Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận Đặc điểm tâm lý của trẻ em lang thang tại thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.82 KB, 20 trang )

MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội phát triển với tốc độ đô thị hóa chóng mặt, từ đó chất lượng đời sống
của người dân cũng được nâng cao. Tuy nhiên, vấn đề nào cũng có hai mặt của nó.
Đi cùng thành tựu trên là tình trạng tệ nạn xã hội ngày càng phát triển theo chiều
hướng phức tạp; lối sống buông thả, thực dụng; đô thị hóa nông thôn khiến nhiều
người có nguy cơ thất nghiệp, phải bỏ quê hương mà đến các thành phố lớn để kiếm
việc làm; áp lực của cuộc sống hiện đại làm tan vỡ bao gia đình, mà vô hình chung,
hậu quả nặng nề nhất lại rơi vào những đứa trẻ. Gia đình không quan tâm khiến các
em bỏ nhà ra đi, cái nghèo cái đói buộc các em phải bước ra xã hội mà lao động quá
sớm, hay có những ông bố bà mẹ vô trách nhiệm vứt bỏ cả đứa con của mình và rất
nhiều lý do khác biến những đứa trẻ hồn nhiên này trở thành trẻ em lang thang.
Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới và đầu tiên tại châu Á ký Công
ước quốc tế về Quyền trẻ em nhưng trẻ em lang thang đang trở thành một vấn nạn
của xã hội khi mức độ phức tạp về cả số lượng, tính chất lẫn hình thức lang thang,
nhất là ở các thành phố lớn. Với đặc thù là một trong những đô thị lớn nhất cả nước,
thành phố Hà Nội luôn phải đối mặt với vô vàn vấn đề xã hội, trong đó không thể
thiếu tình trạng trẻ em lang thang vẫn sinh sống ở mỗi cung đường, góc phố. Nhưng
với quan điểm “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, việc giải quyết vấn đề trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt trong đó có tình trạng trẻ em lang thang luôn được ưu tiên
chú trọng. Vì vậy, nghiên cứu về các “Đặc điểm tâm lý của trẻ em lang thang tại
thành phố Hà Nội” có ý nghĩa quan trọng. Qua việc đánh giá thực trạng trên địa
bàn Hà Nội và xem xét nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em lang thang, chúng ta
có thể phân tích những đặc điểm tâm lý của nhóm trẻ này, từ đó đưa ra các kiến
nghị phù hợp với thực tiễn.
Là sinh viên học ngành Công tác xã hội, việc tìm hiểu về đặc điểm tâm lý
của trẻ em lang thang giúp bản thân người viết nâng cao kiến thức về một nhóm đối
tượng đặc thù, biết kết hợp các lý thuyết của tâm lý học xã hội nhằm nâng cao hiệu
quả giải quyết vấn đề cho đối tượng trẻ em lang thang.


2


Do kiến thức và thời gian có hạn, bài tiểu luận có thể còn nhiều thiếu sót,
người viết mong nhận được sự bổ sung, góp ý của thầy cô để bài tiểu luận hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

3


NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRẺ EM LANG THANG
Các khái niệm
Trẻ em
I.

1.
1.1.

Hiện nay có rất nhiều khái niệm dùng để chỉ trẻ em. Về mặt sinh học, trẻ em
là con người ở giữa giai đoạn từ khi sinh ra và tuổi dậy thì. Về định nghĩa pháp lý
thì Hiệp ước về Quyền Trẻ em của Liên hiệp quốc định nghĩa một đứa trẻ là “con
người dưới tuổi 18 trừ khi luật pháp ở các nước cụ thể quy định tuổi thành niên”.
Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam năm 2004 thì trẻ em
là công dân dưới 16 tuổi. Trẻ em nhìn chung có ít quyền hơn người lớn và được xếp
vào nhóm không để đưa ra những quyết định quan trọng, và về mặt luật pháp phải
luôn có người giám hộ.
Theo Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, trẻ em có 4 nhóm quyền cơ bản
như:

1.2.

Quyền được sống
Quyền được bảo vệ
Quyền được phát triển
Quyền được tham gia
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về
thể chất và tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với
gia đình và cộng đồng (Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
2004).
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có những đặc
điểm sau:

-

Thứ nhất, thể chất và tinh thần không bình thường: đó là các trẻ em có khuyết tật về

-

thể chất, tinh thần.
Thứ hai, không đủ điều kiện thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình và
cộng đồng.
Theo điều 40 luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì: “Trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em
khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm
4


HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại;

trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ
em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật”.
Trẻ em lang thang

1.3.

Hay còn được gọi là trẻ em đường phố. Một bộ định nghĩa được chấp nhận
rộng rãi, thường được cho là của Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc UNICEF, phân
chia trẻ em lang thang theo hai tiêu chí chính:
-

Thứ nhất là, những trẻ em sống trong gia đình có “nền móng” bị suy yếu, nên trẻ
phải chia sẻ trách nhiệm với gia đình bằng cách làm việc trên đường tham gia vào
một số hoạt động kinh tế từ ăn xin tới bán dạo. Đa số về nhà vào cuối ngày và góp
phần kiếm được của mình cho gia đình. Chúng có thể đến trường và vẫn có cảm
giác thuộc về một gia đình. Bởi sự mong manh kinh tế của gia đình, nhưng đứa trẻ
đó có thể cuối cùng sẽ lựa chọn một cuộc sống thường xuyên trên đường phố. Có

