Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn THI học PHẦN LỊCH sử ĐẢNG ĐẢNG LÃNH đạo CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.34 KB, 35 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN CTGPDT….
Câu 1. Phân tích tính đúng đắn, sáng tạo đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược của Đảng (1945-1954). Ý nghĩa lịch sử và hiện thực?
* Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
- Đường lối kháng chiến của Đảng thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ này
như:
+ Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” của BCH TƯ (25.11.1945)
+ Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ TƯ (12.12.1946)
+ Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương (19.12.1946)
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch (19.12.1946)
+ Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh
+ Đại hội II (02.1951) của Đảng khẳng định sự đúng đắn, bổ sung và phát triển phù hợp,
hoàn chỉnh trở thành đường lối cách mạng DTDCND trong giai đoạn mới.
- Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến xác định:
+ Về mục đích kháng chiến:
\ Giành độc lập và thống nhất thật sự;
\ Xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
\ Góp phần đấu tranh cho hoà bình thế giới, trong đó giành độc lập thống nhất thật sự là
mục tiêu trung tâm.
+ Về xác định kẻ thù:
/ Lúc đầu xác định: “Kẻ thù chính là bọn thực dân phản động Pháp đang dùng vũ khí
cướp lại nước ta”.
/ Từ cuối năm 1947 trở đi, do thực tiễn phát triển Đảng ta xác định: kẻ thù chính là thực
dân Pháp xâm lược và tay sai phản động.
- Phương châm tiến hành chiến tranh: kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào
sức mình là chính.
- Về vai trò của Đảng đối với kháng chiến: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
thắng lợi của cuộc kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược là tiếp tục sự nghiệp
giải phóng dân tộc sau cách mạng Tháng Tám 1945.
* Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
- Đường lối kháng chiến của Đảng chống TDP là sự vận dụng trung thành lý luận chủ


nghĩa MLN, tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc độc lập, về chiến tranh và QĐ


- Đường lối kháng chiến của Đảng chống TDP xâm lược phản ánh những vấn đề cơ bản
về xác định kẻ thù, tính chất, mục tiêu kháng chiến
- Đường lối kháng chiến của Đảng chống TDP xâm lược phản ánh đúng đắn tương quan
lực lượng so sánh giữa ta và địch
- Đường lối kháng chiến của Đảng chống TDP xâm lược phát huy được những yếu tố
thuận lợi của ta, khoét sâu chỗ yếu của địch.
+ Về chính trị: Ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.
+ Về kinh tế: phá kinh tế địch, xây kinh tế ta, thực hiện càng đánh càng mạnh
+ Về quân sự: thực hiện chiến tranh nhân dân, bược địch phải đánh theo cách đánh của ta
- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng là
cơ sở, là nhân tố quyết định thắng lợi trong kháng chiến chống TDP
Câu 2. Phân tích yêu cầu khách quan xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh?
Quốc phòng là hoạt động của một nước nhằm bảo vệ nền độc lập, chủ quyền toàn vẹn
lãnh tho, bảo vệ nhân dân bàng sức mạnh tổng hợp của đất nước. Nền quốc phòng bao gồm
tổng thể hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, vàn hoá, khoa học của
Nhà nước và của nhân dân đê phòng thủ đất nước, tạo sức mạnh toàn diện, cân đối trong đó
sức mạnh quân sự là đặc trưng để giữ vững hoà bình, ngân chặn và đẩy lùi các hoạt động gây
chiến của kẻ thù và săn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược của địch.
* Cơ sở lỷ luận
-

Chủ nghĩa Mác - LN:

Lênin đã khẳng định: “Một cuộc cách mạng chi có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ”. Và
nếu “không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hoà xã hội chù nghĩa thi chủng ta không thề tồn tại
được”. Khi bàn về vấn đề xây dựng, củng cô quốc phòng, Lênin khẳng định: “Chính vì chúng

ta là những người chủ trương bảo vệ Tồ quốc, cho nên chúng ta phải luôn luôn có một thái độ
nghiêm túc đối với vân đê khả năng quốc phòng và đối với vẩn đề chuẩn bị chiến đấu của
nước nhà”.
-

Quan điểm HCM:

Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu của nhiệm vụ bảo vệ Tồ quốc, Người nói: “Ngày
xưa các Vua Hùng đã có công dựng nước. Ngày nay, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước”. Ngay trong Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945), khi tuyên bố với nhân dân thế giới và
toàn thể quốc dân đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố: “Toàn thề dân tộc


Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và ỉực lượng, tính mạng và của cải để giữ vừng quyền tự
do độc lập ấy” Đề cập đến vấn đề quốc phòng, theo Hồ Chi Minh đâ khái quát: “Bât kỳ hoà
bỉnh hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vừng chủ động, phải thấy trước, phải chuẩn bị
trước”. Nhiệm vụ của nền quổc phòng toàn dân theo Hồ Chí Minh là phát huy sức mạnh tổng
hợp của đất nước, của toàn dân bảo vệ
* Cơ sở thực tiễn
-

Truyền thống của ông cha ta trong sự nghiệp dựng và giữ nước.

Tư tưởng “lấy dân làm gốc” - tư tường xuyên suốt trong lịch sử dựng và giữ nước của
dân tộc. Tư tường dân giàu - nước mạnh; nước giàu - binh mạnh, chủ trương “khoan thư sức
dân làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giử nước”, những chính sách độc đáo: “tận dân vi
binh”, “bách tính gia binh”, “ngụ binh ư nông”
- Thực

tiễn trài qua 85 năm xây dựng truừng thành và phát triển, Đảng ta luôn tập trung


sửc lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Khi miền Bấc được giải phóng (1954) cũng như khi cả nước thống nhất, hoàn toàn độc
lập (1975), sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân được Đảng coi trọng đúng mửc.
Thực tiền 1954 - 1975 cho thẩy nhờ tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở miền Bấc
đủ mạnh đề bảo vệ nền độc lập và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xà hội ở miền Băc; miền
Bẳc trở thành hậu phương vững mạnh, giữ vai trò quyết định tháng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỳ, cứu nước.
Từ 1975 đén 1986 khi cả nước đã độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, với quan
điềm đúng trong chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện vững mạnh góp phần
thực hiện thẳng lợi nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lânh thồ, bảo vệ
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Từ 1986 đến nay, cùng với việc lành đạo thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đảng luôn chú
trọng xây dựng nền quổc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh
trong thời kỳ mới. Thực hiện bảo vệ vững chẳc Tổ quốc, gỏp phần đưa sự nghiệp đổi mới
từng bước thẳng lợi.
-

Sự phát triển với diễn biến mau lẹ, phức tạp cùa tình hình thế giới, trong nuởc liên

quan đến nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ To quốc trong những năm qua và hiện nay.
+ Trên thế giới, sau khỉ chù nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội
hiện thực trên thể giới tạm thời lâm vào thoái trào, so sánh lực lượng có lợi cho chủ nghĩa đế
quốc. Nhân cơ hội này, chủ nghĩa đế quốc càng điên cuồng chống phá cách mạng thế giới. Đế


quốc Mỹ với âm mưu thiết lập “trật tự thế giới mới” – thế giới một cực do Mỹ đứng đầu,
khẳng định ưu thẻ tuyệt đối của Mỹ về quân sự, bất châp Liên hiệp quốc, luật pháp quốc tế và
phản ứng của dư ỉuận the giới, ngang nhiên can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các
nước, kích động chủ nghĩa ly khai. Lợi dụng tình hỉnh xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và

