Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý tài CHÍNH đối với đơn vị sự NGHIỆP CÔNG lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.49 KB, 45 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG
LẬP


- Cơ sở lý luận
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp công lập đã góp phần quan trọng cho sự phát triển
của nền kinh tế xũng như trong các chính sách phát triển của
từng quốc gia.
Với bối cảnh hiện nay, khi ngân sách nhà nước ngày
càng hạn hẹp, bội chi và nợ công tăng thì việc quản lý tài
chính tại các đơn vị sự nghiệp có hiệu quả, giảm bớt gánh
nặng bao cấp của Nhà nước là vấn đề luôn được Quốc hội,
Chính phủ và các bộ ban ngành quan tâm đặc biệt. Vì vậy, cho
đến nay đã có không ít công trình nghiên cứu, bài viết liên
quan đến lĩnh vực này như:
Đề tài: “Quản lý tài chính ở Nhà xuất bản Chính tri
Quốc gia – Sự thật” của tác giả Lưu Thị Bình, trường Đại học
kinh tế, năm 2014. Luận văn đã đề cập đến quản lý tài chính
điển hình tại đơn vị sự nghiệp là Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia – Sự thật. Tuy nhiên, quản lý tài chính tại đơn vị sự
nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào tính chất đặc thù của một
cơ quan ngôn luận của Đảng.
Đề tài: “Tổ chức công tác kế toán thu, chi với viêcc̣ tăng
cường tự chủ tài chính tại các bệnh viện công lập thuộc Bộ y
tế tại Hà Nội” của thạc sỹ Tô Thị Kim Thanh, trường Đại


Học Thương Mại. Luận văn đã trình bày và làm sáng tỏ


những vấn đề lý luận cơ bản về đặc điểm hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp có thu và chính sách kế toán áp dụng tại các
đơn vị hoạt động theo mô hình này. Đồng thời thông qua các
phương pháp nghiên cứu, điều tra, luận văn cũng làm ro
những vấn đề cơ bản về tổ chức công tác kế toán thu chi tại
các bệnh viện công lập, đánh giá khách quan ưu điểm cũng
như những tồn tại cần tiếp tục hoàn thiện kế toán thu, chi tại
các đơn vị khảo sát. Từ những nghiên cứu đó, luâṇ văn đã làm
ro sự cần thiết và yêu cầu hoàn thiện kế toán thu, chi tại các
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ y tế. Từ đó trình bày cu
ṭ hể các đề xuất, các giải pháp hoàn thiện kế toán thu, chi với
việc tăng cường tự chủ tài chính. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu
mới chỉ dừng lại ở chu trình kế toán thu, chi tại đơn vị sự
nghiệp chưa đề cập được có hoạt động quản lý tài chính tại
đơn vị.
Đề tài: “Hoàn thiện công tác tài chính tại các đơn vi sự
nghiệp có thu ngành thông tin thương mại” luận văn thạc sĩ
của tác giả Trần Thi ̣Quỳnh, Trường Đại học Thương Mại. Đề
tài đã phán ánh một số nét cơ bản về đơn vị sự nghiệp công lập
thuộc lĩnh vực văn hóa, thông tin nói chung và thông tin
thương mại nói riêng. Thực trạng công tác tài chính trong các


đơn vị sự nghiệp có thu ngành thông tin thương mại, người
viết cũng đưa ra quan điểm và giải pháp hoàn thiện công tác tài
chính tại đó. Tuy nhiên, những vấn đề được nêu lên trong đề
tài là toàn bộ thực trạng hoạt động tài chính chứ không đi sâu
phân tích để quản lý hoạt động tài chính.
Đề tài: “Tăng cường quản lý tài chính tại các đơn vi sự
nghiệp có thu giai đoạn 2013-2015 tại tỉnh Lào Cai” của tác