-

thể gọi nhóm này là trẻ em trên đường phố.
Thứ hai là, những trẻ em hàng ngày sống trên đường phố không có gia đình ( hay
mối quan hệ gia đình có hiện diện nhưng mong manh và duy trì không thường
xuyên. Nhóm này được gọi là trẻ em của đường phố.
Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam năm 2004
giải thích “trẻ em lang thang là trẻ em rời bỏ gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống
và nơi cư trú không ổn định; trẻ em cùng với gia đình đi lang thang”.
Tóm lại, trẻ lang thang là trẻ hàng ngày kiếm sống ở những nơi không ổn
định với những lý do khác nhau ( chính đáng hoặc không chính đáng), hoặc đó là
những đứa trẻ tự rời khỏi gia đình, rời bỏ quê hương đến sinh sống ở một nơi không

cố định và kiếm sống bằng nhiều cách.
Có thể chia trẻ em lang thang thành 4 loại chính sau:

-

Trẻ lang thang, bỏ hẳn gia đình, không có quan hệ gì với gia đình, ăn ngủ đều không
cố định. Số trẻ này bị bỏ rơi hoàn toàn không gia đình, không người thân phải tự
kiếm sống bằng các nghề như bán báo, đánh giày, bán hàng rong, bới rác, làm thuê,
… thời gian chủ yếu là lang thang trên đường phố hoặc trên các bãi rác, bến tàu bến
xe…
5


-

Trẻ lang thang nhưng đi cùng gia đình ( thường là các gia đình đi từ nông thôn lên
thành thị, ban ngày đi kiếm sống, tối về tụ họp lại với nhau trên vỉa hè, nhà ga hay
khu ổ chuột. Những gia đình này thuộc vùng nghèo khó, kinh tế quá khó khăn hay
gặp thiên tai rủi ro nào đó phải đưa cả nhà lên thành phố tìm cơ hội kiếm sống).
Dưới góc độ di dân, đây là một hình thức di dân tự do từ nông thôn về thành thị.

- Trẻ lang thang kiếm sống ban ngày, tối về ngủ với gia đình.
- Trẻ lang thang ra đi vì lý do nghèo đói và kiếm tiền gửi về giúp gia đình
2. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em

Trẻ em là một cơ thể đang lớn lên và phát triển. Từ lúc thụ thai đến tuổi
trưởng thành trẻ trải qua hai hiện tượng đó là sự tăng trưởng, phát triển về số lượng
và kích thích của các tế bào và sau đó là sự trưởng thành của các tế bào và mô (cấu
trúc và chức năng hoàn chỉnh dần). Quá trình lớn lên và phát triển này có tính chất
toàn diện và qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm về tâm sinh lý

riêng.
-

Từ khi mới sinh ra cho đến 2 tuổi:

Khi trẻ mới sinh, trẻ hoàn toàn cần sự giúp đỡ và lệ thuộc người khác để
được an toàn về thể chất và cảm xúc. Trẻ cần được giám sát thường xuyên vì trẻ
không ý thức về sự an toàn. Trẻ học di chuyển cơ thể như ngóc đầu lên, tự ăn, ngồi,
đứng, đi. Trẻ học cách sử dụng cùng lúc bàn tay và mắt để thao tác và ném đồ vật.
Trẻ phát triển về các giác quan.
Về mặt tâm lý xã hội, trẻ gắn bó với người chăm sóc và phát triển cảm giác
yêu thương và tin tưởng. Sau đó trẻ cũng có cảm giác lo sợ khi phải xa cách bố mẹ,
biết phân biệt người quen và người lạ. Trẻ hiểu nguyên nhân và hậu quả, hiểu sự tồn
tại của đồ vật mặc dù trẻ không còn thấy, hiểu lời nói và làm theo lệnh đơn giản,
biết tên một số đồ vật quen thuộc, vài bộ phận trong cơ thể, và khái niệm như
trong/ngoài, hoặc mở/đóng và trở nên độc lập khi tự chơi một mình trong thời gian
lâu.
-

Từ 3 đến 5 tuổi

Trong thời kỳ này trẻ tiếp tục lớn và phát triển nhưng chậm lại. Chức năng
vận động phát triển nhanh, trẻ bắt đầu đi một mình rồi chạy, tập vẽ,viết, trẻ tự xúc
thức ăn, rữa tay, rữa mặt... Trẻ luôn trong trạng thái tràn đầy năng lượng.
Về mặt tâm lý xã hội, trẻ phát triển ngôn ngữ và hiểu biết bản thân, suy nghĩ
về những điều kỳ diệu, xa thực tế, tìm hiểu cái gì thật và cái gì tưởng tượng, nghĩ về
6


“bây giờ và ở đây” hơn là tương lai, thích đặt nhiều câu hỏi. Ở độ tuổi này, trẻ bắt

đầu hiểu hậu quả của việc làm hay cảm xúc và phân biệt đúng hay sai, bắt đầu đi
nhà trẻ và có quan hệ với bạn bè và thầy cô. Trẻ có khuynh hướng lệ thuộc vào
người lớn, khi không tự lập được có thể dẫn đến mặc cảm tội lỗi và sợ thử những
công việc mới. Khó có khả năng ứng xử và quyết định.
-