nạn khủng bổ phức tạp, chủ nghĩa đế quốc tảng cường can thiệp, tạo nguy cơ mất ổn định ở
nhiều nơi, nhiều nước trên thê giởi. Từ năm 1991 đến nay, sau bổn cuộc chiến tranh Vùng
Vịnh (1991), Nam Tư (1999), Ápganixtan (2002) và Irắc (2003), trên thực tế Mỹ đã xác ỉập
được sự có mặt về quân sự và vai trò chi phổi tại các khu vực Ban Căng, Trung Đông, Trung
Á- Nam Á và Cápcadơ. Hiện nay, Mỹ đang tiến hành củng cố sân sau của mình ở Mỹ Latinh;
điều chỉnh thế bổ trí ỉực lượng quân sự toàn cầu. Với việc triển khai chiến lược an ninh mới,
tảng cường can thiệp vào công việc nội bộ các nước, hòng áp đặt tiêu chuẩn, giá trị Mỹ cho
cả thế giởi, can thiệp vào bất cứ đâu tạo tiền lệ nguy hiểm, đe doạ nghiêm trọng đổi với hoà
binh và ồn định trên thế giới, an ninh của các quốc gia, chủ quyền cùa các dân tộc. Bên cạnh
đó quan hệ giữa các nước lớn diễn ra rất phức tạp theo chiều hướng vừa đấu tranh, vừa thoả
hiệp, với những toan tính lợi ích riêng.
+ Tại khu vực châu Á- Thái Bình Dương là khu vực đang cổ sự phát triển kinh tế năng
đông, đang trở thành nơi tập trung nhiều mâu thuẫn; cùng với việc Mỹ điều chỉnh chiến
lược, chú trọng hơn đến khu vục này càng tạo ra nhiều nhân tố tiêm ẩn gây mất ổn định trong
khu vực. Trong đó, Việt Nam với một vị trí địa - chính trị, địa - kinh tê, địa - quân sự quan
trọng vừa thuận lợi cho phát triển, nhưng mặt khác các thể lực thù đjch cùng tìm mọi thủ
đoạn chống phá. Với mục tiêu “chiến thắng không cần chiến tranh”, thực hiện “triệt phá kẻ
thù cũ”, Mỹ và các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện “Diễn biến hoà bình’, bạo loạn lật
đổ; chống phá nước ta bẳng nhiều thủ đoạn thâm hiểm, tạo nên một trong bốn nguy cơ của
cách mạng Việt Nam như Đảng đã chi ra.
+ Tình hình trong nước, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng về kinh tế - xã hội đặt
được như: Chính trị-xã hội ổn định; kinh tế tăng trưởng khá cao liên tục trong nhiều năm, đời
sống nhân dân được nâng lên, lòng tin của nhân dân được củng cổ...Song vẫn còn những biểu
hiện cần quan tâm như: còn một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên suy thoái về tư tưởng,
đạo đức lối sống, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân xày ra ở nhiều nơi, việc tranh chấp
khiếu kiện kéo dài, anh hưởng xau đên an ninh trật tự và ồn định xă hội dễ bị kẻ thừ lợi
dụng.
-

Thực trạng nền quốc phòng toàn dân và thể trận quốc phòng toàn dân cùa ta những



năm qua đặt ra.
những ưu điểm, kết quả là: tình hình chính trị xã hội cơ bản on định, quôc phòng và an
ninh được tăng cường, các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ
quyền toàn vẹn lãnh thồ, bào đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng
toàn dân được phát huy; quân đội và công an được điểu chỉnh theo yêu câu mởi; kết hợp
quốc phòng và an ninh với kinh tế và đối ngoại cố nhiều tiến bộ.
Bảo cáo Chỉnh trị cùa Đại hội Đàng toàn quân lần thứ VII nhận định: Tuy nhiên, dửng
trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, sự nghiệp xâỵ dựng
quốc phòng củng cố quân đội còn bộc lộc những yếu kém, khuyết điểm cần khác phục là: nền
quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân tuy được củng co nhựng chưa toàn diện
và chưa thật vừng chác. Chậm hỉnh thành chiến lược thống nhat găn quốc phòng - an ninh
vởi phát triền kinh tế - xã hội, khả năng trình độ sẵn sàng chiến đẩu, sức cơ động chưa cao,
còn mất cảnh giác dẫn đến bất ngờ, lúng túng.Trong xây dựng quân đội về chỉnh trị tuy có
nhiều cố gắng, song trình độ lý luận, tỉnh nhạy bén, bản linh chính trị, đạo đức lối sống ở
không ít cán bộ, đảng viên chưa tương xứng yêu cầu nhiệm vụ quân đội. Công tác tư tưởng ở
một số đơn vị còn giản đơn, kém hiệu quả; trình độ chỉnh trị của quân đội chưa đáp ứng yêu
cầu; chưa xác định chiến lược tổng thể về trang bị quân đội và công nghiệp quoc
phòng...nhận thức về nhiệm vụ sản xuất làm kinh tế chưa sâu sắc.
Câu 3. Phân tích kinh nghiệm: “Phương thức tiến hành chiến tranh thích hợp, vừa
chiến đấu, vừa xây dựng và phát triển lực lượng” trong kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1945-1954). Gía trị lịch sử và hiện thực?
* Cơ sở của kinh nghiệm
- Xuất phát từ vị trí vai trò của phương thức tiến hành chiến tranh: có phương thức tiến
hành chiến tranh đúng sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc.
- Xuất phát từ tương quan so sánh lực lượng địch – ta (kẻ địch có tiềm lực kinh tế, quân
sự mạnh hơn ta nhiều lần thời điểm mở đầu chiến tranh)
- Xuất phát từ tính chất, đặc điểm cuộc kháng chiến
* Nội dung, yêu cầu của kinh nghiệm

- Dựa chắc vào dân, tổ chức huy động sức mạnh toàn dân tộc để duy trì cuộc kháng chiến
đi đến thắng lợi
- Tổ chức đánh địch toàn diện trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế hậu cần,
ngoại giao


- Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, đánh lâu dài nhưng ra sức tranh thủ thuận lợi
mở các cuộc tấn công quy mô nhỏ, vừa, lớn giành thắng lợi từng bước chuyển hóa so sánh
lực lượng ngày càng có lợi cho ta
- Trên cơ sở phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, biết tranh thủ mọi thuận
lợi từ bên ngoài
- Phát triển mọi lực lượng, nhất là lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn
dân đánh giặc
* Giá trị lịch sử và hiện thực
- Giá trị lịch sử: Trực tiếp góp phần vào thắng lợi chung…
- Giá trị hiện thực:
+ Tiếp tục nghiên cứu, phát triển nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam trong điều
kiện mới.
+ Tăng cường sức mạnh QP,AN bản vệ Tổ quốc, giáo dục tinh thần yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, phổ cập kiến thức QP,AN cho toàn dân.
+ Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, nòng cốt là liên minh công – nông –
trí thức.
+ Phát triển đất nước toàn diện trên tất cả các mặt
Đọc tham khảo Chiến tranh nhân dân Việt Nam là quy luật đấu tranh chống xâm lược
của dân tộc Việt Nam
Quy luật của chiến tranh là mạnh được yếu thua. Đứng vững trên quan điểm quân sự Mác Lê-nin, kế thừa tư tưởng đánh giặc giữ nước của dân tộc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vận dụng quy luật chung vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để đề xuất và tổ chức thực
hiện đường lối chiến tranh cách mạng rất phong phú, sáng tạo với hạt nhân cơ bản là tiến
hành chiến tranh nhân dân.
Theo Đại tướng Hoàng Văn Thái, “Bất cứ cuộc chiến tranh nào mà ta tiến hành, dù có hiện

