Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

PHÂN TÍCH tâm TRẠNG KIỀU TRONG 12 câu đầu đoạn TRÍCH TRAO DUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.64 KB, 4 trang )

PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG KIỀU TRONG 12 CÂU ĐẦU ĐOẠN TRÍCH
TRAO DUYÊN (TRUYỆN KIỀU – NGUYỄN DU)
I.

MỞ BÀI

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tập đại thành của thơ ca tiếng
Việt. Đây được coi là một cuốn sách đời mà ở đó Thúy Kiều – người con gái tài
sắc đã phải trải qua hầu hết những nỗi bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Chế lan Viên đã từng thốt lên đầy đau xót:
Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lại lắm chuyên chuyên
Tố Hữu cùng có những vần thơ đầy nước mắt:
Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều
Trao duyên là màn mở đầu cho chuỗi bi kịch thê thảm suốt 15 năm của Thúy
Kiều. Trong đó, 12 câu đầu đoạn trích “Trao duyên“ diễn tả hoàn cảnh và lời
thuyết phục trao duyên của Thúy Kiều.
II.
THÂN BÀI
1. Vị trí đoạn trích
- Đoạn trích „Trao duyên“ thuộc các câu từ 723 đến 756 - phần 2 của tác phẩm
– phần Gia biến.
- Trước đoạn trích là cảnh bọn sai nha gây nên vụ án oan trái đối với gia đình
Kiều khiến nàng buộc phải hi sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình để có tiền
chuộc cha và em khỏi đòn tra khảo dã man. Việc bán mình thu xếp xong xuôi,
việc nhà coi như đã tạm thong dong, Kiều ngồi thao thức trắng đêm nghĩ đến
thân phận và tình yêu lỡ dở của mình.
“Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Nàng chỉ day dứt một điều rằng:
“Nợ tình chưa trả chho ai
Khối tình đem xuống tuyền đài chưa tan”


Chợt Thúy Vân tỉnh dậy và Kiều khẩn khoản nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa
cho chàng Kim...


2. Phân tích diễn biến tâm trạng của Kiều qua 12 câu thơ đầu
a. Hoàn cảnh trao duyên (câu 1,2)
Hai câu thơ đầu hé mở hoàn cảnh trao duyên thật đặc biệt:
“Cậy em ........ sẽ thưa”
Thúy Kiều là chị, lại vừa thực hiện một nghĩa cử cao đẹp là bán mình chuộc cha
và em. Vậy mà giờ lại phải “cậy”, phải “lạy, thưa” chính người em gái của
mình. Dường như có một điều khó nói lắm khiến Kiều phải rào trước đón sau,
vừa khéo léo lại vừa bi lụy thống thiết.
- Với mình, Kiều dựng từ “Cậy”. Ngoài nột nghĩa nhờ vả, cầu xin, từ “cậy” cũn
hàm chứa gửi gắm niềm tin tưởng, trông mong, hi vọng. Hơn nữa, từ “cậy” với
thanh trắc mang âm điệu nặng nề, gợi sự đau đớn đến quặn lũng.
- Với Vân, Kiều dựng từ Chịu lời, ngoài nột nghĩa nhận lời, chịu lời thể hiện sự
bị động, thiệt thòi của người nhận, một sự chấp nhận khiên cưỡng, bắt buộc
không thể từ chối.
- Cuối cùng Kiều còn “lạy thưa” Thúy Vân. Lạy, thưa: chỉ hành động kính cẩn
của người dưới với người trên. Kiều là chị mà lại lạy, thưa với em -> vị thế luân
thường đạo lí bị đảo ngược chẳng? Thực ra là Kiều đang lạy và thưa cái đức hi
sinh cao cả của Vân khi nhận lời trao duyên của nàng.
Không khí trang trọng, thiêng liêng như một buổi lễ ở hai câu đầu vừa giúp
Kiều bày tỏ sự trân trọng Thúy Vân vừa hé lộ vấn đề Kiều sắp nói ra vô cùng
nghiêm túc và hệ trọng.
b. Kiều mở lời trao duyên (câu 3,4)
Ngay sau thái độ khẩn thiết yêu cầu ở hai câu trên, Thúy Kiều đưa ra ước
nguyện của mình: mong Thúy Vân thay mình nối duyên cùng Kim Trọng. Lời
“thưa gửi” của Kiều rất rõ ràng, vắn tắt và dứt khoát:
“Giữa đường … mặc em”

Người xưa coi tình yêu là một nghĩa vụ, một gánh nặng. Vậy nên “giữa đường
đứt gánh” gợi một tình cảnh dở dang, bi đát của mối tình Kim – Kiều. Kể ra tình
cảnh bi đát của mình rồi Kiều “mặc em” - phó mặc, ủy thác cho em - vừa có ý
mong muốn vừa có ý ép buộc Thúy Vân phải nhận lời.