Từ 6 đến 11 tuổi
Trẻ vẫn tiếp tục lớn nhưng không còn nhanh. Răng vĩnh viễn thay dần cho

răng sữa. Sự cấu tạo và chức phận của các cơ quan hoàn chỉnh. Trẻ biết suy nghĩ,
phán đoán, trí thông minh phát triển. Làm việc nhiều hơn với đôi tay và cơ thể do
khả năng tự kiểm soát tốt hơn.
Về mặt tâm lý xã hội, trẻ tiếp tục phát triển các kỹ năng, biết quan tâm đến
cảm xúc của người khác, suy nghĩ hợp lý về những điều cụ thể trong trải nghiệm
cuộc sống thường ngày, hiểu về những chuẩn mực của xã hội, có khả năng giải
quyết vấn đề do trí nhớ đã tốt hơn, có trách nhiệm hơn trong gia đình. Trình độ hiểu
biết cũng tăng lên do trẻ đã được đi học.
-

Từ 12 đến 18 tuổi
Đây là thời kỳ dậy thì với những biến đổi mạnh mẽ về sinh lý ở trẻ đặc biệt

các cơ quan sinh dục. Trong thời gian này chức năng các tuyến sinh dục hoạt động
mạnh biểu hiện bằng sự xuất hiện các giới tính như ở vùng xương mu, hố nách lông
mọc nhiều, các em gái thì ngực phát triển, bắt đầu có kinh nguyệt, các em trai bắt
đầu thay đổi giọng nói,… Các tuyến nội tiết như tuyến giáp, tuyến yên cũng hoạt
động mạnh.
Về mặt tâm lý xã hội, lứa tuổi này suy nghĩ về bản thân trước tiên, bắt đầu
quan tâm đến tương lai, chú ý đến các giá trị trong xã hội như ngoại hình, niềm tin,
các mối quan hệ. Có tâm lý phản nghịch, các em manh nha ý thức được mình không

còn là trẻ con nữa nên mong muốn được cha mẹ và người khác tôn trọng mình như
một "người lớn thực thụ". Lúc này trí tò mò thôi thúc trẻ có những hành động vượt
ra khỏi khuôn khổ nhằm khám phá những điều mới lạ để khẳng định mình đã lớn.
Tính cách trẻ phát triển theo xu hướng mưu cầu sự độc lập, tự khẳng định bản thân,
muốn tách khỏi kiểm soát của gia đình, mở rộng hơn nữa các mối quan hệ xã hội,
đồng thờ muốn tự quyết định các vấn đề liên quan đến bản thân mình. Khi đó, trẻ
7


rất xem trọng tình bạn và thường chịu ảnh hưởng của bạn bè, dù đó là bạn tốt hay
xấu. Một vấn đề nổi trội ở lứa tuổi này là các em bắt đầu chú ý đặc biệt đến bạn
khác giới. Do đặc điểm thích tò mò cùng với mong muốn khám khá năng lựa hoạt
động tình dục của mình nên các em dễ bốc đồng, hành động theo bản năng, song
không ý thức được nguy cơ nên dễ gây hậu quả đáng tiếc vì thế cần có sự kiểm soát
một cách khoa học của gia đình, nhà trường và xã hội.
Trẻ em lang thang cũng có những đặc điểm sinh lý như trên, tuy nhiên do
hoàn cảnh sống mà các em có những biến đổi khác biệt, đặc biệt là về mặt tâm lý so
với trẻ em nói chung. Đặc điểm tâm lý trẻ em lang thang sẽ được phân tích cụ thể
hơn ở phần sau.
2. Một số quan điểm của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với hỗ trợ trẻ em lang

thang
Hồ Chủ Tịch từng nói “ mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” – đây
cũng là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là dành sự quan tâm
cho nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có trẻ em lang thang.
Trẻ em lang thang là vấn đề xã hội, vì vậy giải quyết tình trạng trẻ em lang
thang phải gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của từng địa
phương đồng thời phải gắn chặt với các giải pháp kinh tế, văn hóa với các giải pháp
về xã hội; Giải quyết vấn đề của trẻ em lang thang là đảm bảo sự bình đẳng về
quyền lợi cho các em như mọi trẻ em khác; Giải quyết vấn đề trẻ em lang thang là

một quá trình lâu dài. Vì vậy phải huy động sức mạnh tổng hợp của xã hội, của các
cấp các ngành, của từng địa phương và gia đình đa dạng hóa các nguồn lực. Ưu tiên
đầu tư cho các quận, huyện có nhiều trẻ em lang thang, lấy phương châm phòng
ngừa giải quyết tại cơ sở là chính, giúp các em trở về gia đình, quê hương, làng
xóm.
Nhà nước cũng đưa ra một số văn bản quy phạm pháp luật quy định về trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ em lang thang nói riêng:
-

Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam năm 2004 quy định
tại khoản 2 Điều 7 nghiêm cấm “Dụ dỗ, lôi kéo trẻ em đi lang thang; lợi dụng trẻ
em lang thang để trục lợi”.

8


-

Tại điều 4 chương II Nghị định số 71/2011/NĐ-CP ngày 22/08/2011 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em thì nghiêm cấm hành vi “dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, khống chế trẻ em đi lang
thang, lợi dụng trẻ em lang thang để trục lợi. Nói chuyện, viết, dịch, nhân bản sách,
báo, tài liệu, tranh, ảnh, ghi âm, ghi hình, dùng tiền, vật chất, uy tín hoặc lợi ích
khác nhằm dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, khống chế trẻ em bỏ nhà đi lang thang dưới mọi
hình thức. Bắt trẻ em, tập hợp, chứa chấp trẻ em, cho thuê, cho mượn trẻ em để đi
lang thang kiếm sống, ăn xin hoặc thực hiện các hoạt động khác nhằm mục đích
trục lợi.”

