Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.17 MB, 23 trang )

PHÒNG GD&ĐT TX TÂN CHÂU

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG TIỂU HỌC B LONG AN
________________

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
______________________________________

Long An, ngày 10 tháng 01 năm 2018

BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến
Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3
trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp
_______________________

I. Sơ lược lý lịch tác giả:
- Họ và tên: Lê Thị Việt Chương
Nam, nữ: nữ
- Ngày tháng năm sinh: 28/4/1980
- Nơi thường trú: Tổ 7, ấp Long Hòa, xã Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An
Giang
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An
- Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp
- Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm
- Lĩnh vực công tác: Giáo viên tiểu học
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
1. Tóm tắt tình hình đơn vị
Trường Tiểu học B Long An được thành lập theo Quyết định số 11/QĐ-UBND


ngày 30 tháng 11 năm 2009 của Ủy ban nhân dân thị xã Tân châu. Trường có một điểm
do ba điểm trường trước đây hợp thành, nằm ven bờ sông Kênh Xáng. Năm 2000
trường được xây dựng mới trên mặt bằng rộng cặp theo lộ giao thông Long An - Châu
Phong, tọa lạc trên tuyến dân cư thuộc ấp Long Hòa, xã Long An, từ đó tạo điều kiện
thuận lợi cho học sinh học tập. Dân số thuộc địa bàn trường để phổ cập 4974 người với
1234 hộ dân; năm học 2017 - 2018 toàn trường có 26 cán bộ, giáo viên và nhân viên, có
411 học sinh được chia thành 14 lớp; đa số người dân lao động nghèo, sống bằng nghề
buôn bán nhỏ, làm thuê. Thực hiện chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới, địa phương được chọn là xã điểm của tỉnh trong việc xây dựng nông thôn
mới. Năm 2015 xã Long An được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang công nhận đạt chuẩn
nông thôn mới.
2. Thuận lợi
- Học sinh có nhiều cơ hội rèn luyện và trải nghiệm kỹ năng giao tiếp - ứng xử ở
trường và cộng đồng.
- Trường Tiểu học B Long An đang triển khai mô hình trường học mới, do vậy sẽ
có nhiều hoạt động trong và ngoài giờ học nhằm phát triển năng lực, phẩm chất cho học
sinh, trong đó có năng lực giao tiếp - ứng xử.
- Nhà trường rất quan tâm tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh thực hiện các
hoạt động nhằm phát triển toàn diện cho học sinh.
3. Khó khăn
- Một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chưa có sự quan tâm chu đáo, chặt
chẽ của cha mẹ.
- Giáo viên chưa nhận được sự phối kết hợp của cha mẹ trong việc giáo dục con
em.
- Khả năng giao tiếp - ứng xử của học sinh còn hạn chế. Hơn nữa, một số em ít
có điều kiện tiếp xúc nơi đông người nên còn nhút nhát, ngại giao tiếp, ít phát biểu,
1


chưa tự tin trong luyện nói một số em không biết diễn đạt hết ý của mình. Ý thức rèn

luyện và trau dồi kỹ năng giao tiếp - ứng xử ở học sinh còn hạn chế.
- Tên sáng kiến: Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học
sinh lớp 3 trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Lĩnh vực: Chuyên môn.
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
- Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu đổi mới toàn
diện của giáo dục nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
- Tìm ra một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh.
- Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp
học sinh có hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen giao
tiếp - ứng xử có văn hóa.
- Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ,
độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang
bị cho các em những kỹ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
- Hiện nay, có nhiều học sinh chưa mạnh dạn tự tin, còn e dè thụ động trong học
tập và trong sinh hoạt chung; kỹ năng giao tiếp còn hạn chế, chưa biết cách diễn đạt suy
nghĩ của mình bằng ngôn ngữ, hợp tác và trình bày ý kiến cá nhân. Một số em trong ứng
xử có phần còn mang tính tùy tiện. Nhiều học sinh rất thiếu kỹ năng xử lý tình huống
của cuộc sống thực; không biết giao tiếp theo những quy tắc tối thiểu nhất trong gia
đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội; thiếu tự tin khi giao tiếp, thiếu bản lĩnh, thiếu
sáng tạo; học tập thụ động; kiểm soát cảm xúc không tốt như còn gây gỗ, đánh nhau với
những lý do vô cùng phi lý.
- Năm học 2017 - 2018, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 3A. Qua
các hình thức và biện pháp khảo sát khác nhau, tôi thống kê kết quả đánh giá về thực
trạng và khả năng giao tiếp - ứng xử của học sinh như sau:
Tổng số
học
sinh
30


Số học sinh
giao tiếp tốt
Số lượng
8

Tỉ lệ
26,27%

Số học sinh chưa có
kỹ năng giao tiếp,
chưa mạnh dạn, tự tin
Số lượng
Tỉ lệ
14
46,46%

Số học sinh chưa có
kỹ năng diễn đạt, thể
hiện
Số lượng
Tỉ lệ
8
26,27%

- Đặc biệt hơn đầu năm học này lớp tôi có em Nguyễn Thanh Phong và em
Trương Thị Mỹ Ngân từ một học sinh hết sức nhút nhát, rụt rè, vào đầu năm khi tôi gọi
hai em này lên bảng, hai em không thể tự giới thiệu bất cứ một điều gì về bản thân và
gia đình của mình.
* Nguyên nhân của những hạn chế nói trên:

- Đối với giáo viên:
Cơ bản mới chú ý đến việc giáo dục chất lượng của học sinh, tuy nhiên có một số
ít giáo viên thiếu kinh nghiệm trong cách dạy bảo đối với học sinh hay nghịch, cách ứng
xử và giao tiếp trong cuộc sống. Một số giáo viên chưa thật sự tích cực tổ chức phương
pháp dạy học tích cực, tạo điều kiện để học sinh học nhóm, trao đổi kinh nghiệm để học
sinh học tập lẫn nhau. Kỹ năng giáo dục yêu cái đẹp, thực hành viết chữ đẹp chưa được
chú ý. Một số ít giáo viên dạy các môn Đạo đức, Hoạt động ngoài giờ lên lớp, Tự nhiên
và Xã hội chưa được tập huấn dạy học các bài học phải tích hợp rèn luyện kỹ năng sống