Giọng điệu 2 câu thơ vừa khẩn thiết vừa ngậm ngùi xót xa. Kiều không chỉ xót
xa cho cảnh ngộ của mình mà còn đau xót cho em khi em phải nhận lấy mối “tơ
thừa” của chị.
c. Kiều kể lại câu chuyện tình yêu của mình với Kim Trọng và tai vạ đổ ập
xuống gia đình nàng
Trao duyên rồi, Kiều như sống lại các cung bậc tình yêu lãng mạn của mình khi
xưa:
Kể từ khi gặp chàng Kim......
.........chén thề”
Sự lặp lại trùng điệp 3 từ “khi”: khi gặp, khi ngày, khi đêm gợi nhớ những thề
ước sâu nặng giữa Kim – Kiều. Khi gặp chàng Kim là buổi đầu gặp gỡ đầy lưu
luyến : “Người quốc sắc kẻ thiên tài/ Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Khi
ngày quạt ước khi đêm chén thề là những tháng ngày hẹn hò tình tự, thề nguyền:
“Chén hà sánh giọng quỳnh tương/ Dải là hương lộn bình gương bóng lồng”.
Bây giờ, nhớ lại, dường như mỗi dấu ấn mà từ “khi” đem lại đều quặn lên trong
lòng Kiều những kỉ niệm xót xa.
Hai câu trước vừa mới là duyên, hai câu sau đã là họa. Tình duyên chóng vánh,
tai họa khôn lường. Thành ngữ “súng gió bất kì” tái hiện một cách ngắn gọn tai
vạ từ trời trời đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều và rồi trút cả lên thân người con
gái tội nghiệp. Giữa hiếu và tình, Kiều đành gác lại chữ tình để làm trọn chữ
hiếu điều mà Vân ngây thơ, phúc hậu đâu thể biết được.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Với biện pháp nghệ thuật liệt kê “khi...”, câu hỏi tu từ kết hợp với các hình ảnh

ước lệ và lời thơ mang âm hưởng của thành ngữ, ca dao, bốn câu thơ như một
thước phim ngắn quay lại trọn vẹn cả niềm hạnh phúc cũng như nỗi khổ đau
trong cuộc tình Kim – Kiều.
d. Kiều dùng lí lẽ để thuyết phục Thúy Vân
Để tăng thêm sự thuyết phục, Kiều dùng đến tận 3 lí do để nói với em:
Ngày xuân....... thơm lây


Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, vậy mà Kiều lại nói: “ngày
xuân em hãy còn dài”. Đau đớn biết chừng nào! Nàng như dự đoán trước tuổi
xuân của mình từ khi chia xa Kim Trọng sẽ chấm dứt, chỉ có em Vân tuổi xuân
còn dài, tình yêu và cơ hội tìm thấy hạnh phúc với Kim Trọng vẫn ở phía trước.
Đó là lí do thứ nhất.
Tiếp theo, Kiều viện đến tình chị em máu mủ ruột rà để nói với Vân: “Xót tình
máu mủ thay lời nước non”. Hơn ai hết, Thúy Vân là người hiểu, đồng cảm với
bi kịch và nỗi đau khổ của Kiều nên chắc hẳn sẽ giúp nàng trả nghĩa cho Kim
Trọng. Đó là lí do thứ hai.
Cuối cùng, Kiều xót xa lấy cái chết ra để chia sẻ với Vân: “Chị dù thịt nát
xương mòn/ Ngậm cưới chín suối hãy còn thơm lây”. Nếu thành ngữ dân gian
“thịt nát xương mòn” tô đậm cái chết đau đớn của Thúy Kiều thì thành ngữ
“ngậm cưới chín suối” lại cho thấy tâm trạng mãn nguyện, yên tâm ra đi của
nàng. Vậy là, nếu Thúy Vân giúp Kiều trả nghĩa cho chàng Kim thì dù có chết
đau đớn, Kiều vẫn thấy được yên lòng.
Lời nói của Kiều như một lời trăng trối tha thiết nỉ non, vừa thuyết phục bằng lí
lẽ, vừa bằng tình cảm. Như thế dù có vô tư hồn nhiên thì Vân cũng không thể
làm ngơ mà từ chối lời nhờ cậy của chị được.
3. Khái quát chung
- Nội dung: 12 câu thơ đầu cũng như cả đoạn trích “Trao duyên” đã diễn tả bi
kịch tình yêu tan vỡ của Thúy Kiều và tấm lòng đồng cảm sâu sắc của tác giả
với những khổ đau và khát vọng hạnh phúc của con người. Qua đó, đoạn trích

cũng làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của nàng Kiều:
+ Sắc sảo, tinh tế, khôn khéo (ràng buộc Thúy Vân bằng những mối quan hệ
tình cảm khiến Vân không thể từ chối, phải mặc nhiên thừa nhận.)
+ Luôn nghĩ đến người khác hơn cả bản thân mình  đức hi sinh, lòng vị tha,
luôn thấu tình đạt lí.
- Nghệ thuật: Sự khéo léo, tinh tế trong lời nói của Kiều đã thể hiện tài năng sử
dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du. Ngoài ra ngôn ngữ của ND có khả
năng siêu việt trong việc đi sâu vào từng ngóc ngách nội tâm cuả nhân vật để
diễn tả những cung bậc tình cảm sâu sắc, khó nói nhất của con người. Quả là
“nếu không có con mắt nhìn suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời thì chừng
nào có được cái bút lực ấy” (Mộng Liên Đường chủ nhân).
III.
KẾT BÀI



×