-


Nghị định số 91/2011/NĐ-CP ngày 17/10/2011 quy định xử phạt hành chính về bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tại điều 10 chương 2 thì đối với hành vi dụ dỗ, lôi
kéo, ép buộc, khống chế trẻ em đi lang thang; lợi dụng trẻ em lang thang để trục lợi.

-

Điều 42 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định về chính
sách của Nhà nước đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tạo mọi điều kiện cho các

II.
1.
1.1.

em được hưởng các quyền cơ bản và hòa nhập với cộng đồng.
THỰC TRẠNG, ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA TRẺ EM LANG THANG
Thực trạng trẻ em lang thang tại thành phố Hà Nội
Những xu hướng của thực trạng trẻ em lang thang tại thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của cả nước,
là thành phồn hoa bậc nhất Việt Nam nhưng cũng như bao đô thị khác trên thế giới,
nó cũng có những mặt tối và trẻ em lang thang cũng đang là một vấn nạn tại đây.
Theo báo cáo thống kê hàng năm của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
năm 2003, tổng số trẻ em lang thang trên cả nước ước tính khoảng 19.000 em, trong
đó các em lang thang ở Hà Nội khoảng 1.500 em. Mặc dù chính quyền địa phương
nơi có trẻ em lang thang đều khẳng định số lượng trẻ em lang thang giảm đáng kể
sau các chương trình đưa trẻ lang thang về quê hòa nhập cộng đồng, nhưng thực
chất vấn đề trẻ lang thang vẫn gây nhiều bức xúc. Theo điều tra của Diễn đàn phát
triển Việt Nam (VDF), số lượng trẻ đường phố hiện nay so với những năm trước
đây không giảm cho dù sự xuất hiện của trẻ đường phố ít hơn và rải rác hơn. Theo
số liệu của một cuộc điều tra của Cục Bảo vệ Chăm sóc trẻ em thì tình hình trẻ em
lang thang tại Hà Nội trong thời gian qua có biến động rất lớn, từ 1.500 em vào năm

9


2003, sau 10 năm đã giảm xuống chỉ còn 62 em vào năm 2014. Tuy nhiên hiện nay,
vẫn chưa có một số liệu chính thức đáng tin cậy nào về trẻ lang thang đường phố ở
Hà Nội trong một vài năm trở lại đây. Do vậy, liệu số lượng trẻ đường phố sẽ ổn
định như hiện nay, hay còn tiếp tục thay đổi hiện vẫn là một câu hỏi mở.
Độ tuổi trung bình của trẻ lang thang ở Hà Nội là từ 6-16 tuổi, không ít
trường hợp như có những em mới 4 tuổi nhưng đã có 3 năm rong ruổi cùng mẹ
kiếm sống. Thời điểm mà số lượng trẻ em lang thang tại Hà Nội tăng cao là mùa hè
khi các em được nghỉ học. Vào năm học, tùy vào điều kiện của từng cá nhân mà các
em sẽ tiếp tục bám trụ lại thành phố hoặc được về quê tiếp tục đi học.
Biểu đồ 1: Quê quán của trẻ lang thang Hà Nội theo cuộc điều tra năm 2004
Nguồn: Điều tra của Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF)
Theo biểu đồ trên, phần lớn trẻ em đường phố đến từ các vùng nông thôn,
hiếm có trường hợp đến từ các thành phố, hầu hết trẻ lang thang ở Hà Nội là đến từ
các tỉnh phía Bắc. Ngoài trẻ em của Việt Nam lang thang thì những năm gần đây
cũng xuất hiện khá nhiều người nước ngoài và trẻ em nước ngoài cũng lang thang
xin ăn tại Việt Nam (trẻ em Lào, Campuchia).
Các công việc dành cho trẻ lang thang đường phố thông thường là nhặt phế
liệu, đánh giày, bán hàng rong, xin ăn, bán xổ số và kết quả xổ số, thậm chí là móc
túi và ăn cắp vặt ở chợ. Đối với những trẻ nam, các em thường làm các công việc
đánh giày, bán vé số, móc túi, và ăn cắp vặt ở chợ. Trong khi đó, các em gái thường
đi bán vé số và bán dạo trên đường phố. Những trẻ còn nhỏ tuổi thường làm nghề
xin ăn và nhặt phế liệu vì các em quá nhỏ không có đủ sức lao động để làm các việc
khác ví dụ như khuân vác. Những trẻ lớn tuổi hơn sau khi đã tích lũy được một số
những kinh nghiệm nhất định thường muốn làm các việc như bán dạo trên phố. Rất
nhiều em cùng một lúc làm hai công việc hoặc nhiều hơn.
Biểu đồ 2: Nghề nghiệp của trẻ đường phố tại Hà Nội theo điều tra năm 1992
và 2003

Nguồn: Buồm và Caseley (1996) và những số liệu chưa được xuất bản của Ủy ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em thành phố Hà Nội (2003).

