị hủy hoại, hư hỏng
Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản
Chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
* Ưu điểm của phương thức kiện dân sự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản.
Thứ nhất, những phương thức này mang tính thực tế lớn. Tính thực tế này
xuất phát từ chỗ những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản thường nảy sinh trong đời sống xã hội và do vậy chủ yếu thuộc sự điều
chỉnh của pháp luật dân sự. Vì thế, các biện pháp dân sự cũng được áp dụng phổ
biến hơn. Hơn nữa, mục đích của các chủ thể khi áp dụng phương thức kiện dân sự
nhằm bảo vệ quyền lợi của mình chính là việc khôi phục lại tình trạng ban đầu về
mặt vật chất, đảm bảo sự nguyên vẹn cho tài sản. Sau khi áp dụng phương thức
kiện dân sự, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có thể khôi phục lại
trạng thái tài sản ban đầu hoặc được bù đắp về mặt vật chất cho những xâm phạm
đến quyền sở hữu của họ.
Thứ hai, phương thức kiện dân sự được áp dụng rộng rãi hơn bởi lẽ việc xâm
phạm tài sản mang tính chất dân sự diễn ra mang tính chất phổ biến, các chủ thể có
thể áp dụng phương pháp này một cách dễ dàng bằng việc yêu cầu cơ quan nhà
nước có thẩm quyền chấm dứt hành vi vi phạm hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, phương thức kiện dân sự tạo điều kiện cho mọi chủ thể quyền sở
hữu có thể áp dụng phương thức này, thủ tục nhanh gọn, nhanh chóng khắc phục
lại tình trạng ban đầu.
* Hạn chế của việc áp dụng các phương thức kiện dân sự
Thứ nhất, về hiệu quả của các phương thức kiện dân sự: trong nhiều trường
hợp, hiệu quả của các phương thức dân sự trong việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản trên thực tế còn thấp. Trong các phương thức, tự bảo vệ là
phương thức được các chủ thể áp dụng phổ biến nhất nhưng do thiếu tính cưỡng
chế và quyền lực nhà nước nên trên thực tế, để bảo vệ quyền lợi của mình trước
hành vi xâm phạm thì chủ thể vẫn phải áp dụng đồng thời các biện pháp khác.
Thứ hai, về sự tác động của công tác thi hành án: việc bảo vệ quyền sở hữu
gắn liền với công tác thi hành án nên trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi công
tác thi hành án dân sự cũng là một hạn chế trong việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản.
Thứ ba, về việc bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình. Người thứ ba
ngay tình được yêu cầu bồi thường thiệt hại từ người đã trực tiếp chuyển giao tài
sản cho mình. Tuy nhiên nếu nhìn về thực tế thì quy định này không lý tưởng bởi
chỉ có thể thực hiện quy định này nếu có hai điều kiện đó là tìm được người chuyển
giao tài sản cho người thứ ba và người phải bồi thường có khả năng tài chính và tự
nguyên thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều kiện một rất khó thực hiện vì họ là
những người tham lam nên sau khi thực hiện xong giao dịch, đạt được lợi ích mong
muốn thì họ thường tìm cách xóa mọi thông tin để tránh trách nhiệm sau này. Điều
kiện thứ hai lại phụ thuộc vào việc có tồn tại điều kiện thứ nhất hay không và cũng
thường gặp phức tạp như: người phải thực hiện nghĩa vụ không có tiền để bồi
thường hoặc chây ì không chịu thực hiện nghĩa vụ.
Thứ tư, vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn
gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do phong tục tập quán ở Việt Nam quan
niệm hôn nhân là việc rất đặc thù, không phải là quan hệ dân sự nên không có
chuyện hai bên nam nữ kê khai tài sản chung, tài sản riêng, tài sản có trước hay có
sau thời kì hôn nhân…Nhưng khi có ly hôn, có tranh chấp phát sinh về tài sản thì
các bên thường không đưa ra được chứng cứ để chứng minh tài sản của mình, nhất
là trường hợp vợ chồng lại ở chung với cha mẹ. Nhiều trường hợp, Tòa án gặp rất
nhiều rắc rối trong việc xét xử, nhiều khi không bảo vệ được lợi ích các bên. Thực
tế cho thấy thì phụ nữ thường là người chịu thiệt thòi.
Thứ năm, vấn đề xác minh nguồn gốc tài sản, đặc biệt là nhà, đất ở Việt Nam
hiện nay rất khó khăn, nguyên nhân là tình trạng nhiều đất không có bìa đỏ, nhà
không có giấy chứng nhận quyền sở hữu đang khá phổ biến. Tình hình triển khai
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời gian qua rất chậm, gây không ít
khó khăn cho các bên đương sự và Tòa án trong xác định, đánh giá chứng cứ để
giải quyết tranh chấp.
* Một số phương hướng hoàn thiện
Thứ nhất, cần nâng cao hiệu quả của các phương thức kiện dân sự bảo vệ
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trong thực tế bằng cách đẩy mạnh công
tác thi hành án dân sự trong thực tế.
Thứ hai, cần có quy định về việc bảo vệ lợi ích của người thứ ba ngay tình
mạnh mẽ hơn. Trong thực tế hiện nay, việc lưu thông hàng hóa là tự do và thị
trường hàng hóa là đa dạng, phong phú và rộng lớn , người mua không thể biết
chính xác nguồn gốc của tài sản nên pháp luật cần phải bảo vệ họ.
Thứ ba, cần phải có những biện pháp cụ thể về xác định nguồn gốc tài sản,
triển khai nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, … để tránh rắc rối
trong các tranh chấp xảy ra.
Thứ tư, cần tăng cường công tác phổ biến giáo dục các quy định của pháp
luật về bảo vệ quyền sở hữu đến người dân, đồng thời hoàn thiện và tang cường
năng lực hoạt động của các thiết chế nhằm đảm bảo các quy định về quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản được đi vào thực tiễn cuộc sống.
Kết luận
Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là quyền được nhà nước tôn trọng
và bảo vệ. Xác định được tầm quan trọng của quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản, Bộ luật dân sự hiện hành đã đưa ra nhiều quy định và các phương thức để bảo
vệ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những quy định trên còn gặp một số bất cập, thiếu
sót. Điều này tạo ra nhiều khó khăn cũng như áp lực cho các Tóa án khi phải đối
mặt với các vụ việc tranh chấp về quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản phức
tạp. Đây là một vấn đề rất lớn, đòi hỏi phải có sự quan tâm của Nhà nước theo lộ
trình cụ thể để làm sao nâng cao được hiệu quả của các phương thức kiện dân sự để
bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trong thực tiễn.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật dân sự Việt Nam
Nxb Lao động – 2015
2. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 1
Nxb Chính trị quốc gia.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội
Giáo trình Luật dân sự Việt
Nam, tập 1
Nxb CAND -2006
4. Thông tin khoa học Kiểm sát
So sánh Bộ luật dân sự năm 2015 với Bộ luật dân sự năm 2005
5.
/>
6.
/>
7.
/>ItemID=1239