đại đến đâu cũng là chiến tranh nhân dân” [1]. Chiến tranh nhân dân Việt Nam có đặc trưng
chủ yếu là “lấy tư tưởng chiến lược tiến công làm lõi, là toàn dân đánh địch, tiến công địch
một cách toàn diện, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp chặt
chẽ giữa vũ trang khởi nghĩa với chiến tranh, kết hợp tiền tuyến lớn với hậu phương lớn…”
[2]. Đường lối đó được vận động và phát triển theo những quy luật chủ yếu là: Có Đảng Mácxít Lê-nin-nít lãnh đạo, có đường lối chính trị đúng đắn phù hợp với lợi ích cơ bản của quần
chúng...; có hậu phương vững chắc về mọi mặt; có tổ chức LLVT cách mạng gồm ba thứ


quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; có nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân;
biết kết hợp chặt chẽ và khéo léo giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; chiến đấu lâu
dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc... [3]. Nhờ đó, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược của dân tộc Việt Nam có được sức mạnh tổng hợp để chiến thắng.
Đại tướng Hoàng Văn Thái chỉ ra rằng, sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt
Nam không chỉ là sức mạnh của tiền tuyến trực tiếp đánh địch và sức mạnh của hậu phương
được xây dựng, củng cố lấy phục vụ tiền tuyến làm trước hết; mà đó còn là sức mạnh của chủ
nghĩa xã hội và tình đoàn kết quốc tế của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế
giới, sức mạnh đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương cùng chống kẻ thù chung. Sức
mạnh tổng hợp ấy được tạo nên bởi sự kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, kết
hợp khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến
công; đánh địch bằng cả ba mũi giáp công quân sự, chính trị và binh vận; trên cả ba vùng
chiến lược rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị; giành quyền làm chủ để tiêu diệt địch
và tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính
quy, đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn, đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh, vừa đánh vừa xây
dựng, phát triển lực lượng; tiến công địch từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, đánh bại từng âm
mưu, thủ đoạn của địch, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn [4].
Điều đó cho phép cách mạng luôn giữ được quyền chủ động - biểu hiện tập trung của quyền
làm chủ và là biểu hiện cao nhất của tư tưởng chiến lược tiến công. Từ đó, buộc địch phải
hành động theo ý định của ta và tạo thời cơ để tiến công tiêu diệt địch, nhất là ở những bước
chuyển lớn của cuộc chiến tranh.
Trong tiến hành chiến tranh nhân dân, cần thường xuyên quan tâm vấn đề xây dựng lực lượng

kháng chiến vững mạnh. Kháng chiến càng phát triển, nhu cầu về lực lượng càng tăng lên và
yêu cầu xây dựng lực lượng càng cao hơn. Phải xây dựng cả lực lượng chính trị và lực lượng
quân sự vì đây đều là lực lượng chiến lược, đều đóng vai trò rất cơ bản và quyết định đến tiến
trình, kết cục kháng chiến. Trong xây dựng lực lượng, coi trọng cả số lượng và chất lượng,
lấy chất lượng là chính; đi từ thấp đến cao phù hợp với yêu cầu ngày càng nâng lên từng bước
của từng chiến trường và trong cả nước. Không chỉ quan tâm xây dựng LLVT ba thứ quân với
sự giúp đỡ, ủng hộ của nhân dân mà còn chú trọng xây dựng lực lượng chính trị của quần
chúng, những người đang trực tiếp chiến đấu, ngày đêm đấu tranh trực diện với quân thù
thành đội quân chính trị hùng hậu, có tổ chức chặt chẽ, có “vũ khí” đấu tranh sắc bén, có
phương pháp đánh địch dũng cảm, thông minh, sáng tạo, phong phú và linh hoạt. Đây vừa là


yêu cầu, vừa là bước phát triển mới của phong trào toàn dân đánh giặc của nhân dân ta, là
đỉnh cao của tính nhân dân sâu rộng trong chiến tranh cứu nước của dân tộc Việt Nam và là
sức mạnh mới của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Trong xây dựng LLVT, phải theo phương
châm vừa tác chiến vừa xây dựng, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng; quan tâm
xây dựng cả ba thứ quân, duy trì tính cân đối và đồng bộ giữa các lực lượng, luôn có một lực
lượng cơ động chiến lược mạnh, nhất là vào các thời điểm quan trọng. Đồng thời, chú trọng
nâng cao chất lượng chiến đấu (bao gồm các mặt chính trị, quân sự, tổ chức, chỉ huy, trang
bị...) là yếu tố quyết định thắng lợi.
Chiến tranh nhân dân Việt Nam được tiến hành trên cơ sở vũ trang toàn dân, toàn dân
đánh giặc với LLVT nhân dân làm nòng cốt
Quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, Đại tướng Hoàng Văn Thái nhấn
mạnh cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam được tiến hành trên cơ sở vũ trang toàn dân, toàn
dân đánh giặc. Hoạt động quân sự, đấu tranh vũ trang không chỉ là nhiệm vụ riêng của quân
đội mà đó là hoạt động của toàn dân tự giác đứng lên đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Dù chiến tranh giải phóng hay chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thì chiến tranh nhân dân và quân
đội nhân dân luôn là “hai mặt của một vấn đề không thể tách rời ra được” [5], trong đó quân
đội nhân dân là “nòng cốt” của chiến tranh nhân dân. Chỉ có quân đội nhân dân của Đảng mới
chấp hành đường lối chiến tranh nhân dân một cách đầy đủ và nghiêm túc, hiệu quả nhất; chỉ

có chiến tranh nhân dân mới làm cho quân đội nhân dân ngày càng phát triển vững mạnh.
Muốn huy động toàn dân đánh giặc, tiến hành chiến tranh nhân dân một cách thực sự, bảo
đảm cho đông đảo nhân dân trực tiếp đấu tranh chống kẻ thù xâm lược thì phải vũ trang toàn
dân. Muốn thực hiện vũ trang toàn dân thì phải có hình thức tổ chức LLVT phù hợp [6].
Trong chiến tranh nhân dân Việt Nam, đó là “tổ chức ba thứ quân: dân quân du kích, bộ đội
địa phương và bộ đội chủ lực… Xây dựng ba thứ quân là hình thức tổ chức LLVT thích hợp
nhất để thực hiện chiến tranh nhân dân” [7]. Xây dựng LLVT nhân dân phải tuân theo những
“nguyên tắc cơ bản”: Xây dựng về mặt chính trị, tổ chức, biên chế và trang bị, huấn luyện,
các chế độ, điều lệnh. Xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ... cần
chú trọng xây dựng mặt chính trị trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng
nhân dân vì đó là nền tảng, chỗ dựa của LLVT [8]. Đi đôi với huấn luyện và xây dựng quân
đội nhân dân hùng mạnh tiến lên chính quy, hiện đại, thành thạo lối đánh chính quy, phải hết
sức coi trọng việc huấn luyện và xây dựng dân quân tự vệ - lực lượng chiến lược trong chiến
tranh [9].


Chính nhờ có chiến tranh nhân dân với LLVT nhân dân ba thứ quân đó làm nòng cốt mà cuộc
kháng chiến của dân tộc ta có được một thế trận vừa như một tấm lưới thép, thiên la địa võng
kiềm chế, quấn chặt, giam chân địch tại chỗ, làm suy yếu khả năng phản kháng của địch vừa
có những quả đấm thép để tiêu diệt lực lượng lớn quân địch khi địch đã bị chiến tranh du kích
làm cho tê liệt, suy yếu, mệt mỏi. Trong thế trận đó, mỗi người dân đều là một người chiến sỹ
kiên quyết, quả cảm sẵn sàng cầm súng tiêu diệt kẻ thù khi chúng đến bất cứ nơi đâu, vào bất
cứ thời điểm nào; và kẻ địch luôn nằm trong thế bị động, phân tán, cô lập; không thể phân
biệt đâu là tiền tuyến đâu là hậu phương... làm cho địch lực lượng đông mà hóa ít, tiềm lực
quân sự mạnh mà hóa yếu, tinh thần luôn căng thẳng, hoang mang, dao động và dần mất niềm
tin vào cuộc chiến.
Để huy động triệt để sức mạnh của toàn dân vào cuộc đấu tranh, quán triệt sâu sắc, quan điểm
đường lối của Đảng, Đại tướng Hoàng Văn Thái chỉ ra: Cuộc chiến tranh chống xâm lược mà
dân tộc ta tiến hành là cuộc chiến tranh toàn diện, đánh địch trên các mặt trận với tất cả các
hình thức đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa - tư tưởng… Đặc biệt, mặt

