Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.83 KB, 12 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

Đề tài: Khoa học và công nghệ là nền tảng và
động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019


A. Đặt vấn đề
I. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1. Tác giả Tường Mạnh - Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ
vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước - Trích từ Báo
điện tử Đắc Nông.
 Nội dung: Bài viết nhấn mạnh khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc
phát triển nền kinh tế, nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Tác giả Bích Liên - Khoa học công nghệ: đòn bẩy phát triển kinh tế địa phương - Trích
từ Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 14/06/2019
 Nội dung: Với nhiều đóng góp trên mọi lĩnh vực, khoa học và công nghệ đã không
ngừng khẳng định vai trò là “đòn bẩy”, là động lực thúc đẩy phát triển bền vững.
3. Tác giả Trần Văn Tùng - Bài viết “Khoa học công nghệ là động lực phát triển kinh tế –
xã hội của đất nước” - Tạp chí quản lí nhà nước ngày 21-5-2018.
 Nội dung: Đảng ta đã sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí, vai trò của
khoa học và công nghệ (KHCN) và luôn coi KHCN là quốc sách hàng đầu.
4. Tác giả PGS.TS Phạm Ngọc Linh - Khoa học và công nghệ là nền tảng của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước -Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam - Số 1
năm 2018.
 Nội dung: Những chủ trương chính sách của Việt Nam trên con đường công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước để Khoa học Công nghệ thực sự là động lực, là nền tảng.


5. Tác giả Nguyễn Hà - Khoa học và công nghệ đem lại những thành tựu mới cho y tế Trích từ Báo điện tử Nhân dân ngày 02/03/2018.
 Nội dung: Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, ngày nay công
tác nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học, chuyển giao công nghệ mới vào lĩnh
vực y tế.
6. Tác giả Phan Xuân Dũng - Đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Trích từ Tạp chí Cộng sản ngày
26/01/2016.


 Nội dung: Bài viết phân tích các kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế những nguyên
nhân rồi từ đó tìm ra những bước đi mới nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động khoa
học và công nghệ trong thời gian tới.
7. Tác giả Nguyễn Đình Quốc Cường – Vai trò của khoa học công nghệ hiện đại trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Tạp chí Tuyên giáo ngày 27/08/2014.
 Nội dung: Trình bày các nội dung cần chú ý để thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
8. Tác giả Thanh Hường - Xuân trường - Khoa học công nghệ là nền tảng, động lục đẩy
mạnh nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Trích từ trang báo điện tử của Đài phát
thanh truyền hình Thanh Hóa ngày 7/11/2015.
 Nội dung: Bài viết nói về Đề án phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Thanh Hóa giai
đoạn 2016 – 2020, cụ thể là về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển
khoa học công nghệ.
9. Tác giả Vũ Văn Phúc - Phương hướng phát triển trong đường lối công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của đất nước ta – Tạp chí Cộng sản ngày 18/12/2015.
 Nội dung: Tác giả đã đưa ra những luận chứng để làm rõ rằng, chủ trương đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại và đường lối tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
10. Tác giả Hoàng Gia - Để khoa học công nghệ là động lực phát triển đất nước – Trích
từ Báo Quân đội Nhân dân ngày 12/06/2016.
 Nội dung: Đánh giá những thành tự lớn về khoa học công nghệ mà chúng ta đạt được,

nêu lên những hạn chế từ 1986-2016 đồng thời đặt ra mục tiêu phương hướng từ nay
đến năm 2020, 2030.

II. Lí do chọn đề tài
- Khoa học và công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng và an ninh, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
- Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ (KH&CN) trên thế giới trong
những năm gần đây, đặc biệt là sự xuất hiện của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá khó dự báo trước và có ảnh
hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người.