giả Phan Đức Thắng, trường Học Viện Tài chính, năm 2016.
Luận văn đã đề cập đến những nội dung cơ bản của quản lý
tài chính tại các đơn vị sự nghiệp nói chung và ở địa phương
nói riêng. Tuy nhiên quản lý tài chính và NSNN cấp tỉnh chịu
ảnh hưởng bởi các nhân tố về điều kiện địa lý tự nhiên, tình
hình kinh tế - xã hội (KTXH) của địa phương đó, nên có
những nội dung khác với quản lý tài chính và NSNN cho cơ
quan cấp bộ tại trung ương.
Đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý tài chính đối với
các đơn vi sự nghiệp thuộc Cục Đia chất và Khoáng sản Việt
Nam” của tác giả Trần Quang Huy, trường Học Viện Tài
chính, năm 2012. Luận văn đã hệ thống hoá các lý luận cơ bản
về cơ chế quản lý tài chính, về huy động và sử dụng các nguồn
tài chính, các quan hệ tài chính tại các ĐVSN công lập. Phân
tích, đánh giá thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân của những


vấn đề còn hạn chế trong công tác quản lý tài chính tại các
ĐVSN công lập thuộc Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.
Đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý
tài chính ở các ĐVSN thuộc Cục ĐC&KS Việt Nam. Việc
quản lý tài chính đối với các ĐVSN thuộc lĩnh vực địa chất
khoáng sản cũng đơn giản hơn lĩnh vực biển và hải đảo do là
đơn vị có bề dày lịch sử lại có công cụ quản lý là định mức
kinh tế kỹ thuật và bộ đơn giá cho tất cả các công việc.
Đề tài: “Hoàn thiện cơ chế tự chủ về sử dụng kinh phí
NSNN đối với các đơn vi của Tổng cục Môi trường” của tác
giả Lương Việt Hưng, trường Học Viện Tài chính năm 2013.
Đề tài đã đưa ra một số lý luận cơ bản về cơ chế tự chủ về sử
dụng kinh phí NSNN, thực trạng về tự chủ sử dụng kinh phí

NSNN tại Tổng cục Môi trường. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề
cập đến cơ chế tự chủ chung mà vẫn chưa tách biệt cơ chế tự
chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và tự chủ tại cơ
quan hành chính nhà nước.
Có thể thấy quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp và
đổi mới công tác quản lý tài chính là vấn đề rất được quan
tâm. Các nghiên cứu trên đã đề cập đến việc quản lý tài chính
ở các lĩnh vực khác nhau và các địa phương. Quản lý tài chính
các đơn vị sự nghiệp tuân theo quy định chung của Nhà nước,


tuy nhiên hoạt động của các đơn vị sự nghiệp các lĩnh vực
khác nhau có sự khác biệt đặc biệt tại các ĐVSN thuộc Tổng
cục Biển và Hải đảo có nhiều nét đặc thù riêng, cụ thể: tất cả
các nhiệm vụ đều thi công và thực hiện trên biển, hải đảo do
vậy phụ thuộc vào các yếu tố thời tiết, trang thiết bị, con
người…Những yếu tố này chi phối rất lớn đến công tác quản
lý tài chính. Do vậy, việc nghiên cứu quản lý tài chính tại các
đơn vị sự nghiệp thuộc Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam là
rất cần thiết và quan trọng trên góc độ quản lý tại Tổng cục
Biển và Hải đảo VN cũng như tại Bộ Tài nguyên và Môi
trường.
- Cơ sở lý luận về quản lý tài chính đối với các đvsn
công lập
- Một số khái niệm
- Đơn vi sự nghiệp công lập
Tại Điều 9 Luật số 58/2010/QH12 - Luật viên chức ngày
15 tháng 11 năm 2010 của Quốc hội đã chỉ ra: Đơn vị sự
nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập

theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp


dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước. Đơn vị sự nghiệp
công lập gồm: (1) Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền
tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ
máy, nhân sự, (2) Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao
quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ
chức bộ máy, nhân sự.
Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của
Chính phủ đưa ra khái niệm ĐVSN công lập: “… là những đơn
vị do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập
(đơn vị dự toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, có tổ
chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật kế toán), hoạt động
trong các lĩnh vực sự nghiệp Giáo dục-đào tạo dạy nghề, sự
nghiệp Y tế, đảm báo xã hội, sự nghiệp văn hoá thông tin, sự
nghiệp thể dục thể thao, sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác…”.
Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015
của Chính phủ quy định: “Đơn vị sự nghiệp công lập do cơ
quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập theo quy định
của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công,
phục vụ quản lý nhà nước (sau đây gọi là đơn vị sự nghiệp
công)”.
“Dịch vụ sự nghiệp công là dịch vụ sự nghiệp trong các
lĩnh vực giáo dục đào tạo; dạy nghề; y tế; văn hóa, thể thao và