trận đấu tranh chính trị có vai trò cực kỳ quan trọng của cuộc chiến tranh nhân dân: “Trong
thời kỳ kháng chiến, sức mạnh chính trị vô địch là nền móng của chiến tranh toàn dân toàn
diện” [10]. Để có được sức mạnh chính trị, phải xây dựng cho được tinh thần đồng tâm, ý chí
kiên quyết đánh giặc, không ngại gian khổ hy sinh của đại đa số đồng bào các dân tộc Việt
Nam. Khi sức mạnh chính trị được phát huy cao độ sẽ tạo ra lực lượng chính trị rộng rãi,
vững chắc và đó là nguồn tiếp sức vô hạn sức người, sức của cho xây dựng, chiến đấu, phát
triển LLVT; là lực lượng tình báo hiệu quả nhất của cuộc kháng chiến; đồng thời là một đội
quân đông đảo và mạnh mẽ, trực tiếp và liên tục tiến công kẻ thù bằng mọi hình thức, biện
pháp, mọi thứ vũ khí… Đại tướng Hoàng Văn Thái kết luận: “một khi chúng ta làm cho quần
chúng thực sự hiểu rõ vì sao họ chiến đấu, chiến đấu để làm gì, chiến đấu chống kẻ địch nào,
thì quần chúng sẽ không ngại bất cứ gian khổ, khó khăn nào, không ngại hiểm nghèo, không
ngại hy sinh ngay cả tính mạng mình để chiến đấu đến cùng cho lý tưởng cách mạng” [11].
Phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam là phát động chiến tranh du
kích để phát triển dần lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy và
chiến tranh du kích, thực hiện theo phương châm đánh lâu dài
Trung thành và vận dụng sáng tạo quan điểm Mác - Lê-nin về phương thức tiến hành chiến
tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra những nhân tố


cốt yếu cần có để cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam giành được thắng lợi là
“khởi nghĩa của quần chúng”, “chiến tranh cách mạng”, “các đội du kích ở khắp nơi”.
Bổ sung, phát triển làm phong phú thêm quan điểm đó của chủ nghĩa Mác - Lênin và của
Đảng ta, Đại tướng Hoàng Văn Thái chỉ rõ trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, những vấn
đề “cốt yếu” đó cần được tiến hành theo một phương thức vận động phù hợp. Phương thức đó
là “phát động chiến tranh du kích rộng khắp, dần dần phát triển lên chiến tranh chính quy rồi
kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy” [12]; “không bắt đầu bằng chiến tranh
du kích thì không thể có chiến tranh chính quy; không tiến lên chiến tranh chính quy và kết
hợp với chiến tranh chính quy thì chiến tranh du kích cũng không tồn tại và phát triển được
và không thể đi tới thắng lợi trong kháng chiến. Đó là quy luật khách quan của chiến tranh
cách mạng ở nước ta” [13]. Chỉ bằng chiến tranh du kích, cách mạng mới phát huy được sức

mạnh của toàn dân tộc, từng địa phương, lực lượng và từng con người để liên tục tiến công
tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận địch ở khắp mọi lúc, mọi nơi, với mọi loại vũ khí LLVT mới
có thể bám trụ tại chỗ, tạo thế xen kẽ với địch để tiến công địch ngay trong vùng do chúng
tạm kiểm soát; từ đó gây dựng, củng cố, giữ vững cơ sở, đẩy mạnh phong trào kháng chiến.
Bằng chiến tranh du kích, bộ đội, dân quân du kích mới hòa cùng dân xây làng chiến đấu, khu
du kích, căn cứ; phá kế hoạch bình định, cơ sở kinh tế và âm mưu “dùng người Việt đánh
người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch; làm cho địch hao tổn về con người và
vũ khí trang bị, hoảng loạn về tinh thần và thường xuyên bị động đối phó; làm cho mâu thuẫn
giữa phân tán lực lượng để chiếm đóng với tập trung quân cơ động tác chiến của địch ngày
càng thêm sâu sắc, không thể khắc phục.
Trong cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài ở nước ta, việc đề cao vai trò chiến lược của chiến
tranh du kích, phát động chiến tranh du kích rộng khắp để huy động sức mạnh tổng hợp của
mọi lực lượng tiến hành kháng chiến mới chỉ là bước đầu. Cùng với quá trình vận động của
cuộc kháng chiến, sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng sẽ không ngừng phát triển. Để tập
hợp, huy động được tối đa sức mạnh đó, phải từng bước phát triển chiến tranh chính quy. Sự
ra đời của chiến tranh chính quy với các đơn vị bộ đội chủ lực nhằm giáng những đòn tiêu
diệt những đội quân chủ lực, lực lượng quân sự lớn mạnh của địch; cùng bộ đội địa phương,
dân quân du kích và nhân dân đẩy mạnh cuộc đấu tranh mọi mặt trong vùng địch kiểm soát;
giải phóng đất đai, làm chuyển biến cục diện chiến tranh, từng bước đánh gục ý chí xâm lược
của địch. Đây là phương thức chủ yếu nhất quyết định việc giành thắng lợi triệt để trong đấu
tranh vũ trang, phản ánh rõ sự kết hợp biện chứng giữa tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ,


giành quyền làm chủ và tiêu diệt địch; được sử dụng ở những thời cơ quan trọng nhất, trên
những hướng chủ yếu, giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu để đánh bại kẻ thù và tạo điều kiện
cho nhân dân nổi dậy giành thắng lợi hoàn toàn.
Phát triển chiến tranh chính quy không có nghĩa là từ bỏ chiến tranh du kích mà phải có kết
hợp chặt chẽ hai phương thức này. Sự kết hợp chặt chẽ hai phương thức chiến tranh du kích
và chính quy sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc đánh giặc. Trên cơ sở của
các phương thức tiến hành chiến tranh và sự kết hợp các phương thức đó, Đại tướng Hoàng

Văn Thái luôn nhấn mạnh trong nhận thức cũng như trong tổ chức thực tiễn không bao giờ
được xem nhẹ bất cứ phương thức nào; chú ý giải quyết các vấn đề về sức mạnh, quy mô,
chuẩn bị, bảo đảm và tiến hành tác chiến, sử dụng và nâng cao hiệu quả các hình thức tác
chiến... được vận dụng theo tinh thần cách đánh chung đã xác định với tính tổng hợp, tính
nhân dân và tính hiệu quả, tính truyền thống và hiện đại trên cơ sở thế trận làm chủ, có sự
chuẩn bị trước và không ngừng hoàn thiện.
Từ thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đại tướng
Hoàng Văn Thái luôn nhận thức rõ đánh lâu dài không chỉ là một vấn đề mang tính phổ biến
trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của một nước nhỏ chống lại chiến tranh xâm lược của một
nước lớn và mạnh hơn, mà đó chính là phương châm chiến lược đúng đắn nhất để cuộc chiến
tranh nhân dân giải phóng dân tộc của Việt Nam đi đến thắng lợi. Chỉ có thực hiện đánh lâu
dài thì những điểm yếu căn bản của địch sẽ dần bộc lộ rõ; ta có điều kiện huy động tối đa sức
người, sức của cho cuộc kháng chiến; các LLVT nhân dân có không gian và thời gian để phát
triển, liên tục trưởng thành và có đủ khả năng đánh bại kẻ thù trong những trận quyết chiến
chiến lược. Đại tướng Hoàng Văn Thái khẳng định: Để chuyển hóa so sánh lực lượng ngày
càng có lợi cho ta, làm cho ta có thể đi từ yếu đến mạnh và địch đi từ mạnh trở nên yếu, phải
có phương châm chiến lược đánh lâu dài và tự lực cánh sinh… [14]. Tuy nhiên, đánh lâu dài
không phải là để kéo dài cuộc chiến một cách vô hạn mà phải tích cực xây dựng và phát triển
lực lượng, chủ động tạo và nắm chắc thời cơ, sẵn sàng tổ chức những đòn tiến công chiến
lược quyết định, đánh thiệt hại nặng những lực lượng lớn của kẻ thù, từng bước đi đến thắng
lợi cuối cùng [15]. Thực tiễn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của
dân tộc Việt Nam đã minh chứng đánh lâu dài là phương châm chiến lược duy nhất đúng.
Nhân tố quyết định nhất thắng lợi của chiến tranh nhân dân Việt Nam là sự thống nhất
làm một giữa ý Đảng với lòng dân