2


cho học sinh. Giáo viên chưa chú trọng rèn luyện kỹ năng thực hành, chủ yếu hình
thành trên lý thuyết.
- Đối với gia đình và xã hội:
Cá biệt vẫn còn có học sinh do ảnh hưởng của môi trường xã hội, khu dân cư nên
hành vi giao tiếp - ứng xử chưa đúng mực. Một vài em được sự nuông chiều của gia
đình, được gia đình phục vụ, đáp ứng mọi yêu cầu, chỉ biết học nên việc giao tiếp còn
hạn chế và ngược lại cũng có những em sống trong gia đình nghèo khổ, bố mẹ thiếu
quan tâm đến việc giáo dục con cái còn phó mặc cho nhà trường.
Trước thực trạng đó, trong công tác chủ nhiệm lớp tôi suy nghĩ tìm các biện pháp
giáo dục phù hợp với các đối tượng học sinh của lớp, nhằm hình thành các thói quen tốt
cho các em, giúp các em phát triển nhân cách, có những hành vi giao tiếp - ứng xử
chuẩn mực, làm tròn nhiệm vụ học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
Albert Einstein đã từng nói: “Nhà trường luôn luôn có chủ trương tạo cho học
trò một cá tính cân đối chứ không nên biến chúng thành một nhà chuyên môn”. Do
đó, việc giáo dục và đào tạo trong nhà trường hiện nay không chỉ chú trọng đến việc tạo
ra những con người giỏi về nghề nghiệp mà còn phải hoàn thiện về nhân cách trong đó
kỹ năng giao tiếp - ứng xử là một trong những kỹ năng cần được hoàn thiện ngay từ bậc

tiểu học.
“Học để biết, học để làm, học để khẳng định mình và học để chung sống”.
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học
sinh tiếp tục học trung học cơ sở, (Luật giáo dục, điều 27, khoản 3). Muốn thực hiện
mục tiêu này thì đòi hỏi giáo viên và học sinh phải cùng nổ lực thực hiện nhiệm vụ dạy
và học của mình mà trong đó giao tiếp - ứng xử sư phạm đóng vai trò hết sức quan
trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân; giao tiếp - ứng xử
ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của mỗi người. Giao tiếp - ứng xử là một
kỹ năng đời thường nhưng là “Nhu cầu cơ bản nhất” của con người và mang tính sống
còn đối với bất kì sự quan hệ nào của nhân loại.
Trong cuộc sống, trong giao tiếp - ứng xử hàng ngày chúng ta luôn phải ứng phó
với biết bao tình huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc rất phức tạp, khó xử nên không dễ
và thật sự khó khăn để bạn có thể tạo được ấn tượng với họ khi giao tiếp - ứng xử. Xã
hội càng văn minh thì nhu cầu trong giao tiếp - ứng xử của chúng ta càng cao. Nên giao
tiếp - ứng xử một cách thông minh, khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả, đạt tới mức
độ nghệ thuật được coi như một bí quyết thành công trong cuộc đời.
Trong quá trình dạy và học, giao tiếp càng đóng vai trò quan trọng hơn. Nhưng ở
bậc tiểu học, học sinh cần phải rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử. Nó được thể hiện
ở hai phương diện “Nói - viết”. Như vậy, “Nói - viết” như thế nào để mang lại hiệu quả
cao trong học tập cho học sinh, giúp các em giao tiếp, ứng xử tốt hơn là vấn đề chúng ta
cần phải quan tâm. Nhưng việc rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh ở đây là rất
hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các môn học cũng như lồng ghép vào các hoạt
động ngoại khóa giáo viên còn mơ hồ. Để nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học
sinh tiểu học, với cương vị là một giáo viên chủ nhiệm, bản thân hết sức băn khoăn và
trăn trở: Làm thế nào để nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh? Làm thế
nào để học sinh biết cách vận dụng kỹ năng giao tiếp - ứng xử vào trong cuộc sống
hằng ngày?
Với lòng mong mỏi của bản thân có thể góp phần nhỏ bé trang bị cho các em khả
năng tự tin trong giao tiếp - ứng xử với thầy cô, bạn bè và rộng ra là tất cả mối quan hệ

3


trong xã hội và góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi quyết định chọn
đề tài: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3
trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp”. Với mục tiêu giúp các em rèn
giũa kỹ năng giao tiếp - ứng xử để có thể tự tin, tự nhiên trong giao tiếp - ứng xử với
mọi người xung quanh. Và đây cũng chính là nền tảng vững chắc nhất cho các em khi
bước vào đời.
3. Nội dung sáng kiến
a. Tiến trình thực hiện
- Muốn việc dạy và học đạt hiệu quả tốt thì giáo viên cần chú ý ba yếu tố sau:
+ Yếu tố thứ nhất: phẩm chất cá nhân của giáo viên.
+ Yếu tố thứ hai: mối quan hệ giữa giáo viên với cá nhân học sinh và với cả lớp
học.
+ Yếu tố thứ ba: phát huy được sự tự tin và tự trọng của học sinh.
- Chân thành luôn thể hiện sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ, tôn trọng các em học
sinh và luôn đối xử với các em một cách công bằng. Không những thế giáo viên còn
phải liên tục bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nắm bắt được các phương pháp giảng dạy
tốt và biết giao tiếp phi ngôn ngữ với các em học sinh, nhất là bằng ánh mắt. Biết cùng
chơi với các em, biết nói đùa sẽ giúp các em tiếp thu nhanh và có một buổi học thú vị.
- Có mối quan hệ với gia đình học sinh để có thể hợp tác với nhau trong việc dạy
dỗ các em.
- Biết khoan dung có nghĩa là giáo viên phải độ lượng không cố chấp, công bằng
và kiên định đối với tất cả học sinh.
- Không làm cho học sinh cảm thấy bị gò bó khi học tập, giao tiếp - ứng xử.
- Nắm được đặc điểm của từng học sinh như: tên, tuổi, hoàn cảnh gia đình, tâm
lý của các em cũng như tình trạng sức khỏe và quá trình học tập của các em, những sự
kiện bất thường như: học sinh lưu ban nhiều năm, thiểu năng, mồ côi, cá tính đặc biệt,...
- Hiểu biết càng nhiều về học sinh càng tốt, nên ghi chép từng điều đặc biệt của