10


1.2. Nguyên nhân dẫn đến trẻ em lang thang tại thành phố Hà Nội
Những nguyên nhân khiến những trẻ còn đang trong tuổi đi học phải bỏ học
kiếm sống trên hè phố có thể được phân chia ra làm 3 nhóm chính sau đây: Gia
đình tan vỡ, nhận thức sai lệch và di cư vì mục đích kinh tế. Từ cách phân loại trên
có thể đưa ra những đánh giá về đặc điểm tâm lý phù hợp với từng nhóm trẻ lang
thang.
- Nhóm nguyên nhân gia đình tan vỡ: Nhóm này bao gồm các trẻ có hoàn
cảnh gia đình đặc biệt khó khăn như bị mồ côi, bỏ rơi, cha mẹ ly dị hoặc mất, hoặc
những trẻ là nạn nhân của bạo hành trong gia đình, lạm dụng tình dục và những
nguyên nhân tương tự khác. Đây cũng chính là nhóm nguyên nhân truyền thống của
trẻ lang thang ở bất kỳ một đất nước nào.
- Nhóm nhận thức sai lệch: Đó là trường hợp của các trẻ lang thang xuất thân
từ những gia đình không quá khó khăn về kinh tế nhưng gia đình vẫn muốn các em
lên thành phố để làm thêm gửi tiền về cho gia đình. Hoặc có một số trường hợp các
em tự muốn rời bỏ cuộc sống chung cùng gia đình để ra các thành phố kiếm sống.
Những trẻ lang thang như vậy được xếp vào nhóm do những sai lệch trong nhận
thức. Một số trẻ bỏ nhà đi do bị bạn bè xấu lôi kéo hoặc trẻ muốn được sống tự do
thoải mái mà không phải đi học. Cuộc sống ở các thành phố lớn với vẻ bề ngoài rất
sôi động cùng những bạn bè đã biết về cuộc sống đường phố chính là sự lôi kéo đối
với các em. Đối với những trẻ thuộc nhóm này, kiếm tiền không phải là động cơ chủ
yếu. Dần dà, các em sẽ không thể cưỡng lại được sự sa ngã vào các tệ nạn xã hội
như ma túy, mại dâm, và phạm pháp vị thành niên.
- Nhóm di cư vì mục đích kinh tế: Là những em có hoàn cảnh gia đình nghèo
đói di cư ra thành phố để kiếm sống. Các em theo cha mẹ tới Hà Nội và các thành

phố lớn kiếm tìm vùng đất hứa. Đặc điểm quan trọng để xác định nguyên nhân vì
mục đích kinh tế là cha mẹ của các em không phải muốn các em phải bỏ học để
kiếm sống trên đường phố, mà các em buộc phải trở thành trẻ lang thang vì với
hoàn cảnh sống hiện tại các em không còn sự lựa chọn nào khác. Nghèo đói rõ ràng
là một nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trẻ lang thang đường phố. Do gia đình
nghèo mà trẻ không được đi học và vui chơi, thiếu đi sự quan tâm chăm sóc của
người lớn, và phải lao động hàng giờ đồng hồ trong môi trường không tốt cho sự
11


phát triển của trẻ. Có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói như gia đình bị
thiên tai mất mùa, lao động chủ lực trong gia đình phải rời đi nơi khác hoặc bị chết,
thất nghiệp, ốm đau bệnh tật, bị thương, cha mẹ ly hôn, ly thân, gia cầm vật nuôi bị
chết, bị mất trộm v.v.. Trong những rủi ro trên có những rủi ro xảy ra dẫn đến sự tan
vỡ của gia đình, có những rủi ro nằm ngoài sự kiểm soát và đề phòng của con
người. Một khi những rủi ro này xảy ra, nghèo đói là một hệ quả tất yếu.
Đặc điểm tâm lý của trẻ em lang thang tại thành phố Hà Nội
Tuy mỗi quốc gia, mỗi địa phương có phong tục, tập quán khác biệt. Nhưng

2.

trẻ em lang thang tại địa bàn Hà Nội cũng như mọi khu vực khác đều có sự tương
đồng đáng kinh ngạc. Do phải sớm bươn chải kiếm sống ngoài xã hội nên các em có
-

một số đặc điểm về tâm lý như:
Thích sống tự do, không chịu sống trong khuôn khổ
Do khi sống trên đường phố, các em được tự do đi lại, ăn uống, sinh hoạt, có
nhiều mối quan hệ, không bị ràng buộc bởi những quy định. Vì thế nếu các em được
đưa vào Trung tâm Bảo trợ thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thích ứng với

những quy định, điều lệ. Một số em dần quen và thích ứng, nhưng một số lại bỏ trốn
ra ngoài, mặc dù biết cuộc sống bên ngoài có nhiều cạm bẫy, nguy hiểm. Khi trẻ
lang thang, bụi đời đã chọn cách sống lang thang đường phố là phương sách tối ưu
đối với chúng thì nhiều em không thể hoặc không muốn đưa ra lời giải thích nào
khác cho động cơ của chúng ngoài việc chúng muốn được “độc lập”, “tự do” không
bị ràng buộc vào gia đình và các tổ chức xã hội mà muốn gắn bó với bạn bè đồng
cảnh.
Nhiều trẻ bụi đời không muốn từ bỏ sự độc lập của mình để quay về với cuộc
sống bình thường của trẻ em. Quay trở về đối với chúng là đồng nghĩa với việc phải
chịu đựng đau khổ, chán chường hay đè nén khi phải hòa nhập với một cuộc sống
mới, nhất là khi chúng đã dám bước qua bước ngoặt quan trọng và cần thiết là thoát
ly khỏi cuộc sống đó rồi.