Mười năm sau kết thúc thắng lợi vĩ đại Xuân 1975 lịch sử, trong tác phẩm “Những năm tháng
quyết định” của mình, Đại tướng Hoàng Văn Thái viết: “Suy nghĩ về thắng lợi vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, về vinh quang của thế hệ Hồ Chí Minh, trước nhất, sâu sắc nhất và cũng tự
hào nhất là suy nghĩ về vai trò quyết định của Đảng ta. Dân tộc ta, giai cấp công nhân nước ta

tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đã sản sinh ra Đảng và Đảng ra đời lãnh đạo cách mạng, đã
làm rạng rỡ thêm dân tộc ta, giai cấp công nhân nước ta. Thắng lợi vẻ vang của cách mạng và
chiến tranh cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua đã khẳng định Đảng ta là một chính
Đảng Mác-xít Lê-nin-nít kiên cường, vững mạnh” [16]. Trong những năm tháng kháng chiến
lâu dài và gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cũng như những năm đầu
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo nhân dân và quân đội vượt qua mọi khó
khăn thử thách, kể cả những thử thách đến mức tưởng chừng không thể vượt qua được. Chính
là nhờ có Đảng, với đường lối chính trị đúng đắn phù hợp với lợi ích cơ bản của quần chúng
nên đã phát động được toàn dân đứng lên tiến hành chiến tranh nhân dân... [17]. Và Đảng
lãnh đạo đã trở thành quy luật của cách mạng Việt Nam, thành quy luật của chiến tranh nhân
dân Việt Nam; nhân tố Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định nhất sự thắng lợi của cách mạng
Việt Nam [18]. Không hề tuyệt đối hoá “nhân tố” ấy, nhận thức sâu sắc vai trò quyết định và
sức mạnh của nhân dân trong cách mạng; Đại tướng Hoàng Văn Thái chỉ rõ sức mạnh to lớn
cho phép một nước nhỏ đánh thắng kẻ thù lớn mạnh là sự đồng tâm của cả dân tộc. Muốn
kháng chiến thắng lợi thì Đảng phải động viên được toàn dân tham gia và đây luôn là vấn đề
then chốt nhất. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân thì “chiến tranh cách mạng cũng là sự nghiệp đấu tranh của
quần chúng nhân dân” [19]. Đảng phải phát huy lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc,
biết dựa vào nhân dân, tập hợp và tổ chức nhân dân, động viên mọi lực lượng đấu tranh... thì
cách mạng nhất định giành thắng lợi. Đại tướng Hoàng Văn Thái nhấn mạnh: “Nhân tố quyết
định chiến lược chiến tranh chỉ có thể là quần chúng nhân dân” [20], nhưng quần chúng nhân
dân đó đã được tổ chức, rèn luyện, giáo dục để tự giác tranh đấu vì mục tiêu, lý tưởng của
Đảng và đồng thời cũng là lợi ích, lẽ sống của mình: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại
tướng Hoàng Văn Thái từng chia sẻ: “Đường lối của Đảng đúng đắn vì nó phản ánh đúng
nguyện vọng độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta và phù hợp với mục
tiêu cách mạng của thời đại, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ” [21]. Trong con người
Đại tướng Hoàng Văn Thái thì Đảng - Dân là một và Ông đặt trọn niềm tin vào đó: “Có
Đảng, có nhân dân là có tất cả. Không có khó khăn nào ngăn nổi bước đi của dân tộc ta trên



con đường tiến đến thắng lợi” [22]. Nhờ đó, cách mạng Việt Nam thắng lợi và đó là quy luật
của cách mạng Việt Nam.
Giờ đây, dù Đại tướng Hoàng Văn Thái đã đi xa nhưng những quan điểm cơ bản và những
đóng góp trong thực tiễn của Đại tướng về chiến tranh nhân dân Việt Nam đã góp phần làm
phong phú thêm kho tàng lý luận quân sự cách mạng Việt Nam. Những đóng góp ấy vẫn còn
nguyên giá trị trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng LLVT, xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại giai đoạn hiện nay cũng
như mai sau.
Câu 4. Đồng chí đánh giá như thế nào về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
hiện nay. Những đề xuất, kiến nghị?
- Khái quát chủ trương của Đảng về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc:
- Đánh giá về về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay:
+ Ưu điểm
+ Hạn chế, yếu kém
- Những đề xuất kiến nghị
Câu 5. Phân tích nội dung đường lối cách mạng của Đảng trong Nghị quyết Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (1/1959). Ý nghĩa lịch sử?
* Khái quát tình hình TG và trong nước sau năm 1954
- Tình hình thế giới:
+ Ba dòng thác cách mạng tiếp tục phát triển mạnh mẽ có lợi cho lực lượng cách mạng;
+ Đế quốc Mĩ tiếp tục theo đuổi âm mưu bá chủ thế giới
+ Khủng hoảng kinh tế thúc đẩy Mĩ chạy đua vũ trang;
+ ĐQ Mỹ xác định VN là trọng điểm trong đối tượng xâm lược.
+ Sự xuất hiện của chủ nghĩa cơ hội xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định đường lối cách mạng của Đảng ta
- Tình hình trong nước
+ Đất nước tạm thời chia cắt hai miền với hai chế độ chính trị xã hội khác nhau
+ Sau 1954, miền Bắc được giải phóng và quá độ lên CNXH.
+ Ở miền Nam Mỹ dựng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và thiết lập chế độ thực dân
kiểu mới, tiến hành chính sách cai trị tàn bạo, gây nhiều tổn thất cho cách mạng miền Nam.

+ Đảng lãnh đạo đấu tranh giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng trước khi có NQTƯ
15…


* Phân tích Nghị quyết Trung ương 15 của Đảng tháng 1/1959 - xác định đường lối cách
mạng miền Nam:
- Chỉ rõ tính chất và mâu thuẫn của xã hội miền Nam
+ Tính chất: XH MN là xã hội thuộc địa của chủ nghĩa thực dân kiểu mới và nửa phong
kiến.
+ Mâu thuẫn: XH MN có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn ĐQ
Mỹ xâm lược và tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm; mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông
dân với địa chủ phong kiến
- Xác định nhiệm vụ cơ bản và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam.
+ Nhiệm vụ cơ bản: là giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống trị của đế quốc và
phong kiến , thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước VN hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nhưng trên con đường dài thực hiện nhiệm
vụ cơ bản ấy, cách mạng miền Nam phải đi từng bước từ thấp đến cao.
+ Nhiệm vụ trước mắt: là “đoàn kết toàn dân đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình
Diệm, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân
tộc và các quyền tự do dân chủ , cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà;
tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam á và thế giới.
- Xác định lực lượng cách mạng miền Nam: gồm giai cấp công nhân, nông dân, tư sản
dân tộc và tiểu tư sản lấy liên minh công- nông làm cơ sở
- Xác định phương pháp CM ở miền Nam: là con đường CM bạo lực, giành chính quyền
về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của CM thì con đường đó là lấy
sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp
với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên
cơ quan cách mạng của nhân dân
- Dự kiến khả năng phát triển của tình hình: đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất,
cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả

năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ, nhưng thắng lợi cuối cùng nhất định về
ta
- Xác định những nội dung xây dựng Đảng khẳng định vai trò của Đảng bộ miền Nam và
chủ trương xây dựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh
* Ý nghĩa lịch sử


- Nghị quyết đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta, trên cơ sở phát huy tinh thần độc
lập tự chủ, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin để xác định đường lối cách
mạng miền Nam
- Nghị quyết xác định chủ trương đúng đắn đã xoay chuyển tình thế, đáp ứng nhu cầu bức
xúc của quần chúng, dẫn đến cao trào Đồng thởi oanh liệt của nhân dân miền Nam năm 1960,
mở đường cho cách mạng miền Nam vượt qua thử thách để tiến lên
Câu 6. Phân tích quan điểm chỉ đạo và giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn
dân. Quân đội với nhiệm vụ nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu?
* Khái quát vị trí, vai trò, ý nghĩa xác định quan điểm chỉ đạo, giải pháp xây dựng nền
QP
- Vị trí, vai trò…
- Ý nghĩa…
* Quan điểm chỉ đạo
- Quan điểm chỉ đạo của TW 8, khóa IX
+ giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc
+ kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội
+ kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc
+ xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại và phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc
+ ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên
ngoài

+ chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn
đến những đột biến bất lợi.
- Quan điểm chỉ đạo của Đại hội X, giải quyết tốt các mâu thuẫn
+ Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và toàn dân
+ Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên
cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước
+ Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và


từng bước hiện đại
+ Xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước đối với quốc
phòng an ninh
- Quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đại hội XI và NQTW8, khóa XI
+ Quan điểm
/ Giữ vững vai trò lãnh đạo trực tiếp, tuyết đối vê mọi mặt cùa Đảng đôi VỚI sự nghiệp
bảo vệ Tô quốc. Nâng cao năng lực lành đạo và sức chiên đâu của Đảng, hiẹu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước, không ngừng củng cô, tăng cượng khôi đại đoàn kết toàn dân tộc là
nhân tổ quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tô quôc.
/ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gán với chủ nghĩa xã hội. Giữ vũng môi trường hoà
bỉnh, ồn định để phát triển kinh tế xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Đồng thời, luôn
nêu cao cảnh giác, đảnh bại mọi âm mưu, hành động chông phá, xâm lược của các thế lực
thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
/ Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chăc Tổ quôc. Phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại
để bảo vệ Tô quoc. Phát huỵ nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ
bên ngoài; nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then, chốt,
phát triển văn hoá là nền tàng tinh thần của xà hội. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển
kinh tế. xã hội với cùng cô, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
/ Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tường, kinh tê, xã hội, văn hoá, quốc

phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kêt toàn dàn tộc, của cả hệ
thông chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quán lý, điêu hành thông nhất của Nhà nước,
lực lượng vù trang làm nòng cốt; tăng cường tiềm lực quôc phòng, an ninh, xây dựng thê trận
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mớĩ
/ Quán triệt đường lối độc lập, tự chù, đồng thời chù động, tích cực hội nhập quôc tê;
kiên trì chính sách đôi ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá; thêm bạn, bớt thù, vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, gia tăng hợp tác.
/ Chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn
đến những đột biến, bất lợi.
+ Phương châm NQTU8 khóa XI
-

Kiên trì mục tiêu tiêu, các nguyên tắc chiến lược, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược;

kiên trì giải-qụyết tranh chấp bàng biện pháp hoà bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; kết hợp


sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong
nươc, dư luạn quoc tê; phân hoá, cô lập các phần tử chống đối nhất, các thê lực chông phá
Việt Nam hung hăng nhất.
- Đối với nội bộ, lấy việc phát huy dân chủ, giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là
chính, đi đôi với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh các sai phạm. Đối với các thế
lực chống phá ở trong nước, cần phân hóa, cô lập bọn đầu xỏ ngoan cố, xử lý nghiêm minh,
kiên quyết những kẻ cố tình chống đối, đi ngược lại lợi ích dân tộc; giáo dục, lôi kéo nhũng
người lầm đường, không để hình thành lổ chức đối lập dưới bất kỳ hình thức nào.
- Thường xuyên đi sát cơ sở, nắm chắc tình hình, xử lý đúng đăn, kịp thời mọi tình
huống gây mất ổn định chính trị - xã hội.
* Giải pháp
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý, điều hành trong xây dựng
nền QPTD

- Phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng tiềm lực QP
- Đẩy mạnh xây dựng thế trận QPTD vững chắc
- Đẩy mạnh xây dựng lực lượng quốc phòng, tập trung xây dựng LLVTND theo yêu cầu
mới
- Đi đôi với tiếp tục giảm quân số thường trực, cần quay vòng nhanh số quân phục vụ tại
ngũ để tăng nhanh lực lượng dự bị động viên
- Phối hợp các lực lượng, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao chủ động ngăn ngừa và chi
phối có hiệu quả mọi tình huống
* Những vấn đề cần phê phán khắc phục?
Câu 7. Phân tích cơ sở khoa học của chủ trương đưa đấu tranh quân sự lên song
song với đấu tranh chính trị trong Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1/1961. Ý nghĩa lịch
sử?
* Cơ sở lý luận…
- Luận điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng có hai
hình thức đấu tranh cơ bản.
+ Hình thức khởi nghĩa vũ trang: kết hợp các lực lượng, các hình thức đấu tranh, trong đó,
lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị có vai trò chủ yếu quyết định.
+ Hình thức chiến tranh cách mạng: kết hợp các lực lượng, các hình thức đấu tranh, trong
đó, lực lượng quân sự và đấu tranh quân sự đóng vai trò chủ yếu quyết định.


- Luận điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về kết hợp nhiều phương thức,
nhiều hình thức đấu tranh nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cách mạng; không tự bó hẹp
ở một hình thức nào.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh phải dùng sức mạnh quân sự cách mạng để chống lại hành động
xâm lược bằng biện pháp quân sự của kẻ thù (được thể hiện qua Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến tháng 12 năm 1946).
* Cơ sở thực tiễn
- Xuất phát từ kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh cách mạng trên thế giới.
- Xuất phát từ hành động quân sự của kẻ thù đối với cách mạng (Mỹ - ngụy dùng biện

pháp quân sự để thẳng tay đàn áp, đánh phá cách mạng nước ta).
- Xuất phát từ thực tiễn của ta
+ Sau Hiệp định Giơnevơ, lực lượng quân sự của ta ở miền Nam gần như không còn (theo
quy định của Hiệp định Giơnevơ).
+ Sau phong trào đồng khởi ở miền Nam năm 1960, ta đã chiếm được một số vùng căn cứ
cho phép ta có thể xây dựng lực lượng quân sự.
- Nhu cầu phát triển lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang đặt ra một cách trực tiếp.
* Ý nghĩa lịch sử
- Đây là sự phát triển nhận thức của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng miền Nam lúc bấy
giờ.
- Là cơ sở để ta phát triển nhanh lực lượng vũ trang và đưa đấu tranh vũ trang lên song
song với đấu tranh chính trị.
- Trực tiếp góp phần đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ và góp
vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Câu 8. Đồng chí đánh giá như thế nào về thế trận lòng dân trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc hiện nay. Những đề xuất, kiến nghị?
- Khái quát chủ trương của Đảng về xây dựng thế trận lòng dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc:
- Đánh giá thế trận lòng dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay:
+ Ưu điểm
+ Hạn chế, yếu kém
- Những đề xuất kiến nghi
Thế trận lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc


QĐND - Thứ hai, 13/06/2011 | 22:2 GMT+7
QĐND - Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ, một trong những nhiệm
vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân là tập trung “Xây dựng thế trận lòng dân
vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”.
Để xây dựng “thế trận lòng dân”, trước hết phải nhận thức rõ nội dung yếu tố lòng dân. Đây

là vấn đề thuộc phạm trù ý thức xã hội, thường đi liền và đặt trong mối quan hệ với khái niệm
đất nước, Tổ quốc, Nhà nước… Nội dung cơ bản của lòng dân là lòng yêu nước thương nòi,
tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; là lòng tin của nhân dân vào các chủ trương, chính sách, thể chế chính
trị… của giai cấp lãnh đạo đất nước. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc cho thấy, các
triều đại phong kiến tiến bộ rất coi trọng ban hành các chủ trương chính sách để “an dân”,
quy tụ lòng dân, lấy dân làm gốc. Các chính sách đúng đắn đã quy tụ được lòng dân, phát huy
được sức mạnh của toàn dân trong giành và giữ vững nền độc lập, thống nhất, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ngày nay, quy tụ lòng dân, xây dựng “thế trận lòng dân” để đáp ứng yêu cầu tăng cường sức
mạnh quốc phòng - an ninh (QP-AN), bảo vệ Tổ quốc chính là quá trình xây dựng nhân tố
chính trị - tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, bảo đảm cho mọi
tầng lớp nhân dân không chỉ yêu quý thiết tha chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn gắn
bó với Đảng, với chế độ XHCN; có ý thức tự giác về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi công
dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Muốn vậy, phải tiến hành đồng bộ nhiều nội
dung, giải pháp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội và QP-AN… với sự tham gia
tích cực của các cấp, ngành và mọi tầng lớp nhân dân.
Trước hết, xây dựng “thế trận lòng dân” là phải nâng cao nhận thức về tình hình nhiệm vụ
QP-AN, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong các tổ
chức chính trị - xã hội và toàn dân. Thực tiễn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ cho thấy, nhờ làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, thống
nhất nhận thức và hành động của toàn dân, chúng ta đã phát huy cao nhất sức mạnh vật chất –
tinh thần của toàn dân tộc, vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh để đánh thắng kẻ thù xâm
lược có sức mạnh và tiềm lực vượt trội, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. Trong bối
cảnh bùng nổ thông tin hiện nay, cần tập trung củng cố, nâng cao chất lượng toàn diện các
hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục, bảo đảm các thông tin chính thống của Đảng và