học sinh như: lưu ban, nghịch ngợm, ưa đánh nhau, cận thị, nói ngọng, nói lắp, trầm
lắng,..
- Biết thêm cuộc sống ngoài lớp học của học sinh càng nhiều càng tốt. Đồng thời
cũng nên dành nhiều thời gian để cởi mở với từng học sinh hay từng nhóm nhỏ: Em
thích làm gì? Thích học môn nào nhất? Vì sao? Môn nào em không thích? Tại sao? Em
học giỏi môn nào? Em quan tâm điều gì nhất? Em sống chung với ai? Em thích chơi
những trò chơi nào? Thích chơi với những bạn nào? Không thích chơi với bạn nào? Tại
sao?
- Thường xuyên tham gia các trò chơi giải trí, hoạt động thể thao, văn nghệ với
các em. Bên cạnh đó giáo viên cần giúp các em giữ được nội quy, cư xử một cách công
bằng phân minh, giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp nhập vai tự luyện và
hiểu được tình huống đang diễn ra, tự nhận biết được các biểu hiện nét mặt, lời nói, cử
chỉ của mình khi đóng vai, luôn quan tâm sự đánh giá, nhận xét và góp ý của các em
học sinh. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng và sáng tạo luôn có ý
thức tìm hiểu, rút kinh nghiệm.
- Điệu bộ, cử chỉ, tư thế, dáng đứng đi. Điệu bộ, cử chỉ của giáo viên là một yếu
tố không thể thiếu trong quá trình giảng dạy góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động
như những cử động tay chân, cơ thể, ánh mắt trìu mến, nghiêm nghị, không quá cuồng
nhiệt và tùy tiện,...
- Tư thế phải thể hiện linh hoạt trong giao tiếp, cần phải đỉnh đạc, đàng hoàng,
ung dung và khoan thai, còn học sinh phải lễ phép, tôn kính.
4


- Có khả năng làm chủ nhận thức, thái độ, hành vi, phản ứng của mình, đọc được
những vận động trên nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của đối tượng, biết lắng nghe và xử lý
thông tin, linh hoạt với các hoàn cảnh giao tiếp và nội dung giao tiếp.
b. Thời gian thực hiện
- Trong thực tế hiện nay, việc rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh trong
nhà trường đã được chú trọng đến. Song, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tổ

chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh.
- Với ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho
học sinh tôi đã thực hiện đề tài sáng kiến “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao
tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3 trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp”.
Do đó, đề tài sáng kiến này được tôi nghiên cứu với các số liệu thực trạng từ năm học
2015 - 2016 và đúc kết kinh nghiệm cho bản thân, áp dụng các giải pháp vào năm học
2016 - 2017 đến nay tôi thấy có hiệu quả. Trong năm học 2017 - 2018 này tôi mạnh dạn
áp dụng và giới thiệu đề tài này với mong muốn chia sẻ kinh nghiệm cùng đồng nghiệp,
để được sự đón nhận của đồng nghiệp, của đơn vị, của ngành giáo dục để giúp đề tài
của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
c. Biện pháp tổ chức
c.1. Nắm tình hình học sinh qua bàn giao công tác chủ nhiệm
Ngay từ đầu năm học, nhà trường chỉ đạo cho giáo viên các khối lớp bàn giao
công tác chủ nhiệm. Từ các kênh thông tin của giáo viên chủ nhiệm năm trước và qua
trò chuyện trực tiếp với học sinh, với gia đình, nhờ thế tôi đã nắm được các thông tin
sau:
- Tình hình chất lượng và các mặt hoạt động khác của từng học sinh trong lớp,
nguyên nhân kết quả của giáo dục đó.
- Hoàn cảnh gia đình học sinh.
- Tâm tư, nguyện vọng và mong muốn, sở trường, hạn chế của từng học sinh ở
thời điểm hiện tại. Từ đó, tôi lập kế hoạch chủ nhiệm - hình thành bộ máy hội đồng tự
quản của lớp, thành lập các ban, biên chế ban học tập, ban văn nghệ thể dục thể thao,
ban sức khỏe vệ sinh, ban thư viện, thành lập đôi bạn học tập theo tình hình chất lượng
lớp tạo điều kiện cho các em được học tập lẫn nhau,... Cụ thể như đôi bạn: Xuân
Nguyên và Sĩ Em, Ngọc Uyển và Thành Nhân, Phương Nhi và Mỹ Ngân, Thúy Vy và
Bảo Thi, Thanh Vạn và Quốc Toàn, Minh Triết và Gia Hào, Mỹ Dư và Thanh Phong,...

5



Đôi bạn cùng giúp đỡ nhau trong học tập
c.2. Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh
- Sau khi phân loại chất lượng đầu năm và qua hai tuần giảng dạy tôi đã bắt đầu
theo dõi và chia học sinh theo các nhóm sau:
+ Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch lạc, biết thể hiện lời nói
biểu cảm trong giao tiếp, cụ thể như em: Xuân Nguyên, Phương Nhi, Ngọc Uyển, Thúy
Vy, Thanh Vạn, Minh Triết, Thanh Thảo.
+ Nhóm học sinh có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy. Tuy nhiên, chưa thể
hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét, cụ thể như em: Mỹ Kỳ, Bảo
Minh, Mỹ Dư, Thúy Quỳnh, Huỳnh Như, Bảo Nam, Tường Vy, Trúc Ly.
+ Nhóm học sinh còn nhút nhát, nói năng cộc lốc, ngại giao tiếp, hầu như không
biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, cụ thể như em: Sĩ Em, Thành Nhân, Mỹ
Ngân, Bảo Thi, Quốc Toàn, Gia Hào, Thanh Phong.
- Sau khi phân tích đặc điểm cũng như giao tiếp của từng học sinh trong lớp, tôi
tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp ba đối tượng học
sinh nêu trên trong các nhóm.
- Ưu điểm của biện pháp này là các em tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập
là một việc làm hết sức bổ ích như câu tục ngữ “Học thầy không tày học bạn”.
- Trong quá trình học tập, thi đua sẽ giúp các em mạnh dạn, năng động hơn rất
nhiều trong việc rèn luyện kỹ năng nói. Sự giúp đỡ động viên của các bạn trong lớp,
trong nhóm sẽ giúp các em tự tin hơn trước lời phát biểu của mình.
c.3.Giao tiếp - ứng xử trong nhà trường (thầy cô, bạn bè...)
c.3.1. Trong các môn học chính khóa
- Quan hệ thầy - trò trong nhà trường không phải là quan hệ bề trên - kẻ dưới mà
là thực hiện phân công - hợp tác.
- Trong từng môn học, tiết học, giáo viên phải là người “làm mẫu” từ cách nói
năng, thái độ, đi đứng, chữ viết,... Vì nếu giáo viên có thái độ không tốt với học sinh,
các em sẽ học theo thầy đối xử không tốt với bạn bè và mọi người xung quanh. “Lệnh”
giao việc của giáo viên đưa ra phải rõ ràng, cụ thể và thật sự “nghiêm”. Cần xây dựng
mối quan hệ Thân thiện - Hợp tác giữa Thầy - Trò và giữa Trò - Trò để mọi học sinh đều