-

Luôn có cơ chế tự vệ, phòng ngự cao
Tuy tự nhận thức được sự hạn chế về khả năng của bản thân nhưng do phải
thường xuyên đối đầu với những nguy cơ đe doạ đến tính mạng, đến việc kiếm sống
nên các em luôn phải cảnh giác, trong trạng thái phòng ngự bất kể những gì có thể
làm tổn hại đến mình. Trẻ lang thang có rất nhiều lo lắng như: lo bị ốm không ai
12


chăm sóc, lo bị đánh, lo bị bắt cóc, bị lạm dụng tình dục, bị lừa bán,… Từ những
lần chứng kiến hay chính bản thân bị xua đuổi, bị đánh đập hoặc bị giao cho cơ
quan chức năng, vì thế trẻ lang thang đường phố khó tin vào người lạ. Trước khi
gắn bó với một ai, các em muốn được bảo đảm là các em có thể tin tưởng người đó
được. Cũng vì tâm lý nghi kỵ này mà trẻ lang thang hay nói dối (tên tuổi, quê quán,
gia đình,…).
-


Có lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ những người yếu thế
Các em rất dễ thông cảm, đồng cảm với những người có cùng hoàn cảnh khó
khăn như người già yếu, người nghèo, người cô đơn không nơi nương tựa, người bị
bỏ rơi, người gặp hoạn nạn…. thường được các em sẵn lòng giúp đỡ, tương trợ.

-

Gắn kết với nhóm bạn bè mà các em là thành viên
Khi trẻ lang thang đã tụ tập lại với nhau thành nhóm, chúng thường tỏ thái
độ khiêu khích một cách công khai, tỏ ra xem thường các quy ước xã hội, muốn
tách mình ra khỏi những ràng buộc của xã hội, chúng tự đặt ra những quy ước riêng
với nhau với mong muốn được tự do cá nhân. Đối với các em kỷ luật và tình đoàn
kết gắn bó với nhau theo quy ước riêng của nhóm là nguyên tắc cần thiết để chúng
tự bảo vệ quyền lợi của mình. Mặc dù thích cuộc sống tự do, nhưng các em lại rất
tôn trọng những nguyên tắc mà nhóm đặt ra. Các thành viên trong nhóm có thể hỗ
trợ, bảo vệ quyền lợi cho nhau, đồng thời nhóm cũng là nơi mà các em có thể chia
sẻ những niềm vui và nỗi buồn, những thuận lợi và khó khăn trong cuộc sống, giúp
các em cân bằng về mặt tinh thần hơn.

-

Có lòng tự trọng cao
Là những người sớm tự kiếm tiền, tự làm chủ cuộc sống, không phải phụ
thuộc nên một số em tự nhận thấy được giá trị của bản thân. Trong quan hệ với bạn
bè đồng cảnh lang thang, trẻ em thuộc loại này cũng luôn tỏ ra mình độc lập với
người khác, không phụ thuộc vào người khác, hoặc muốn trẻ khác chịu “lép vế”
hơn, phải phụ thuộc vào mình, tôn mình lên là “dân anh chị”. Nhu cầu tự khẳng
định ở trẻ lang thang còn thể hiện ở chỗ chúng dám nhận mình là ai, tỏ phản ứng
khó chịu, khi người khác tỏ ra thương hại hoặc đánh giá thấp chúng. Vì vậy, nếu bị

tổn thương lòng tự trọng, các em sẵn sàng có những hành động hung hăng để bảo vệ
lòng tự trọng của mình.
13


-

Nhu cầu về tình cảm cao
Sự đổ vỡ, tổn thương về tinh thần và tình cảm là điều khó tránh khỏi đối với
những trẻ lang thang bước ra đi từ một gia đình không hạnh phúc hay một sự xâm
phạm nặng nề nào đó về tinh thần hay thân thể. Một số trẻ đi lang thang vì gia đình
ruồng bỏ hoặc gia đình quá khó khăn không đáp ứng được một số nhu cầu hết sức
cơ bản như: ăn, mặc, học và nhất là tình thương.Với vẻ bề ngoài bướng bỉnh, phong
trần nhưng bên trong đứa trẻ lang thang rất cần tình thương và sự che chở đùm bọc.

-

Trẻ lang thang do hoàn cảnh cuộc sống mà sớm bươn chải dẫn đến các em có tính
tự lập cao và biết cách tổ chức cho cuộc sống riêng của mình.
Ngoài ra tùy với từng nguyên nhân trở thành trẻ em lang thang mà tâm lý của
trẻ có sự khác biệt. Phần lớn trẻ bỏ nhà ra đi vì nguyên nhân bạo hành trong gia
đình đều phải chịu những tổn thương về tâm lý và tình cảm rất nặng nề. Trong khi
đó những em lang thang vì lý do kinh tế thường phải đối mặt với ít khó khăn nhất so
với hai nhóm nguyên nhân còn lại nếu các em vẫn còn giữ được mối liên lạc với gia
đình và bản thân các em vẫn còn giữ được lòng ham muốn được học tập và có được
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Lý do chính và đôi khi là lý do duy nhất để các em lang
thang trên đường phố là lý do kinh tế. Vì thế những trẻ lang thang nhóm này thường
có thái độ tốt và động lực khuyến khích để có một tương lai tươi sáng hơn.
Trình độ nhận thức, kỹ năng sống của trẻ lang thang còn thấp: Phải đối mặt
với cuộc sống hàng ngày, trẻ lang thang thiếu sự quan tâm của gia đình, nhà trường

và xã hội, thậm chí có em chưa bao giờ tới trường, vì vậy các em thiếu hiểu biết cần
thiết. Nhiều em không biết mình được hưởng những quyền gì và phải bảo vệ quyền
lợi chính đáng.
Trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội rất dễ bị mặc cảm, tự ti về bản thân do
thường xuyên phải chứng kiến những người bạn đồng trang lứa được được đến
trường, được nâng niu, được vui chơi, có điều kiện vật chất trong khi các em lại
phải bước vào xã hội quá sớm để kiếm tiền. Cảm giác thiệt thòi này cứ lớn dần trở
thành bóng đen trong tâm lý trẻ lang thang, có thể tiến triển thành nỗi oán hận hoàn
cảnh, oán hận xã hội,...