du lịch; thông tin truyền thông và báo chí; khoa học và công
nghệ; sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác”.
Như vậy, khái niệm ĐVSN công lập đưa ra về cơ bản

thống nhất với các khái niệm trước đây.
Theo cách tiếp cận trên thì có hai cách phân loại ĐVSN
công lập, cụ thể:
Một là, phân loại ĐVSN công lập theo lĩnh vực hoạt
động:
- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào
tạo bao gồm các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân
- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hoá nghệ
thuật bao gồm hệ thống các đoàn nghệ thuật; trung tâm chiếu
phim quốc gia; nhà văn hoá; thư viện, bảo tồn, bảo tàng; Đài
phát thanh truyền hình; trung tâm báo chí …
- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực y tế bao gồm
các cơ sở khám chữa bệnh; trung tâm điều dưỡng, phục hồi
chức năng…


- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực thể dục thể
thao bao gồm các trung tâm huấn luyện thể dục thể thao; các
liên đoàn, đội thể thao; các câu lạc bộ thể dục thể thao …
- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực xã hội bao
gồm các trung tâm chỉnh hình; trung tâm dịch vụ việc làm …
- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực kinh tế bao
gồm các viện thiết kế, quy hoạch đô thị, nông thôn; các trung
tâm bảo vệ rừng, trung tâm nước sạch vệ sinh môi trường,
trung tâm đăng kiểm, …
Bằng cách phân loại này, Nhà nước có thể xác định được
cơ cấu ngành đối với các ĐVSN từ đó đề ra các chính sách
kinh tế để điều tiết nền kinh tế quốc dân trong từng thời kỳ
nhất định. Có những lĩnh vực hoạt động cần nhiều sự điều tiết

của Nhà nước, tất yếu mô hình các ĐVSN công lập tồn tại và
phát triển. Những lĩnh vực có thể xã hội hoá, các ĐVSN có
thể chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp để giảm bớt gánh
nặng bao cấp từ Nhà nước.
Hai là, phân loại ĐVSN theo nguồn thu sự nghiệp:


Cách phân loại này dựa trên nguồn thu sự nghiệp của
đơn vị có thể tự đảm bảo cho hoạt động thường xuyên của
ĐVSN hàng năm:

Mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên

Tổng số nguồn thu sự nghiệp

=

x

100%

Tổng số chi hoạt động thường xuyên

Tổng số nguồn thu sự nghiệp và tổng số chi hoạt động
thường xuyên tính theo dự toán thu, chi của năm đầu thời kỳ
ổn định.
- Đơn vị có nguồn thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt
động thường xuyên (gọi tắt là ĐVSN tự đảm bảo chi phí hoạt
động). Là ĐVSN có mức tự đảm bảo chi phí hoạt động
thường xuyên xác định theo công thức trên, bằng hoặc lớn

hơn 100%. Đã tự bảo đảm chi phí hoạt động từ nguồn thu sự
nghiệp, từ nguồn thu sự nghiệp do cơ quan có thẩm quyền của
nhà nước đặt hàng.
- Đơn vị có nguồn thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt
động thường xuyên, phần còn lại được NSNN cấp (gọi tắt là


ĐVSN tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động): là ĐVSN có
mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên xác định
theo công thức trên từ trên 10% đến dưới 100%.
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, ĐVSN không có
nguồn thu, kinh phí hoạt động thường xuyên do NSNN đảm
bảo toàn bộ (gọi tắt là ĐVSN do NSNN bảo đảm toàn bộ chi
phí hoạt động): Bao gồm các ĐVSN có mức tự đảm bảo chi
phí hoạt động thường xuyên xác định theo công thức trên từ
10% trở xuống và các ĐVSN không có nguồn thu.
Theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của
Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của ĐVSN công lập ngoài
03 loại hình ĐVSN như đã nêu trên còn có thêm ĐVSN tự
bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư.
Phân loại các ĐVSN theo mức tự đảm bảo kinh phí
thường xuyên giúp đánh giá một phần hiệu quả trong quản lý
tài chính công cho mô hình ĐVSN công lập. Qua đây nhận
thấy việc khai thác năng lực hoạt động của mỗi đơn vị đem lại
hiệu quả như thế nào, từ đó Nhà nước có chính sách phân bổ
ngân sách và giao kế hoạch ngân sách hàng năm được sát
hơn.