6


được quan hệ trực tiếp với thầy và quan hệ với nhau. Giáo viên cần khuyến khích học
sinh trao đổi, đặt câu hỏi, thảo luận, phát biểu ý kiến, thể hiện quan điểm cảm xúc riêng
của mình. Giáo viên có thể chia lớp thành nhóm, lúc đầu có thể là nhóm nhỏ (2 học sinh
ngồi cùng bàn) để dễ trao đổi, giúp các em tự tin dần; sau đó triển khai giữa 1 em và 1
em khác (vẫn là 2 em nhưng thay đổi bạn trao đổi) sẽ giúp các em làm quen dần với sự
hợp tác này. Dần dần khi các em đã có kinh nghiệm hơn, tự tin hơn có thể triển khai
thành nhóm lớn hơn (4, 6, 8 em) và luân phiên nhau em nào cũng có thể làm nhóm
trưởng - mọi thành viên trong nhóm đều được nói, các thành viên còn lại có nhiệm vụ
đóng góp ý kiến, trao đổi, giúp đỡ bạn mình... Giáo viên phải là người thiết kế, định
hướng, giúp đỡ, uốn nắn học sinh; tôn trọng học sinh, giúp học sinh tự tin bằng việc
khuyến khích, động viên chứ không chê bai, chỉ trích... Giáo viên phải biết khẳng định
việc làm của học sinh là “đúng” hay “chưa đúng”, tuyệt đối không nói là “sai”.
- Để nâng cao năng lực tự tin, khả năng giao tiếp, hành vi ứng xử của học sinh,
giáo viên có thể yêu cầu mỗi tuần mỗi tổ cử một bạn làm Chủ tịch Hội đồng tự quản
luân phiên lần lượt. Lúc đầu có thể là những em có năng lực, mạnh dạn, tự tin; sau là
những em nhút nhát, chưa tự tin; những em còn có hành vi chưa thật sự văn minh, lịch
sự; những em còn hạn chế về khả năng giao tiếp... để các em rút kinh nghiệm, điều
chỉnh dần bản thân mình, nâng cao năng lực cá nhân... với sự góp ý, giúp đỡ của tập thể
lớp và khả năng bản thân (vì mỗi học sinh chắc chắn đều có những mặt mạnh, mặt tích
cực riêng).
- Giáo viên phải là người làm “mẫu”, hướng dẫn, điều chỉnh học sinh, vì vậy cần
tổ chức các bài học thông qua mô phỏng, trao đổi, thảo luận, tranh luận, đóng vai, cuộc
thi, trò chơi, vẽ tranh... để mỗi học sinh đều được thể hiện mình.
- Việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh không phải thông qua
một môn học nào mà nó bao trùm toàn bộ các môn học, là sự tích hợp dần để học sinh
được trải nghiệm. Tất cả các môn học từ Tiếng việt, Toán, Tự nhiên và Xã hội, Thủ
công... đều giúp học sinh rèn luyện giao tiếp để phát triển kỹ năng sống nếu giáo viên là

người biết “Thiết kế” và học sinh là người biết “Thi công”.
Ví dụ: Dạy bài Tập đọc “Chiếc áo len” (Tiếng Việt 3 - tuần 3) giáo viên có thể
giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh qua các hoạt động:
- Luyện đọc:
+ Cho học sinh được đọc cá nhân tức là các học sinh trong lớp sẽ được nhận xét,
giúp đỡ bạn hoặc học tập cách đọc của bạn mình.
+ Cho học sinh đọc cặp đôi cùng bàn tức là giúp học sinh sửa chữa lẫn nhau, tự
tin giao tiếp, tương tác với nhau.
+ Cho học sinh đọc thi đua tức là giúp học sinh nâng cao năng lực khẳng định
mình, rút kinh nghiệm cho bản thân, học tập điều hay từ bạn.
- Tìm hiểu bài:
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài bằng hệ thống câu hỏi ở sách giáo
khoa hoặc gợi ý phù hợp của giáo viên dưới sự điều khiển của Chủ tịch hội đồng tự
quản hay của Trưởng ban học tập hoặc của nhóm trưởng để học sinh thảo luận theo
nhóm (nhóm 2, nhóm 4, nhóm 6...) tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của bài học. Sau đó, đại
diện các nhóm thi trả lời các câu hỏi trước lớp. Cũng có thể mời một học sinh nêu câu
hỏi cho các bạn tiếp nối nhau trả lời. Như vậy, học sinh sẽ được tự mình nghiên cứu,
được phát biểu suy nghĩ của bản thân, được lĩnh hội kiến thức bằng việc chủ động phát
huy tính tích cực của bản thân mình. Trong suốt quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cần tôn
trọng ý kiến của học sinh, động viên, khuyến khích, hỗ trợ, bổ sung cho học sinh, tránh
chê bai hoặc nói “sai” mà phải là “ai bổ sung cho bạn, cô mời ý kiến khác...”.
7


+ Cho học sinh trao đổi, thảo luận nhóm:
. Theo em bạn Tuấn trong câu chuyện là người như thế nào?
Từng thành viên sẽ được nêu ý kiến cá nhân mình, được giao tiếp cùng bạn để đi
đến thống nhất chung.
+ Cho học sinh trao đổi, thảo luận nhóm tiếp theo:
. Nếu em là bạn Tuấn em sẽ làm gì?

. Nội dung bài tập đọc nói lên điều gì?
Nhiều học sinh được nêu suy nghĩ của mình. Giáo viên động viên, khuyến khích,
tôn trọng ý kiến của các em.

Kỹ năng làm việc hợp tác trong giờ học Tiếng Việt
- Áp dụng:
Cho học sinh được nói lên nguyện vọng, suy nghĩ, tình cảm của mình:
+ Học sinh nói về những gì các em học được qua bài học. (Ví dụ: Bài học
khuyên các em cần biết yêu thương, nhường nhịn anh, chị, em trong gia đình).
Giáo viên là người tóm tắt ý kiến, định hướng, giáo dục học sinh bằng các việc
làm cụ thể.
Qua tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kỹ năng làm việc theo nhóm: biết
cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp nhận đúng
sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất... Đây là kỹ năng hết sức cần
thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong tập thể; kỹ năng tự nhận thức: xác định giá
trị bản thân là biết đem lại lợi ích, niềm vui cho người khác thì mình cũng có niềm vui;
làm chủ bản thân: kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân để tránh thái độ ứng xử ích
kỷ; kỹ năng giao tiếp: đọc, viết, biết ứng xử có văn hóa,...
Đối với các môn ngoài Toán, Tiếng Việt, giáo viên càng quan tâm hơn về rèn kỹ
năng. Môn Thủ công, giáo viên cần giáo dục kỹ năng tự phục vụ. Bởi gia đình, các em
thường được cha mẹ, anh chị làm thay hoặc không có thời gian gần gũi để hướng dẫn.
Ví dụ: Dạy bài Thủ công “Đan nong mốt”, “Đan nong đôi” giáo viên giúp học sinh
8