- Trên thực tế, sự đẩy mạnh cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên số hóa và kết nối có
thể mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

B. Nội dung
I. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa ở Việt Nam
 Đại hội Đảng VI (tháng 12/1986) và quan điểm về công nghiệp hóa: Từ việc chỉ ra
những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là chuyển trọng tâm từ
phát triển công nghiệp nặng sang thực hiện cho bằng được ba chương trình lương thực,
thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Tiếp theo, Đại hội VII của Đảng tiếp tục có những
nhận thức mới ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về CNH gắn với HĐH.
 Hội nghị TW7 khóa VII (tháng 1/1994) đưa ra quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa như sau: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công

nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
 Đại hội VIII nêu ra 6 quan điểm về CNH, HĐH như sau:
- Thứ nhất, Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng nền
kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản
phẩm trong nước sản xuất được.
- Thứ hai, CNH, HĐH là sự nghiệp của mội thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
- Thứ ba, lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
- Thứ tư, coi khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu
quyết định.
- Thứ năm, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án
phát triển, lựa chọn dự án, công nghệ.
- Thứ sáu, kết hợp kinh tế với quốc phòng-an ninh.
 Đại hội IX của Đảng (năm 2001) tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới
trong tư duy về công nghiệp hóa:


- Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước
đi trước.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh và có hiệu quả
các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu . CNH,
HĐH phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế.
- Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm nông nghiệp.
- Đẩy mạnh CNH, HĐH phải tính đến yêu cầu phát triển bền vững trong tương lai. Tức
là phải sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường...
 Đại hội Đảng X (năm 2006) đã xác định: Do nước ta thực hiện CNH, HĐH khi trên

thế giới nền kinh tế tri thức đã phát triển mạnh và sẽ tiếp tục có những bước nhảy vọt
nên đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu
tố quan trọng cuả nền kinh tế và CNH, HĐH”.
 Đại hội XI (năm 2011) bổ sung những nội dung sau về CNH:
- Đặt nhiệm vụ đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại
theo định hướng XHCN.
- Nhấn mạnh phải “thực hiện CNH HDH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và
bảo vệ tài nguyên,môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, gắn chặt chẽ công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ”.
 Quan điểm về CNH, HĐH được Đảng ta nêu ra từ Hội nghị TW khóa VII và được bổ
sung, phát triển qua các Đại hội VIII, IX, X, XI, XII của Đảng:
- Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức.
- Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững.
- Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
- Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh
học.

II. Thành tựu của nước ta sau quá trình đổi mới
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất-kỹ thuật,


hạ tầng kinh tế-xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển. So với thời kỳ trước đổi
mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình), đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở
thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

Một là, cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng
độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao.
- Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, đến
nay cả nước đã có hơn 100 khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt
động có hiệu quả, tỉ lệ ngành công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản
phẩm ngày càng tăng.
- Ngành CN sản xuất tư liệu như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa chất cơ bản,
khai thác và hóa dầu đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ.
- Một số sản phẩm CN đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước.
- Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân thời kỳ 2001-2005 đạt 16,7%/năm,
năng lực xây dựng tăng nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại. Việc xây
dựng đô thị, nhà ở đạt nhiều hiệu quả.
- Công nghiệp nông thôn và miền núi có bước tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình
của cả nước.
- Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng, sân bay, cảng biển,
đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính - viễn thông theo hướng hiện đại.

Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt
được những kết quả quan trọng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng nông,
lâm nghiệp và thủy sản giảm. Trong từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch tích cực
về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất,
với thị trường.

- Cơ cấu kinh tế vùng đã có điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng
vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh đóng góp quan trọng vào sự
tăng trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế.
- Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
- Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Từ năm 2000-2010, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng tăng


từ 13,1% lên 22,4%; dịch vụ tăng từ 19,7% lên 29,4%, nông lâm nghiệp và thủy sản
giảm từ 65,1% xuống còn 48,2%; lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên 40%.
 Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng
đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến nay đạt trên
7,5%/năm. Điều đó đã góp phần quan trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo. Thu nhập
đầu người bình quân hàng năm tăng lên đáng kể. Năm 2005, đạt 640 USD/người thì
năm 2010 đạt 1168$/ người. Vì vậy, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục
được cải thiện.
- Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) với
mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải
qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng.
- Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm gấp đôi so với 5 năm trước đó;
giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài
chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm; giai đoạn
2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế
giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm.
- Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của
Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế
giới. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh.

- Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình quân đầu người ở Việt Nam mới chỉ đạt
471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền kinh tế đã đạt khoảng 204 tỷ USD, thu
nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD.
- Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng tăng
trưởng có mặt được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất có bước được nâng lên.
Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp TFP vào tăng trưởng nếu ở giai đoạn 20012005 chỉ đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2% thì trong giai đoạn 2011-2015 đã
đạt 28,94%. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát.