Mặt khác, việc phân loại các ĐVSN theo Nghị định số

16/2015/NĐ-CP đã tiếp cận việc tính giá cung cấp dịch vụ
công theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho các đơn vị
sự nghiệp công lập được tự chủ thực sự trong việc tính toán
các chi phí đầu vào, đầu ra, thu hồi chi phí để tái đầu tư, đảm
bảo đời sống cho người lao động. Đặc biệt, các quy định còn
giúp tiết kiệm chi NSNN thông qua việc giảm chi hỗ trợ mang
tính bình quân, cào bằng cho tất cả các đơn vị sự nghiệp công
lập, không gắn với kết quả hoạt động của đơn vị…
- Hoạt động tài chính của các ĐVSN công lập
Hoạt động tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập
là một trong những nội dung cơ bản liên quan mật thiết đối
với hoạt động chuyên môn của các đơn vị sự nghiệp công lập
nhằm giải quyết mối quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt
động chuyên môn của đơn vị, được biểu hiện dưới hình thái
tiền tệ để thực hiện các mục tiêu của các đơn vị sự nghiệp là
bảo đảm cung cấp các dịch vụ công theo yêu cầu của xã hội
về số lượng, chất lượng, cơ cấu dịch vụ. Nói cách khác hoạt
động tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập là những
quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức huy động, phân


phối, sử dụng quản lý nguồn lực nhằm bảo đảm nguồn lực tài
chính cần thiết cho hoạt động chuyên môn của đơn vị.
Với cách tiếp cận về hoạt động tài chính trong các đơn vị
sự nghiệp công lập như trên, có thể hình dung nội dung hoạt
động tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm:
(1) Hoạt động huy động nguồn lực tài chính: Nguồn tài
chính của các ĐVSN được hình thành từ các nguồn khác
nhau, trong đó nguồn kinh phí do NSNN, nguồn thu sự
nghiệp và các nguồn thu khác.

Một là, kinh phí do NSNN cấp, gồm:
- Kinh phí đảm bảo hoạt động thường xuyên thực hiện
chức năng, nhiệm vụ đối với ĐVSN tự đảm bảo một phần chi
phí hoạt động (sau khi đã cân đối với nguồn thu sự nghiệp);
được cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao, trong phạm vi
dự toán được cấp có thẩm quyền giao. Phần kinh phí này
được NSNN cấp ổn định theo định kỳ (thông thường là 3
năm), hàng năm được tăng thêm theo tỷ lệ do Nhà nước quyết
định. Hết thời hạn theo định kỳ, mức kinh phí do NSNN đảm
bảo sẽ được xác định lại cho phù hợp.
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ (đối với các đơn vị không phải là tổ chức khoa học và
công nghệ);
- Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán
bộ, viên chức;


- Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đặt hàng (điều tra, khảo sát, các nhiệm vụ
khác);
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có
thẩm quyền giao;
- Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo
chế độ do nhà nước quy định (nếu có);
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang
thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự
nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong
phạm vi dự toán được giao hàng năm.
- Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước

ngoài được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Kinh phí khác (nếu có).
Nhìn chung các khoản kinh phí trên đều được Nhà nước
thanh toán theo nguyên tắc dựa trên giá trị công việc thực tế
và tối đa không quá dự toán được cấp có thẩm quyền phê
duyệt.