biết cách đan nong mốt, đan nong đôi đúng quy trình kĩ thuật. Biết vận dụng đan nong
mốt, đan nong đôi để làm những đồ dùng trong gia đình như: thúng, rổ,...
Trong các bài Tự nhiên và Xã hội, chúng ta có thể hướng dẫn, tập dần cho các
em các kỹ năng:
+ Kỹ năng tự nhận thức: tự nhìn nhận, đánh giá về bản thân để xác định được

mặt mạnh, mặt yếu của bản thân, biết vị trí của mình trong các mối quan hệ ở nhà, ở
trường và ở cộng đồng.
+ Kỹ năng tự phục vụ và tự bảo vệ: biết cách tự phục vụ: rửa mặt, đánh răng,
tắm; tự bảo vệ chăm sóc sức khỏe của bản thân liên quan đến các vấn đề vệ sinh cá
nhân, vệ sinh môi trường, dinh dưỡng, phòng bệnh và an toàn ở nhà, ở trường, ở nơi
công cộng.
+ Kỹ năng ra quyết định: nên và không nên làm gì để bảo vệ sức khỏe của bản
thân; để ứng xử phù hợp trong gia đình, nhà trường và cộng đồng; để bảo vệ môi
trường.
+ Kỹ năng kiên định và kỹ năng từ chối: kiên quyết giữ vững lập trường và nói
lời từ chối trước những lời rủ rê của bạn bè và người xấu; không tham gia vào những
việc làm, hành vi mang tính tiêu cực.
+ Kỹ năng làm chủ bản thân: biết đảm nhận trách nhiệm, cam kết thực hiện công
việc và biết ứng phó với căng thẳng trong những tình huống của cuộc sống một cách
tích cực.
+ Kỹ năng giao tiếp: tự tin khi giao tiếp; lắng nghe tích cực; phản hồi xây dựng;
bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ bạn bè trong lớp, trường, những người có hoàn
cảnh khó khăn.
+ Kỹ năng hợp tác: khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
cùng chung sức làm việc có hiệu quả với những thành viên khác, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn
nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
+ Kỹ năng tư duy phê phán: biết phê phán, đánh giá các ý kiến, hành động, lời
nói, việc làm, các hiện tượng trong đời sống hàng ngày.
+ Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin: biết tìm kiếm và xử lý thông tin để giải
quyết vấn đề trên cơ sở vận dụng tư duy phê phán và sáng tạo.
Ở môn Đạo đức, giáo viên rất dễ dàng nâng cao kỹ năng giao tiếp - tự nhận thức
như kính yêu Bác Hồ, kính trọng, biết ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô, thương binh - liệt sĩ,
những người lao động... bằng những hành vi, thái độ, việc làm nho nhỏ hằng ngày. Các
em biết quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em; biết giúp đỡ người già, em nhỏ,
bạn bè; biết xác định các giá trị hành vi đạo đức. Tùy từng bài học, chúng ta giáo dục

các kỹ năng sống phù hợp cho các em.
Ví dụ: Bài “Đoàn kết với thiếu nhi quốc tế” (Đạo đức lớp 3 tiết 2 - Bài 9)
- Thực hành:
Hoạt động 1: Giới thiệu những sáng tác hoặc tư liệu đã sưu tầm được về tình
đoàn kết thiếu nhi quốc tế.
* Cách tiến hành:
+ Giáo viên phát giấy Ao và cho các nhóm trình bày tranh, ảnh và các tư liệu đã
sưu tầm được.
+ Đại diện các nhóm lên thuyết minh.
+ Lớp thảo luận, nhận xét, chất vấn, bổ sung.
+ Giáo viên nhận xét, khen ngợi các nhóm học sinh đã sưu tầm được nhiều tư
liệu hoặc đã có những sáng tác tốt về chủ đề bài học hoặc giáo viên có thể giới thiệu
thêm một vài hoạt động khác (nếu cần).
9


Hoạt động này, giúp học sinh rèn luyện kỹ năng hợp tác, kỹ năng trình bày suy
nghĩ về thiếu nhi quốc tế.
- Vận dụng:
Hoạt động 2: Viết thư bày tỏ tình đoàn kết, hữu nghị với thiếu nhi các nước.
* Cách tiến hành:
+ Giáo viên yêu cầu học sinh viết thư theo nhóm.
+ Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh gửi thư cho các bạn thiếu nhi các nước
đang gặp nhiều khó khăn như: đói nghèo, dịch bệnh, chiến tranh, thiên tai,....
+ Nội dung thư sẽ viết những gì?
+ Học sinh các nhóm tiến hành viết thư (một bạn sẽ là thư kí, ghi chép ý của các
bạn đóng góp).
+ Thư kí thông qua nội dung thư và tất cả các bạn trong nhóm kí tên vào thư.
+ Trình bày kết quả.
+ Cả lớp nhận xét, chia sẻ.

+ Giáo viên nhận xét, khen ngợi các nhóm đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.
+ Nhắc nhở học sinh sau giờ học cử người đi ra bưu điện gửi thư.
Qua đây, chúng ta rèn được cho các em kỹ năng hợp tác, kỹ năng đảm nhận trách
nhiệm, kỹ năng ứng xử khi gặp thiếu nhi quốc tế, kỹ năng bình luận các vấn đề liên
quan đến quyền trẻ em.
Trong sinh hoạt hàng ngày, giáo viên cần chú ý nâng dần kỹ năng giao tiếp - tự
nhận thức cho các em sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin phép, cảm ơn, xin lỗi,
yêu cầu,... Biết cả thông cảm chia sẻ buồn vui với mọi người.
c.3.2. Trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp
- Ngoài việc tích hợp giáo dục kỹ năng giao tiếp - ứng xử thông qua việc giảng
dạy các môn học có ưu thế, còn có các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp. Hoạt động này gắn bó chặt chẽ với các hình thức giáo dục qua dạy học giúp học
sinh không những củng cố, mở rộng những tri thức mà còn hình thành được thái độ, tình
cảm, rèn luyện được hành vi, kỹ năng thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp như tìm hiểu, thuyết trình theo chủ đề, xử lý tình huống, các hoạt động tham quan
dã ngoại, xâm nhập thực tế sẽ giúp cho học sinh tiếp cận với thực tế, đi sâu vào một chủ
đề và làm quen với các tình huống thực tiễn trong đời sống.
- Hoạt động ngoài giờ lên lớp là các buổi giao lưu học tập, là các tiết sinh hoạt
Đội (2 tiết/tuần), là các buổi sinh hoạt múa hát tập thể, các hoạt động ngoại khóa...
Thông qua các buổi sinh hoạt này, học sinh được chủ động tham gia các hoạt động mình
yêu thích, được tương tác với bạn bè, được giao lưu với nhiều thành viên khác. Giáo
viên lúc này là người “bạn” lớn hơn, giúp đỡ, khích lệ học sinh thể hiện mình. Vì vậy,
giáo viên có thể linh động tổ chức các hoạt động trên dưới nhiều hình thức khác nhau:
+ Hàng tuần dành thời gian cho tiết hoạt động tập thể (Sinh hoạt) cuối tuần để
tạo kỹ năng giao tiếp tự tin cho học sinh và nắm bắt nguyện vọng, ý kiến của học sinh.
Từ đó, học sinh sẽ được bày tỏ suy nghĩ, ý kiến của mình, đề xuất cá nhân.
+ Đa dạng các hình thức trò chơi (hiện đại và dân gian) trong các tiết hoạt động
tập thể, giao lưu để tạo không khí sôi nổi, hào hứng cho học sinh để mọi học sinh đều
được “chơi”, được tương tác, giúp đỡ nhau, tạo sự tự tin cho học sinh.
Ví dụ: Trò chơi: Mèo bắt chuột, giành cờ chiến thắng, nhảy bao bố, kéo co, đặt