14


Hình 1: một bức ảnh, hai số phận

Nguồn: Trương Minh Hiếu
3. Các giải pháp hỗ trợ trẻ em lang thang trên địa bàn thành phố Hà Nội
3.1. Một số biện pháp giúp đỡ trẻ lang thang về mặt tâm lý1
Trong các nhóm trẻ có hoàn cảnh đặc biệt thì trẻ em lang thang là nhóm trẻ
dễ tổn thương nhiều nhất. Các em đang đứng trên bờ vực của tệ nạn xã hội, của sự
lệch hướng chuẩn mực hành vi. Các em rất cần sự giúp đỡ để vượt qua hoàn cảnh,
để vươn lên hòa nhập cộng đồng. Do sống trong môi trường không ổn định, phải va
chạm tại những môi trường phức tạp khiến trẻ lang thang luôn là đối tượng để kẻ
xấu trục lợi. Các em có thể bị trấn lột, đánh đập, xâm hại tình dục ( đặc biệt là các
1 Tiêu Thị Minh Hường, Lý Thị Hàm, Bùi Thị Xuân Mai, 2014, Giáo trình Tâm lý học xã hội ( tập 1), NXB
Lao động – xã hội, tr 188-189.

15



trẻ em gái). Tệ hại hơn, có kẻ còn lôi kéo các em đến với ma túy hoặc mại dâm, làm
-

các công việc phi pháp. Vì thế, cần:
Trang bị kỹ năng sống bằng nhiều hình thức để trẻ có khả năng phòng tránh các
nguy cơ từ tệ nạn xã hội như: nhận diện kẻ xấu qua các thủ đoạn, hành vi; kiên định
trước những lời dụ dỗ hoặc lợi ích vật chất; kỹ năng tự bảo vệ bản thân trước những

-

nguy cơ từ lây nhiễm HIV/AIDS, ma túy hoặc mại dâm;…
Nâng cao nhận thức mọi mặt cho trẻ, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức có ý chấp
hành pháp luật, ý thức kỷ luật và trách nhiệm với cộng đồng. Đồng thời giúp trẻ có
cơ hội biết và tiếp cận các tổ chức trợ giúp xã hội. Một trong những tổ chức hàng
đầu trong các hoạt động vì trẻ em lang thang đường phố là Tổ chức Trẻ em Rồng
Xanh có trụ sở tại Ba Đình, Hà Nội với phương thức hành động nghiêng về các hoạt
động xã hội, không chỉ đến với các em và cung cấp những nhu cầu thường ngày mà

-

còn chú trọng vào nâng cao năng lực cho trẻ lang thang có thể tự bảo vệ bản thân.
Cộng đồng chung tay tổ chức các sân chơi, tạo cơ hội cho trẻ em lang thang có cơ
hội tìm lại tuổi thơ hồn nhiên bị “đánh cắp”, thông qua đó thu hút sự chú ý tham gia
tích cực của trẻ nhằm giáo dục thái độ, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái cho
trẻ. Cần nâng đỡ về mặt tâm lý cho trẻ lang thang, chia sẻ, lắng nghe, khuyến khích
trẻ lang thang biết tự khẳng định tiềm năng tích cực của mình.
Một số kiến nghị nhằm hạn chế trẻ lang thang trên đường phố, giúp trẻ lang

3.2.
-


thang hòa nhập cộng đồng
Quản lý chặt chẽ của nhà nước
Đối với việc quản lý trẻ em lang thang hiện nay thì vai trò của nhà nước là vô
cùng quan trọng. lúc này cần có sự tăng cường quản lý của các cấp ủy Đảng, và
cần chính quyền các cấp có chỉ đạo cụ thể về công tác bảo vệ trẻ em cũng như chăm
sóc và giải quyết các vấn đề cho các trẻ em lang thang, có nguy cơ lang thang và trẻ
em không được đi học, không nhận được sự giáo dục đầy đủ.

-

Vai trò của truyền thông
Một điều quan trọng nữa để giúp cho trẻ lang thang hòa nhập với cộng đồng
hơn là cần đẩy mạnh công tác truyền thông, vận động xã hội với nội dung và hình
thức phù hợp với từng khu vực, gia đình và trẻ em, tập trung cụ thể vào chính các
em và gia đình có trẻ lang thang và nguy cơ lang thang.

-

Đẩy mạnh vai trò của giáo dục

16


Đặc biệt trong việc giúp trẻ em lang thang hòa nhập thì giáo dục có vai trò
rất lớn. nhất là trong việc nâng cao chất lượng giáo dục tốt hơn nhưng cũng đồng
thời cần có sự tổ chức các hình thức học tập, giáo dục phù hợp nhằm thu hút trẻ em
trong độ tuổi đến trường, giảm tối đa tình trạng trẻ em bỏ học để đi lao động và lang
thang kiếm sống. đây cũng là một trách nhiệm nặng nền của ngành giáo dục để
tránh hiện tượng trẻ bỏ học và lang thang kiếm sống quá sớm.