Hai là, nguồn thu sự nghiệp, gồm: phần được để lại từ
số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy định của nhà
nước; thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên
môn và khả năng của đơn vị; lãi được chia từ các hoạt động
liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng từ các hoạt động
dịch vụ.
ĐVSN được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thu
phí, lệ phí phải thực hiện thu đúng, thu đủ theo mức thu và
đối tượng thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định
khung mức thu, đơn vị căn cứ nhu cầu chi phục vụ cho hoạt
động, khả năng đóng góp của xã hội để quyết định mức thu cụ
thể cho phù hợp với từng loại hoạt động, từng đối tượng
nhưng tối đa không vượt quá khung mức thu do cơ quan có
thẩm quyền quy định.
Đối với sản phẩm, dịch vụ do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đặt hàng thì mức thu theo đơn giá do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định; trường hợp sản phẩm chưa
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định giá thì mức


thu được xác định trên cơ sở dự toán chi phí được cơ quan tài

chính cùng cấp thẩm định và chấp thuận.
Đối với những hoạt động dịch vụ theo hợp đồng với các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các hoạt động liên
doanh, liên kết, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức
thu cụ thể theo nguyên tắc bảo đảm đủ bù đắp chi phí và có
tích luỹ.
Ba là, nguồn khác, gồm:
- Nguồn vốn viện trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định
của pháp luật.
- Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng và vốn huy
động của cán bộ, viên chức trong đơn vị;
- Nguồn vốn tham gia liên doanh, liên kết của các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp
luật.
Nguồn thu này thường phát sinh nhiều tại các đơn vị
thực hiện dự án tài trợ, các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực y
tế, giáo dục, phúc lợi công cộng.


(2) Hoạt động phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính
phục vụ hoạt động chuyên môn của các đơn vị sự nghiệp công
lập.
Đây là một hoạt động tài chính hết sức quan trọng. Nếu
hoạt động huy động nguồn lực tài chính tạo ra khả năng, tiền
đề thực hiện các hoạt động chuyên môn của đơn vị thì hoạt
động phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính là hiện thực hóa
thực hiện hoạt động chuyên môn của đơn vị. Kết quả hoạt
động chuyên môn, cung như việc bảo toàn, tiết kiệm và hiệu
quả nguồn lực tài chính của đơn vị tùy thuộc vào quan điểm,
cách thức phân bổ nguồn lực tài chính của đơn vị.

(3) Hoạt động phân phối kết quả tài chính của đơn vị
Sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các
khoản nộp khác theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn
chi (nếu có) đơn vị được trích hình thành 04 quỹ (Quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập,
Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi) của đơn vị theo những tỷ
lệ nhất định do Nhà nước quy định.
Đây cũng là một hoạt động tài chính hết sức quan trọng
của đơn vị. Thông việc trích và sử dụng các quỹ góp phần mở


rộng quy mô hoạt động của đơn vị, khuyến khích việc nâng
cao năng lực, hiệu quả hoạt động chuyên môn của đội ngũ cán
bộ công nhân viên đơn vị, thực hiện công tác xã hội của đơn
vị.
- Quản lý tài chính ĐVSN công lập:
Cho đến nay, có không ít định nghĩa về “quản lý tài
chính” tùy theo góc độ nghiên cứu, qua nghiên cứu thực tế có
thể hiểu quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp công lập là việc sử
dụng các thông tin phản ánh chính xác tình trạng hoạt động tài
chính trong một đơn vị để phân tích điểm mạnh điểm yếu của
nó, từ đó lập các kế hoạch tài chính (kế hoạch huy động, phân
bổ nguồn lực tài chính) và tổ chức quá trình triển khai thực
hiện kế hoạch tài chính nhằm phục vụ có hiệu quả hoạt động
chuyên môn của đơn vị.
Quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp công lập được coi là
hợp lý, có hiệu quả nếu nó tạo ra được một cơ chế quản lý
thích hợp, có tác động tích cực tới các quá trình hoạt động
chuyên môn của đơn vị theo các phương hướng phát triển đã
được hoạch định. Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các