- Qua 30 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển
văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi
trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm
đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và
người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa
giàu-nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực
xóa đói giảm nghèo.

III. Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa
hiện đại hóa
1. Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động kinh tế và quản lí kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên
tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2. Khái niệm khoa học công nghệ
Khoa học là toàn bộ hoạt động có hệ thống nhằm xây dựng và tổ chức kiến thức dưới
hình thức những lời giải thích và tiên đoán có thể kiểm tra được về vũ trụ. Thông qua các
phương pháp kiểm soát, nhà khoa học sử dụng cách quan sát các dấu hiệu biểu hiện mang
tính vật chất và bất thường của tự nhiên nhằm thu thập thông tin, rồi sắp xếp các thông

tin đó thành dữ liệu để phân tích nhằm giải thích cách thức hoạt động, tồn tại của sự vật
hiện tượng. Một trong những cách thức đó là phương pháp thử nghiệm nhằm mô phỏng
hiện tượng tự nhiên dưới điều kiện kiểm soát được và các ý tưởng thử nghiệm. Định
nghĩa về khoa học được chấp nhận phổ biến rằng khoa học là tri thức tích cực đã được hệ
thống hóa.
Công nghệ là sự phát minh, sự thay đổi, việc sử dụng, và kiến thức về các công cụ,
máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống, và phương pháp tổ chức, nhằm giải
quyết một vấn đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một
chức năng cụ thể. Công nghệ cũng có thể chỉ là một tập hợp những công cụ như vậy, bao
gồm máy móc, những sự sắp xếp, hay những quy trình. Thuật ngữ có thể được dùng theo
nghĩa chung hay cho những lĩnh vực cụ thể, ví dụ như "công nghệ xây dựng", "công nghệ
thông tin".


3. Khoa học công nghệ chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước
Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức được rằng khoa học và
công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát triển. Vai trò này của
khoa học và công nghệ càng trở lên đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trên con
đường rút ngắn giai đoạn phát triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại. Ngay từ khi bắt
đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định khoa học và công nghệ là
cái giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ
quản lý, bản đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH.
Nghị quyết Trung ương hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã xác định
rõ :”CNH- HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ” “khoa học và
công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH- HĐH”. Chỉ bằng con đường
CNH- HĐH, phát triển khoa học và công nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn lạc
hậu trở thành một nước giàu mạnh văn minh. Nghị quyết trung ương II cũng đã nhấn
mạnh phải thật sự coi “Sự phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của

toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng. Bởi lẽ dù chúng ta có tiến
hành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có đưa trang thiết bị kỹ thuật tân tiến nhất,
những quy trình công nghệ hiện đại nhất vào nước ta thì cũng không có gì để có thể bảo
đảm đẩy mạnh được CNH- HĐH. Nếu không có được những con người am hiểu và sử
dụng chúng. Do đó, xã hội hoá tri thức khoa học và công nghệ là một trong những nhu
cầu thiết thực và cấp bách nhất để đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
Song đó khoa học công nghệ còn là động lực và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế
xã hội, phát triển ngành, cụ thể là:
Đổi mới công nghệ sẽ thúc đẩy sự hình thành và phát triển các nghành mới đại diện
cho tiến bộ khoa học – công nghệ; dưới tác động của sự đổi mới công nghệ thì cơ cấu
ngành sẽ đa dạng, phing phú, phức tạp hơn; các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ
sẽ phát triển nhanh hơn so với các ngành truyền thống.
Khoa học công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản
phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp
lí, tiết kiệm nguyên liệu … nhờ vậy sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường,
thúc đẩy tăng trưởng nhanh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.


Khoa học công nghệ sẽ giải quyết các nhiệm vụ môi trường, cải thiện điều kiện sống
và làm việc, giảm lao động nặng nhọc, độc hại; biến đổi cơ cấu lao động theo hướng:
nâng cao tỉ trọng lao động chất xám, lao động có kỹ thuật, giảm lao động phổ thông, lao
động chân tay,…
Khoa học công nghệ hạn chế ảnh hưởng của thiên nhiên, cho phép phát triển công
nghiệp ngay cả khi thời tiết không thuận lợi.
Khoa học công nghệ làm tăng khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và mở rộng
hơn nữa là tăng khả năng cạnh tranh giữa các quốc gia trên thế giới.
Từ đó cho thấy được vai trò to lớn của khoa học và công nghệ, nó không những là nền
tảng vững chắc giúp chúng ta đổi mới về mọi mặt xã hội mà còn là động lực lớn lao
hướng chúng ta đến con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
4. Tiềm lực về khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay

Khoa học và công nghệ luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng
xuất lao động và hiệu quả sản xuất ở mọi lĩnh vực. Nền khoa học và công nghệ Việt Nam
từng bước hội nhập, giao lưu với nền khoa học công nghệ của thế giới, tạo thuận lợi cho
Việt Nam học tập kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ thế giới
phục vụ cho sự phát triển của kinh tế- xã hội của đất nước. Việc chuyển giao các dây
chuyền công nghệ, khoa học tiên tiến của thế giới vào từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể ở
Việt Nam như: Công nghệ sản xuất ô tô (Nhà máy ô tô Trường Hải tiếp nhận dây chuyền
chuyển giao của Hyundai về sản xuất ô tô), công nghệ sản xuất thiết bị di động cầm tay,
chip và các sản phẩm viễn thông (Samsung Việt Nam), các công nghệ ứng dụng trong
lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao (Công nghệ tưới nhỏ giọt theo tiêu chuẩn Israel),
công nghệ xây dựng cầu đường và công nghệ thông tin trong các ngành dịch vụ tài chính,
ngân hàng đã góp phần đưa các ngành này từng bước tiếp cận và đạt đến trình độ của thế
giới.
Cùng với đó, Việt Nam đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư của
nước ngoài vào lĩnh vực khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự đầu tư của các nước tiên
tiến có nền khoa học và công nghệ phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore... Các chương trình hợp tác đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao,
có khả năng tiếp nhận, chuyển giao và ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến của thế giới sẽ góp phần nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ những người


làm khoa học hiện có và phát triển đội ngũ các nhà khoa học công nghệ trẻ kế tục sự
nghiệp phát triển nền khoa học và công nghệ quốc gia ngày càng hiện đại hơn.
5. Phương hướng phát triển
Việt Nam đang bắt đầu bước vào một giai đoạn phát triển và hội nhập mới. Trong
giai đoạn 2016- 2020, CNH theo hướng HĐH đã được xác định là trọng tâm của
chiến lược phát triển quốc gia. Để sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, từ nay đến năm 2020, các cấp, các ngành phải tập trung thực
hiện thật tốt 5 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:
- Một là, phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền;

tăng cường công tác kiểm tra, giám sát ứng dụng và phát triển KH&CN
- Hai là, tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động, nhất là cơ
chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN.
- Ba là, xây dựng và triển khai các nhiệm vụ KH&CN theo hướng phục vụ thiết
thực các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
-

Bốn là, xây dựng tiềm lực KH&CN gắn kết chặt chẽ với phát triển sản xuất và

phục vụ đời sống người dân
-

Năm là, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường KH&CN; thúc

đẩy phát triển đồng bộ các yếu tố và hạ tầng của thị trường KH&CN
- Sáu là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm nâng cao trình độ công nghệ quốc gia.

C. Kết luận
-

Từ năm 1960 đến nay, đường lối CNH của Đảng ta ở các thời kỳ khác nhau có
những quan điểm, nội dung khác nhau. Thực chất đó là quá trình thể nghiệm, trăn trở
để tìm ra hướng đi CNH phù hợp với đất nước và thời đại. Đặc biệt, với hơn 30 năm

-

đổi mới, quan niệm, mô hình CNH ở nước ta đã được xác định ngày càng rõ hơn.
Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng; là cơ sở để phấn đấu đạt mục tiêu:
Đến giữa thế kỷ XXI đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành nước
công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN như Đại hội Đảng XII đã đặt ra. Ba

mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa trọng đại trong sự
nghiệp phát triển của Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà


nước và nhân dân; là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách
mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.”
Việt Nam đang bước vào thời kỳ thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng
ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc
tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Trong điều kiện đó, các rào
cản, bảo hộ cho sản xuất, hàng hóa sẽ bắt buộc phải hủy bỏ. Để phát triển sản xuất
trong nước, giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế, không có con đường nào khác là tăng
cường đầu tư cho KH&CN, phải coi KH&CN là “động lực quan trọng nhất” của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước.

D. Tài liệu tham khảo



×