-

Vai trò của gia đình
Gia đình là nơi bao bọc trẻ em, nếu nó bị rạn nứt thì hậu quả về thể chất và
tâm lý của trẻ sẽ rất lớn. Vì thế, để hạn chế trẻ em lang thang thì vai trò của gia đình
là rất quan trọng. Cần kịp thời phát hiện, trợ giúp những gia đình có sự kết nối lỏng
lẻo, hay những gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn.

-

Vai trò của xã hội
Hà Nội qua những đợt rà soát cho năm “Kỷ cương hành chính”, năm “kỷ
cương văn hóa” cũng đã rà soát, hỗ trợ đưa trẻ em lang thang trên địa bàn về với gia
đình hay trợ giúp đưa về các trung tâm giáo dục, nuôi dưỡng. Tùy với từng địa bàn
phường quận mà có sự điều chỉnh biện pháp phù hợp với thực tiễn. Trong cộng
đồng cũng cần có nhiều phong trào để thực hiện công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em
được tốt hơn, tránh việc các em bỏ nhà đi lang thang và giúp trẻ lang thang có thể
quay về nhà. Đội ngũ cán bộ chăm sóc và bảo vệ trẻ em cũng cần nâng cao chuyên
môn, có sự săn sóc kịp thời và giám sát trẻ tốt hơn. Hiện nay trong cộng đồng cũng
có nhiều mô hình bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ ra đời. Cần có sự phối hợp chặt
chẽ của cộng đồng cùng nhà trường, gia đình và chính quyền để bảo vệ trẻ em tại
khu vực của mình. Huy động mọi nguồn lực, mở rộng hợp tác quốc tế để được hỗ
trợ kinh nghiệm cũng như kinh phí để có thể bảo vệ và giáo dục các em tốt nhất.

17


18



KẾT LUẬN
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” – đây không chỉ là một khẩu hiệu sáo
rỗng mà là tôn chỉ hành động của cả xã hội trong việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục
trẻ em. Việc giải quyết tình trạng trẻ em lang thang có ý nghĩa cả về mặt kinh tế,
văn hóa và xã hội cho thành phố Hà Nội – bộ mặt của cả đất nước. Do những khó
khăn trong việc thu thập số liệu do đặc thù di chuyển và có khi là trốn tránh của trẻ
em lang thang mà chúng ta vẫn chưa có một con số xác thực về số lượng trẻ em
lang thang tại Hà Nội. Nhưng nhìn vào những thực trạng đau lòng của trẻ lang
thang, cùng những ảnh hưởng tới tâm lý của các em, cả xã hội cần nỗ lực hơn nữa
trong việc thực thi các giải pháp giải quyết triệt để vấn nạn này. Để từ đó mỗi mầm
non tương lai của đất nước đều được chăm sóc một cách chu đáo, vỗ về những
gương mặt non nớt nhưng trong đầu đầy những lo âu già nua, để không chỉ trên
thành phố Hà Nội mà mọi miền đất nước chúng ta đều không còn những bóng hình
của trẻ em lang thang.
Với vị trí là nhân viên công tác xã hội, tìm hiểu về đặc điểm tâm lý của trẻ
em lang thang mới chỉ là bước đầu trong tiến trình xây dựng các biện pháp can thiệp
giải quyết với đối tượng này. Nhưng cũng đã cho chúng ta cái nhìn rõ ràng và đưa
ra các phương thức để dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với trẻ em lang thang như
cần tạo lòng tin và cảm giác cho an toàn với trẻ, hay quan tâm và đối xử với trẻ một
cách chân thành,… Vì thế, nếu khéo léo vận dụng đặc điểm tâm lý của trẻ em lang
thang sẽ giúp ích cho nhân viên xã hội giải quyết vấn đề.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.


Các văn bản quy phạm pháp luật
Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em.
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004.
Nghị định số 71/2011/NĐ-CP ngày 22/08/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
4. Nghị định số 91/2011/NĐ-CP ngày 17/10/2011 quy định xử phạt hành chính về bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
 Tài liệu sách, giáo trình
5. Tiêu Thị Minh Hường, Lý Thị Hàm, Bùi Thị Xuân Mai, 2014, Giáo trình Tâm lý
học xã hội ( tập 1), NXB Lao động – xã hội, tr 182-189.
 Tài liệu trên Internet hay các phương tiện truyền thông
6. Dương Kim Hồng (2005); Trẻ đường phố Việt Nam Những nguyên nhân truyền

thống và những nguyên nhân mới, mối quan hệ giữa các nguyên nhân này trong
nền kinh tế đang phát triển. Được lấy về từ:
/>7. Đỗ Thị Thanh Huyền và Quách Thị Quế (2014); Thực trạng trẻ em lang thang ở
Việt Nam. Được lấy về từ: />8. Phạm Ngọc Thanh; Các giai đoạn phát triển tâm lý ở trẻ. Được lấy từ:
/>9. Phóng sự Tâm sự trẻ em đường phố lang thang kiếm sống trên chương trình
Chuyển động 24h lúc 18h30 trên kênh VTV1 ngày 21/4/2015.
10. Phương pháp đưa trẻ em lang thang hòa nhập cộng đồng. Được lấy về từ:
/>11. Quách Thị Quế (2011); Trẻ em lang thang và nhu cầu trợ giúp tâm lý. Được lấy về
từ: />
20



×