đơn vị sự nghiệp có liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế xã


hội do đó phải có sự quản lý, giám sát, kiểm tra nhằm hạn
chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong
khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính đồng thời nâng cao
hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính.
Khác với việc quản lý tài chính ở khu vực tư nhân, quản
lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập mang
những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Một là, Nhà nước là chủ thể quản lý, đối tượng quản lý
là tài chính đơn vị sự nghiệp.
Các đơn vị sự nghiệp công lập do Nhà nước thành lập
nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế, xã hội của Nhà nước
và của xã hội. Đại bộ phận kinh phí hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp công do Nhà nước tài trợ hoặc được Nhà nước cho
phép huy động nguồn lực của xã hội thông qua những quy
định trong hệ thống pháp luật của Nhà nước để trang trải các
chi phí hoạt động. Chính vì vậy Nhà nước là chủ thể quản lý.
Với đặc điểm này phần nào cho thấy có sự khác biệt giữa
quản lý tài chính và quản trị tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập. Nếu chủ thể quản lý tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp là Nhà nước, thì chủ thể quản trị tài chính


chính là bản thân của các đơn vị sự nghiệp. Đương nhiên quản
trị tài chính các đơn vị sự nghiệp công không thể thoát lý sự
quản lý của Nhà nước.
Là chủ thể quản lý, Nhà nước có thể sử dụng tổng thể
các phương pháp, các hình thức và công cụ để quản lý hoạt

động tài chính của các đơn vị sự nghiệp trong những điều kiện
cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Để đạt được
những mục tiêu đề ra, công tác quản lý tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp bao gồm ba khâu công việc: Thứ nhất, lập dự
toán thu, chi ngân sách nhà nước trong phạm vi được cấp có
thẩm quyền giao hàng năm; Thứ hai, tổ chức chấp hành dự
toán thu, chi tài chính hàng năm theo chế độ, chính sách của
Nhà nước; Thứ ba, quyết toán thu, chi ngân sách Nhà nước.
Hai là, hiệu quả của công tác quản lý tài chính đơn vị sự
nghiệp công không dùng thước đo lợi nhuận mà thước đo hiệu
quả quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công là sự
so sánh giữa chi phí thực hiện các công tác chuyên môn với
kết quả chuyên môn mang lại theo những mục tiêu đã được
xác định. Nếu công tác quản lý tài chính bảo đảm kết quả hoạt
động chuyên môn ở mức cao được xã hội thừa nhận với chi


phí thấp nhất được gọi là hiệu quả của quản lý tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công.
Ba là, quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập mang tính chất tổng hợp. Tính chất tổng hợp này thể
hiện ở chổ có sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý và quản trị tài
chính, có sự kết hợp nhuần nhuyển giữa phương pháp kinh tế,
hành chính và pháp luật, trong đó lấy phương pháp pháp luật
làm trọng.
- Mục tiêu và nguyên tắc quản lý tài chính đơn vị sự
nghiệp công lập
* Mục tiêu:
Quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp công lập hướng tới
phải đạt được các mục tiêu chủ yếu sau đây:

Một là, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp công, bảo đảm yêu cầu cung ứng dịch vụ
sự nghiệp công cho xã hội một cách tốt nhất về số lượng, chất
lượng và cơ cấu các dịch vụ.
Hai là, bảo toàn, tiết kiệm, hiệu quả trong sử dụng nguồn
lực tài chính của đơn vị.


* Nguyên tắc quản lý tài chính đơn vi sự nghiệp công
lập:
Quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp phải tuân thủ các
nguyên tắc sau:
Một là, các ĐVSN phải thực hiện lập dự toán thu, chi
ngân sách hàng năm, hàng quý theo quy định của Luật Ngân
sách Nhà nước. Mọi hoạt động thu, chi phải có đầy đủ chứng
từ hợp lệ, hợp pháp để làm căn cứ cho việc kiểm tra, kiểm
soát của cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước.
Hai là, tất cả các khoản chi tiêu phải được kiểm tra, kiểm
soát trước, trong và sau quá trình phân bổ, thanh toán. Các
khoản chi phải có trong dự toán được duyệt, đúng tiêu chuẩn,
chế độ, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định và được thủ trưởng đơn vị duyệt chi.
Ba là, phải thực hiện nguyên tắc tiết kiệm, chống lãng
phí, các khoản tiết kiệm sẽ được phép để nâng cao chất lượng
hoạt động của đơn vị.
Bốn là, thực hiện đúng chế độ quản lý tài chính đối với
các khoản thu sự nghiệp; thu đúng, thu đủ, kịp thời và hạch