vật vào đúng vị trí... cũng có thể tổ chức cho học sinh “diễn kịch”.
+ Cuối mỗi tháng tổ chức giao lưu học tập và sinh hoạt tập thể liên lớp nhằm tạo
môi trường học hỏi, giao tiếp, tương tác. Phát huy việc “nói”, thể hiện mình của những
học sinh còn rụt rè, thụ động. Học sinh có thể sưu tầm, tìm hiểu những câu chuyện, câu
10


đố, bài thơ hay, đoạn văn hay... làm đề tài để trao đổi, thảo luận, phát biểu ý kiến cá
nhân...
+ Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh văn nghệ (hát đơn ca, tốp ca, múa hát tập
thể, đóng kịch...) để học sinh tập dần sự mạnh dạn, tự tin trước tập thể.
+ Giáo viên cần tổ chức cho học sinh một số hoạt động ngoại khóa như: thăm mẹ
Việt Nam anh hùng; viếng nghĩa trang liệt sĩ; trồng và chăm sóc cây, hoa; lao động công
ích (làm vệ sinh...). Qua đó, cho học sinh phát biểu suy nghĩ của mình về việc đã làm,
viết bài nói về cảm nhận của em.

Học sinh lớp 3A tham gia trò chơi ở Hoạt động ngoài giờ lên lớp
- Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên cần định hướng, khơi gợi,
giúp đỡ, khích lệ tinh thần cho học sinh; uốn nắn dần cho học sinh cách diễn đạt cá
nhân, học tập điều hay từ bạn, rút kinh nghiệm cho bản thân mình.
- Trong việc tiến hành hoạt động ngoài giờ lên lớp, học sinh đóng vai trò trọng
tâm, là chủ thể hoạt động, tự điều hành mọi hoạt động. Giáo viên lúc này là người “bạn”
lớn hơn, giúp đỡ, khích lệ học sinh thể hiện mình hoặc giáo viên chỉ là đại biểu tham
dự.
- Học sinh phải chuẩn bị đầy đủ mọi phương tiện cho hoạt động:
+ Tập dẫn chương trình, biểu diễn văn nghệ, diễn kịch, tập nói, thể hiện điệu bộ.
+ Thi tìm hiểu kiến thức, phát biểu cảm tưởng.
+ Tích cực nghiên cứu, tập trung chú ý để thể hiện mình, tìm ra những hình thức
tổ chức hay và sáng tạo.
+ Nâng cao ý thức phối hợp, thảo luận nhóm.

Ví dụ: Với thời gian khoảng 35 - 40 phút.
Nội dung 1: Tổ chức “Kỉ niệm ngày 20 - 11”.
* Hình thức 1: Dưới sự chỉ đạo của phụ trách Sao.
+ Tìm hiểu kiến thức giữa các nhóm.
+ Phát biểu cảm tưởng về thầy (cô).
+ Tổ chức hoạt cảnh nhỏ về thầy (cô).
11


+ Văn nghệ xen kẽ.
* Hình thức 2: Có thể luân phiên người tổ chức.
+ Chào cờ, hát Quốc ca.
Hoạt động chính:
+ Văn nghệ tập thể.
+ Thi đọc thơ, kể chuyện về thầy cô.
Nội dung 2: Tình nghĩa thầy trò.
* Với hình thức thi “diễn kịch” có chủ đề về tình thầy trò giữa các nhóm với
nhau.
- Hình thức này kích thích óc tưởng tượng, tính sáng tạo cũng như kỹ năng thể
hiện của học sinh. Số lượng học sinh tham gia đông, hầu hết các em thích được thể hiện
mình nên sẽ tự giác, tích cực tham gia.
Ví dụ: Thời gian khoảng 15 phút.
- Tổ chức lồng ghép vào giờ sinh hoạt hoặc 15 phút đầu giờ.
+ Tổ chức trò chơi: Đặt vật thật vào đúng vị trí.
+ Thể lệ chơi: Mỗi cặp 2 bạn, một bạn bịt mắt, một bạn bị buộc hai tay. Hãy đặt
cây bút vào đúng vị trí đã quy định với thời gian là 2 phút.
- Bằng nhiều hình thức hoạt động như vậy, giúp các em củng cố kiến thức, phát
triển tư duy sáng tạo vừa rèn luyện được kỹ năng sống cho học sinh: Kỹ năng làm việc
theo nhóm, cách ứng xử trong giao tiếp và kỹ năng được thể hiện mình.
- Với tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp tuy ngắn nhưng đã đem lại sự hứng thú