Nhà nước, của các cấp ủy, chính quyền địa phương đến với các tầng lớp nhân dân, nhất là

vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cần chú trọng nâng cao lòng tự hào, tự
tôn dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta, truyền thống
vẻ vang của Đảng, của Quân đội trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ; rà soát,
bổ sung kịp thời những phát triển mới về đường lối, quan điểm, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của
Đảng vào giáo trình giảng dạy ở các cấp học; chú trọng tính hiệu quả của việc tổ chức học
tập, tập huấn, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nội dung chương trình giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức QP-AN cho các đối tượng theo quy định và giáo dục quốc phòng toàn dân.
Kết hợp chặt chẽ các hoạt động giáo dục với thông tin cập nhật tình hình trong nước và quốc
tế, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong các tầng lớp nhân dân, đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, mưu đồ tham vọng về biển, đảo thuộc chủ
quyền lãnh thổ Việt Nam của các thế lực trong và ngoài khu vực...
Có nhận thức đúng thì mới hành động đúng và ngược lại, song từ nhận thức đến hành động là
cả một quá trình, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan thông tin tuyên truyền
phải nghiên cứu, nắm vững nhu cầu thực tiễn, đặc điểm từng lĩnh vực, vùng miền; tâm lý và
trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân để xác định nội dung chương trình tổ chức học
tập, quán triệt cũng như xác định nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức thông tin tuyên
truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức về quân sự, quốc phòng… cho phù hợp, hiệu
quả, tránh hình thức, giáo điều.
Chú trọng đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tệ nạn tham
nhũng ở nước ta đã và đang gây hậu quả nghiêm trọng tới sức mạnh của hệ thống chính trị,
cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của đất nước trong quan hệ
quốc tế, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với chế độ, trực tiếp ảnh hưởng đến “thế trận
lòng dân”.
Để góp phần vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng một cách hiệu quả, cần tập trung nghiên
cứu đổi mới tổ chức, thể chế hành chính. Xây dựng và làm cho bộ máy nhà nước ở nước ta
thực sự trong sạch, vững mạnh cần gắn chặt với cải cách hành chính, chống tham nhũng, lãng
phí bằng các biện pháp mạnh mẽ và quyết liệt. Cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng cơ
chế đấu tranh phòng và chống tham nhũng hiệu quả, đồng bộ trong từng tổ chức, gắn chặt với
cơ chế tổ chức, cơ chế hoạt động của Nhà nước, cơ chế thực hiện quyền làm chủ của nhân

dân; sớm nghiên cứu xây dựng cơ chế giám sát hoạt động giữa các cơ quan thanh tra, kiểm


tra, kiểm soát, kiểm toán, điều tra… trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tổ chức
thực hiện đầy đủ từng nội dung của quy chế cán bộ nhà nước công khai các hoạt động của
mình trước nhân dân (chứ không chỉ là trước đại biểu “lựa chọn” trong nhân dân) theo định
kỳ, hoặc bất thường.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu đổi mới chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức nhà nước
để họ yên tâm thực thi công vụ, không nhận hối lộ, không muốn hối lộ, toàn tâm góp sức vào
phát triển kinh tế - xã hội; nếu vi phạm sẽ bị xử lý rất nghiêm và liên quan đến sự mất còn vị
trí công việc để họ tự lựa chọn, bất luận họ là ai, giữ cương vị nào. Làm được như vậy, chúng
ta mới thu hút được những tài năng thật sự vào làm việc trong khu vực hành chính nhà nước.
Về công tác tổ chức cán bộ, phải nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của nhiệm vụ then chốt,
cấp bách là xây dựng các tổ chức đảng thực sự trong sạch vững mạnh mới có cơ sở để nâng
cao chất lượng quản lý, giáo dục, rèn luyện, sàng lọc cán bộ, đảng viên phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Cần có những giải pháp kiên quyết để “thực hiện
rõ, thực hiện đúng, thực hiện đến cùng chế độ trách nhiệm cá nhân”, nhất là người đứng đầu
cơ quan, đơn vị trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng; kiện toàn các cơ quan, đơn
vị chuyên trách và các cơ quan chức năng phòng, chống tham nhũng, lãng phí đủ mạnh (tổ
chức bộ máy, cán bộ, nguồn lực). Chú trọng phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã
hội, cơ quan báo chí và nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; định
hướng, tạo dư luận tích cực trong từng tổ chức, dư luận xã hội ủng hộ, bảo vệ, tôn vinh những
cá nhân tiêu biểu trong việc phát giác, tố cáo, mạnh dạn đấu tranh phê phán các hành vi tiêu
cực như tham nhũng, cơ hội, cục bộ, bè phái… trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Có
như vậy mới khắc phục tận gốc nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ, thiết
thực củng cố xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh.
Tổ chức tốt cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong toàn dân. Chia rẽ dân với Đảng và
Nhà nước là một thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch nhằm ly tán “lòng dân”. Để làm
việc đó, chúng ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá trên tất cả các

lĩnh vực, với hy vọng làm cho nhân dân mất lòng tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng, mục tiêu,
lý tưởng của CNXH. Do đó, cần tập trung làm tốt việc nghiên cứu tổng kết lý luận và thực
tiễn để khẳng định tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối đúng đắn, sáng tạo lãnh đạo công cuộc đổi mới của Đảng; lấy đó làm cơ sở
để trang bị kiến thức chính trị - tư tưởng, tăng cường “thế trận lòng dân” đấu tranh với các


quan điểm sai trái, thù địch một cách tích cực, chủ động. Quá trình đấu tranh phải thường
xuyên nghiên cứu nắm vững âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; lãnh đạo
chỉ đạo tập trung thống nhất, tổ chức chặt chẽ lực lượng, phương tiện đấu tranh; phân rõ cấp
độ, phạm vi đấu tranh cho các cấp, các ngành… có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận bảo vệ Đảng và chế độ XHCN.
Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc luôn là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu và xuyên suốt,
là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, nhằm tạo cơ sở nền tảng
sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước - nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Câu 9. Phân tích cơ sở khoa học và nội dung quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ trong
Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 và 12 (1965). Ý nghĩa lịch sử
và hiện thực?
* Khái quát hoàn cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới và âm mưu thủ đoạn của kẻ thù
+ Tình hình thế giới
+ Đế quốc Mỹ tăng cường độ chiến tranh bằng chiến lược chiến tranh cục bộ, đưa quân
chiến đấu Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ trực tiếp vào miền Nam; thực hiện đánh phá
miền Bắc bằng chiến tranh phá hoại.
- Tình hình trong nước và chủ trương của Đảng
+ Miền Bắc là hậu phương lớn của miền Nam đang quá độ lên CNXH trong điều kiện
thời bình.
+ Đảng chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế miền Bắc trong điều kiện có chiến
tranh và chỉ đạo quân dân miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ.

* Phân tích cơ sở khoa học và nội dung Quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ…Thể hiện trong
NQTƯ 11 (3-1965) và NQTƯ 12 (12-1965).
- Cơ sở khoa học
+ Ta kiên định với mục tiêu độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Ta đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của ĐQM, cách mạng miền Nam đang
ở thế chiến lược tiến công.
+ Mỹ đẩy cao cường độ chiến tranh, thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” đưa quân
Mĩ và quân các nước đồng minh vào miền Nam trực tiếp tham chiến; gây chiến tranh phá
hoại đối với miền Bắc.


+ Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã trưởng thành qua hơn mười năm kháng chiến.
+ Các nước XHCN và nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến của ta.
- Nội dung Quyết tâm
+ Động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại ĐQM trong bất kỳ tình huống nào,
chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc.
+ Kiên quyết giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công, kiên quyết đánh thắng Mỹ
trên chiến trường chính MN.
+ Chuyển hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục xây dựng CNXH ở MB, tích cực chi viện cho
MN, giúp đỡ cách mạng Lào và CPC.
+ Tiếp tục thực hiện phương châm đấu tranh: “2 chân, 3 mũi, 3 vùng”.
- Thực hiện phương châm chiến lược “Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn”.
* Ý nghĩa lịch sử và hiện thực
- Ý nghĩa lịch sử
+ Thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo và kiên định mục tiêu độc lập, thống nhất
hai miền Nam - Bắc của Đảng và nhân dân ta.
+ Nghị quyết Trung ương 11, 12 - khóa III đã đáp ứng yêu cầu cấp bách của cách mạng
trước âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù.
+ Là cơ sở trực tiếp đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của ĐQM.

- Ý nghĩa hiện thực
+ Luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trước những bước ngoặt, những
biến cố chính trị của đất nước.
+ Đảng phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo hoạch định đường lối và chỉ đạo thực
hiện đường lối trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
+ Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong thực hiện các nhiệm vụ trọng đại của đất
nước.
Câu 10. Đồng chí đánh giá như thế nào về khả năng huy động tiềm lực quốc phòng
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Những đề xuất, kiến nghị?
- Khái quát chủ trương của Đảng về xây dựng tiềm lực quốc phòng trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc
- Đánh giá về khả năng huy động tiềm lực quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
hiện nay


+ Thuận lợi
+ Khó khăn
- Những đề xuất kiến nghị
Xây dựng tiềm lực quốc phòng-an ninh trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
Tiềm lực quốc phòng-an ninh (QP-AN) là tổng thể mọi “khả năng” về vật chất và tinh
thần có thể huy động từ mọi lĩnh vực trong nước và ngoài nước. Nó phải dựa vào toàn bộ
sức mạnh quốc gia. Do vậy, xây dựng tiềm lực QP-AN trong Chiến lược phát triển kinh tếxã hội (KT-XH) là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Ngày nay, nhiệm vụ QP-AN, không chỉ nhằm chống “thù trong, giặc ngoài” như trước, mà
còn chuẩn bị phòng, chống các mối đe dọa phi truyền thống như: khủng bố, tội phạm xuyên
quốc gia, các biến cố của thiên tai (bão, lụt, động đất, sóng thần...), gây ra những thiệt hại lớn
cho quốc gia, dân tộc. Vậy, để giải (ứng) cứu và xử lý kịp thời những hậu quả do các biến cố
gây ra phải dựa vào tiềm lực mọi mặt của quốc gia, dân tộc; trong đó, các lực lượng vũ trang
là nòng cốt. Hiện nay, “an ninh sinh thái” đã được nhiều nước xem là bộ phận cấu thành của
nền an ninh quốc gia. Từ đó, tiềm lực QP-AN có thể rút gọn là: tổng thể những sức mạnh có
thể huy động vào việc khắc phục mọi biến cố do thiên tai-địch họa gây ra cho một quốc gia,

dân tộc, nhằm giữ vững môi trường hoà bình ổn định cho đất nước liên tục phát triển về mọi
mặt. Xây dựng tiềm lực QP-AN không thể chỉ là trách nhiệm của Chiến lược Quốc phòng hay
Chiến lược An ninh mà còn phải là của Chiến lược phát triển KT-XH và nhiều chiến lược
quốc gia khác; đó là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị
mà các lực lượng vũ trang (Quân đội và Công an) làm nòng cốt. Để xây dựng tiềm lực QPAN có hiệu quả, các chủ thể tham gia xây dựng cần nắm vững nội hàm của nó.
Trước hết, tiềm lực kinh tế là “khả năng” về kinh tế có thể huy động để phục vụ cho nhiệm
vụ xây dựng, phát triển của đất nước, bảo đảm an sinh xã hội, mà còn phải tính đến khả năng
có thể huy động nhằm phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong đó có yêu cầu phát triển nền
QP-AN vững mạnh. Trong điều kiện vũ khí, trang bị của ta đã sử dụng nhiều năm, xuống cấp,
lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; nhiệm vụ quân sự, QP-AN hiện nay
đòi hỏi phải hiện đại hóa các lực lượng vũ trang cả về biên chế, tổ chức và vũ khí, trang bị;
nguồn kinh phí để bảo dưỡng, cải tiến, nâng cấp vũ khí, trang bị hiện có và mua sắm các loại
vũ khí, trang bị mới rất tốn kém;..., nếu không có một nền kinh tế phát triển thì sẽ khó đáp
ứng được. Tiềm lực kinh tế chẳng những được biểu hiện ở trình độ phát triển sản xuất và khối


lượng sản phẩm xã hội, ở nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, mà còn biểu hiện ở sức cơ
động của nền kinh tế kịp thời chuyển từ thời bình sang thời chiến; đặc biệt, ở sức sống của
nền kinh tế có thể đứng vững và nhanh chóng phục hồi khi bị địch họa, thiên tai tàn phá... Do
vậy, tiềm lực kinh tế là nền tảng vật chất của các loại tiềm lực khác trên từng mặt.
Hai là, tiềm lực chính trị-tinh thần là khả năng về chính trị-tinh thần của toàn dân, toàn quân
và cả hệ thống chính trị, có thể huy động để vượt qua mọi thử thách do thiên tai, địch họa
gây ra, hoàn thành tốt các nhiệm vụ quân sự, QP-AN trong mọi tình huống. Tiềm lực chính
trị-tinh thần giữ vị trí động lực để biến mọi tiềm lực khác thành sức mạnh, vì bất cứ lợi khí
vật chất tinh thần nào của đất nước cũng nhất thiết phải nằm trong tay con người mới phát
huy được tác dụng. Nó có thể “biến không thành có, biến khó thành dễ” và ngược lại. Tiềm
lực chính trị-tinh thần xưa, nay vốn là ưu thế tuyệt đối của những sự nghiệp chính nghĩa, nhờ
đó mà cách mạng nước ta lập nên những kỳ tích, chiến công vô cùng oanh liệt trong điều kiện
nền kinh tế còn kém phát triển. Trong khi đó, tiềm lực chính trị-tinh thần lại đòi hỏi những
yếu tố nuôi dưỡng rất kén chọn và “tinh khiết”. Nó đòi hỏi tính chất, nhiệm vụ phải thực sự

trong sáng, vô tư; mục tiêu đạt tới phải rõ ràng vì nước, vì dân; lãnh đạo chỉ huy phải thực sự
công bằng, mẫu mực... Tiềm lực chính trị-tinh thần rất dễ bị lay chuyển, biến dạng và khi bị
khủng hoảng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các tiềm lực khác.
Ba là, tiềm lực quân sự, an ninhlà toàn bộ khả năng về vật chất, tinh thần có thể huy động để
tạo thành sức mạnh phục vụ cho những nhiệm vụ mang tính quân sự trong hoạt động QP-AN
có quy mô toàn cục (như chống chiến tranh xâm lược, chống bạo loạn vũ trang, nội chiến
cách mạng...). Tiềm lực quân sự, an ninh bao gồm: trình độ tổ chức chỉ huy, năng lực lãnh
đạo quản lý, khả năng của vũ khí, trang bị và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang, nhằm
duy trì và thực hiện phương châm “càng đánh càng mạnh, càng đánh càng tinh nhuệ”. Xây
dựng tiềm lực quân sự, an ninh trong điều kiện mới đòi hỏi các bộ chủ quản (Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an) phải tiếp tục nghiên cứu, phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh
nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân; gắn chặt QP-AN với kinh tế trong từng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT-XH; đồng thời, chủ động, tích cực xây
dựng nền công nghiệp QP-AN, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị vũ khí, kỹ
thuật ngày càng hiện đại.
Bốn là, tiềm lực khoa học và công nghệ là khả năng của mọi ngành khoa học từ công nghệ kỹ
thuật, khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội-nhân văn có thể huy động vào nhiệm vụ quân
sự, QP-AN thời bình cũng như những biến cố trọng đại từ cục bộ đến toàn cục. Mục đích


×