toán đầy đủ và sổ sách kế toán, sử dụng có hiệu quả và đúng

chế độ các nguồn thu.
Năm là, thực hiện hạch toán kế toán, báo cáo quyết toán
theo đúng quy định về biểu mẫu và mục lục ngân sách nhà
nước.
Sáu là, việc quản lý chi tiêu phải gắn với chức năng,
nhiệm vụ của đơn vị thực hiện nhiệm vụ chính trị với chất
lượng cao, đồng thời đảm bảo nguyên tắc tài chính.
- Nội dung quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp
công lập
- Lập dự toán thu, chi ngân sách
Lập dự toán thu, chi trong các đơn vị sự nghiệp công là
quá trình phân tích, đánh giá giữa khả năng và nhu cầu các
nguồn tài chính để xây dựng các chỉ tiêu thu chi tài chínhhàng
năm một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Lập
dự toán thu chi tài chính trong đơn vị sự nghiệp công vừa là
bước công việc của việc quản lý tài chính, vừa là nội dung của
quản lý tài chính, bởi lẽ để có thể lập được dự toán phải nắm
và phân tíchnhững thông tin về hiện trạng hoạt động tài chính


trong quá khứ cũng như trong tương lai qua đó hiểu được
điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động tài chính của đơn vị, từ
đó mới có có thể lập được dự toán thu, chi tài chính xác thực.
Lập dự toán thu, chi tài chính là khâu khởi đầu của chu trình
quản lý tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công. Một dự
toán thu, chi xác thực nó phản ánh mục tiêu, phương pháp nội
dung quản lý tài chính xác đáng của công tác quản lý tài chính
trong đơn vị sự nghiệp công và cơ sở cho việc triển khai công
tác quản lý tài chính trong thực tiễn. Chính vì vậy, lập dự toán
được coi là nội dung quan trọng không thể thiếu trong quản lý

tài chính.
Có hai phương pháp lập dự toán thường được sử dụng là
phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ (incremental
budgeting method) và phương pháp lập dự toán cấp không
(zero basic budgeting method). Mỗi phương pháp lập dự toán
trên có những đặc điểm riêng cùng những ưu, nhược điểm và
điều kiện vận dụng khác nhau.
1 - Phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ: là
phương pháp xác định các chỉ tiêu trong dự toán dựa vào kết
quả hoạt động thực tế của kỳ liền trước và điều chỉnh theo tỷ lệ
tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát dự kiến. Như vậy phương pháp


này rất ro ràng, dễ hiểu và dễ sử dụng, được xây dựng tương
đối ổn định, tạo điều kiện, cơ sở bền vững cho nhà quản lý
trong đơn vị trong việc điều hành mọi hoạt động.
2 - Phương pháp lập dự toán cấp không: là phương pháp
xác định các chỉ tiêu trong dự toán dựa vào nhiệm vụ, mục
tiêu hoạt động trong năm kế hoạch, phù hợp với điều kiện cụ
thể hiện có của đơn vị chứ không dựa trên kết quả hoạt động
thực tế của năm trước. Như vậy, đây là phương pháp lập dự
toán phức tạp hơn do không dựa trên số liệu, kinh nghiệm có
sẵn. Tuy nhiên, nếu đơn vị sử dụng phương pháp này sẽ đánh
giá được một cách chi tiết hiệu quả chi phí hoạt động của đơn
vị, chấm dứt tình trạng mất cân đối giữa khối lượng công việc
và chi phí thực hiện, đồng thời giúp đơn vị lựa chọn được
cách thức tối ưu nhất để đạt được mục tiêu đề ra.
Phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ là phương
pháp truyền thống, đơn giản, dễ thực hiện và phù hợp cho
những hoạt động tương đối ổn định của đơn vị. Trong khi đó,

phương pháp lập dự toán cấp không phức tạp hơn, đòi hỏi
trình độ cao trong đánh giá, phân tích, so sánh giữa nhiệm vụ
và điều kiện cụ thể của đơn vị nên chỉ thích hợp với những


×