cho học sinh, em nào cũng chờ đợi đến giờ sinh hoạt hàng tuần để được tham gia tiếp
các hoạt động, không những thế mà các em đã sưu tầm được mẫu chuyện vui, trò chơi
hay. Đặc biệt giáo dục cho học sinh hiểu: Muốn hoàn thành việc gì đều cần sự đoàn kết,
hợp tác với nhau. Cần có sự khéo léo, tự tin, mạnh dạn thì mới có kết quả.
c.4. Giao tiếp - ứng xử trong gia đình (ông bà, cha mẹ, anh chị em, khách...)
* Đối với người lớn tuổi trong gia đình:
- Mỗi giáo viên phải luôn thường xuyên rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử;
luôn thể hiện là tấm gương sáng, mẫu mực cho học sinh noi theo. Giáo viên luôn đổi
mới phương pháp để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh (Ví dụ: thảo
luận, đóng vai).
- Học sinh ít nhiều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự giao tiếp trong gia đình, chịu
ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa của gia đình. Hiện nay, không ít học sinh được
cưng chiều từ ông bà, cha mẹ đã trở nên “ngang ngược”. Vì thế, giáo viên cần phối hợp
với cha mẹ học sinh, gia đình học sinh để tìm hiểu hoàn cảnh sống, nắm bắt kịp thời đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh để giúp học sinh hiểu được: Giao tiếp trong gia đình là
“Trên kính - dưới nhường”, học sinh cần:
+ Lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ.
+ Vâng lời, giúp đỡ bố mẹ; nhường nhịn em nhỏ.
+ Biết tối thiểu những tình huống trong ứng xử với mọi người trong gia đình,
biết nói lời “cảm ơn”, “xin lỗi”, “vâng, ạ, dạ, thưa”... với cả những người thân thiết
trong gia đình, biết dùng từ ngữ phù hợp, đúng mực, phù hợp với từng hoàn cảnh đồng
thời phải biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến mọi người ngay cả khi bất đồng quan điểm, cả
khi việc không theo ý mình.
* Đối với bản thân học sinh:
Ví dụ: Bài “Quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em” (Đạo đức lớp
3).
- Giáo viên sử dụng các phương pháp:
12



+ Thảo luận.
+ Đóng vai.
+ Kể chuyện.
- Khám phá:
Giáo viên cho cả lớp hát bài: "Cả nhà thương nhau" của nhạc sĩ Phan Văn Minh.
+ Bài hát nói lên điều gì?
+ Gia đình em có mấy người? Đó là những ai?
+ Trong gia đình, em thường được ông bà, bố mẹ yêu thương, quan tâm chăm
sóc như thế nào?
Giáo viên kết luận: Trong gia đình các em đã được nhận rất nhiều sự quan
tâm, chăm sóc của ông bà, cha mẹ. Đó là niềm hạnh phúc không phải ai cũng có được.
* Kết nối: Kể chuyện: Bó hoa đẹp nhất.
- Học sinh biết được bổn phận phải quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị
em trong gia đình.
- Đọc chuyện "Bó hoa đẹp nhất".
- Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm theo câu hỏi:
- Vì sao mẹ Ly nói rằng: “Đây là bó hoa đẹp nhất mà mẹ được tặng”?
- Giáo viên yêu cầu học sinh khác nhận xét, bổ sung ý kiến.
Giáo viên kết luận: Các em sinh ra được ông bà, bố mẹ quan tâm chăm sóc.
Bổn phận của các em là phải vâng lời, quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ. Sự quan
tâm, chăm sóc của các em sẽ đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.
* Thực hành: Thảo luận nhóm.
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ và nêu yêu cầu: Hãy nhớ lại một kỉ
niệm về sự quan tâm, chăm sóc của ông bà, cha mẹ đã dành cho mình và chia sẻ với các
bạn ở nhóm.
- Giáo viên gọi đại diện các nhóm lên kể trước lớp.
- Các em có cảm nghĩ gì về sự quan tâm, chăm sóc mà mọi người trong gia đình
đã dành cho em?
- Em có suy nghĩ gì về các bạn nhỏ bị thiệt thòi, sống thiếu sự quan tâm, chăm
sóc của ông bà, cha mẹ? (trẻ mồ côi, lang thang,…)

Giáo viên kết luận: Mỗi chúng ta đều có một gia đình và được ông bà, cha mẹ,
anh chị em yêu thương, quan tâm, chăm sóc. Đó là hạnh phúc và là quyền mà mọi trẻ
em đều được hưởng. Tuy nhiên, do nhiều lý do, vẫn còn có các bạn nhỏ bị thiệt thòi,
sống thiếu sự quan tâm, chăm sóc của ông bà, cha mẹ. Chúng ta cần cảm thông, chia sẻ
với các bạn đó. Xã hội và mọi người cần có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ các bạn đó cả
về vật chất và tinh thần.
* Xử lý tình huống:
- Giáo viên chia học sinh thành các nhóm, yêu cầu thảo luận, đóng vai để xử lý
các tình huống sau:
a. Lan đang ngồi học trong nhà thì thấy em bé chơi trò chơi nghịch dao ở ngoài
sân. Nếu em là bạn Lan, em sẽ làm gì?
b. Ông của Huy có thói quen đọc báo hàng ngày nhưng mấy hôm nay ông bị đau
mắt không đọc báo được. Nếu em là bạn Huy em sẽ làm gì?
- Giáo viên gọi các nhóm lên đóng vai.
- Yêu cầu học sinh thảo luận về cách ứng xử và cảm xúc của mỗi nhân vật khi
ứng hoặc nhận được cách ứng xử đó.
- Học sinh thảo luận bàn cách xử lý và tập đóng vai.

13


Kỹ năng giải quyết vấn đề
Giáo viên kết luận:
a. Lan cần chạy ra khuyên em không nên chơi gần bờ ao vì sẽ nguy hiểm nếu bị
ngã xuống ao.
b. Huy dành thời gian đọc báo cho ông nghe.
* Bày tỏ ý kiến:
- Giáo viên nêu các ý kiến:
a. Trẻ em có bổn phận phải quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em
trong gia đình.

b. Chỉ có trẻ em mới cần quan tâm chăm sóc.
c. Trẻ em có quyền được ông bà, cha mẹ yêu thương, quan tâm chăm sóc.
d. Chỉ khi nào ông bà, cha mẹ bị ốm mệt mới cần con cháu phải quan tâm, chăm
sóc.
- Học sinh giơ thẻ bày tỏ thái độ với từng ý kiến. Sau mỗi lần giơ thẻ học sinh
cần nêu rõ lý do vì sao tán thành (hoặc không tán thành).
- Giáo viên chốt lại: tán thành ý a, c. Không tán thành ý b, d.
- Giáo viên khen các em có ý kiến đúng.
Qua đó, chúng ta rèn cho học sinh các kỹ năng: kỹ năng giao tiếp: nói lời cám
ơn, xin lỗi, bày tỏ ý kiến, quan điểm, chia sẻ, lắng nghe ý kiến của người thân; kỹ năng
thể hiện sự cảm thông, chia sẻ trước suy nghĩ, cảm xúc của người thân; kỹ năng đảm
nhận trách nhiệm chăm sóc người thân trong những việc vừa sức.

14


Kỹ năng biểu lộ thái độ tình cảm
- Giáo viên cần khuyến khích học sinh biết trao đổi; giáo viên cần lắng nghe,
định hướng để học sinh có cơ hội trải nghiệm mình; hướng dẫn học sinh biết nói những
lời nhận xét, biết đặt mình trong hoàn cảnh của người khác. Việc trao đổi này sẽ cho các
em ý tưởng về quan điểm của người khác. Việc làm này góp phần hình thành thái độ tự
tin, kỹ năng giao tiếp, sự cảm thông, trân trọng giá trị của bản thân cũng như của người
khác.
Ví dụ: Một học sinh không mang đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập khi đến lớp,
giáo viên cần cho học sinh nêu được:
+ Lý do vì sao em không mang đồ dùng đến lớp.
+ Em sẽ làm gì nếu em là giáo viên chủ nhiệm trong hoàn cảnh đó?
+ Nếu em là cha mẹ thì sao?
- Giáo viên cần phối hợp với cha mẹ học sinh, yêu cầu cha mẹ các em tìm hiểu lý
do, khuyến khích rằng con có khả năng làm được việc đó hơn là la mắng, đánh đập. Học

sinh sẽ cảm thấy tự tin hơn khi có cơ hội được trình bày vấn đề của mình.
c.5. Giao tiếp - ứng xử trong những tình huống của cuộc sống thực (ngoài xã
hội)
* Đối với giáo viên và xã hội:
- Cần định hướng cho học sinh: trong giao tiếp hàng ngày ta thường dùng những
nghi thức lời nói, đó là:
+ Lời đề nghị khi yêu cầu, mong muốn được giúp đỡ.
+ Lời từ chối khi không đồng ý, không muốn hoặc không thể thực hiện đúng yêu
cầu của người khác.
15


+ Lời xin lỗi khi làm phiền, khi mắc lỗi, khi không làm đúng, khi từ chối...
- Giáo viên có thể đưa ra những ví dụ hoặc gợi ý để học sinh nêu ví dụ, yêu cầu
học sinh diễn đạt bằng các cách khác nhau để thấy được sự phong phú của Tiếng Việt và
hiệu quả việc dùng từ ngữ phù hợp.
- Để giao tiếp tế nhị, khéo léo; giáo viên cần định hướng cho học sinh biết cách
xác định các nhân tố giao tiếp:
+ Xác định nhân vật giao tiếp.
+ Xác định nội dung giao tiếp.
+ Xác định khả năng của bản thân.
+ Xác định ngữ cảnh.
+ Xác định phương tiện biểu đạt.
+ Có thể đề xuất một số ý kiến để giúp người khác thực hiện yêu cầu của mình.
* Đối với học sinh:
Cần thể hiện những nội dung được học, được giáo dục vào thực tế, các em có khả
năng ứng xử các tình huống khác nhau của cuộc sống.
Ví dụ: Lời đề nghị yêu cầu muốn được giúp đỡ.
- Giáo viên đưa ra tình huống cụ thể: “Nhờ một người cùng trang lứa đóng
giúp cửa sổ khi ngồi trên xe buýt”.

- Học sinh có thể nêu lên một số ý kiến cá nhân:
+ Bạn có thể đóng giúp mình cửa sổ được không?
+ Phiền bạn đóng hộ mình cái cửa sổ!
+ Đóng cửa sổ lại đi!
+ Bạn hãy đóng cái cửa sổ lại nhé!
- Từ đó, học sinh sẽ thấy được tác dụng, hiệu quả của việc dùng lời nói lịch sự, tế
nhị. Qua đó giáo viên định hướng để học sinh dùng ngôn ngữ giao tiếp cho phù hợp.
- Thông qua giao tiếp, học sinh tự chấn chỉnh hành vi của mình cho phù hợp văn
minh, lịch sự hơn, hòa đồng trong mọi trường hợp. Học sinh biết nói lời hay, làm việc
tốt, có thể là những việc nhỏ góp phần thúc đẩy sự phát triển của cá nhân học sinh.
c.6. Giao tiếp - ứng xử tốt thông qua đọc sách, báo
- Bên cạnh việc cung cấp kiến thức cho người đọc thì với những bài báo hay,
những tác phẩm văn học xuất sắc sẽ giúp con người có tâm hồn và vốn từ phong phú
hơn cho nên sách, báo là nguồn tri thức mà chỉ có tri thức mới làm chúng ta có tinh thần
vững mạnh. Nói chung đọc sách, báo giúp chúng ta học tập và làm việc tốt hơn, hiểu
được cuộc sống kinh nghiệm xung quanh nhiều hơn, chúng ta có thể coi sách, báo là
người thầy thứ hai của mình. Do đó sách, báo cung cấp cho chúng ta mọi hiểu biết, một
sức mạnh vô cùng lớn lao để khám phá thế giới. Như nhà văn M.Go-rơ-ki đã từng nói
“Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống”.Cho
nên sách, báo rất cần thiết cho bạn đọc và có vị trí quan trọng trong giáo dục mà đặc
biệt là giáo dục kỹ năng giao tiếp - ứng xử.
- Sách, báo quan trọng với chúng ta là thế, nhưng không phải ai cũng biết. Có
một thực tế hiện nay một bộ phận không nhỏ chúng ta chưa ý thức được tầm quan trọng
của việc đọc sách cho nên ít đọc và ngại đọc. Đọc sách, báo không những là để giải trí
mà giúp cho các em mở rộng vốn từ và nâng cao kiến thức cho bản thân, cải thiện tình
hình học tập, lối sống và khả năng giao tiếp - ứng xử. Như vậy có thể nói việc đọc sách,
báo là một biện pháp hữu hiệu để nuôi dưỡng trí tuệ và tâm hồn cho chính bản thân của
các em và hướng cho các em đến cái “Thiện”.Qua sách, báo các em có thể học tập được
nhiều điều bổ ích, học tập ở nơi đó những điều hay lẽ phải để tự “Soi” lại bản thân mình
từ đó khắc phục từng bước hoàn thiện nhân cách của chính mình mà quan trọng chính là

16


khả năng giao tiếp - ứng xử linh hoạt, đúng mực với các bạn, với thầy cô,... Cho nên khi
sử dụng biện pháp này cần chú ý:
+ Sách phải được sự cho phép lưu hành nội bộ của ngành Văn hóa thông tin.
+ Nội dung sách, báo phải phù hợp với lứa tuổi, gần gũi với cuộc sống, gần gũi
với thiên nhiên.
+ Nội dung cô động, xúc tích, dễ hiểu.
- Ở lớp học thầy - trò chúng tôi có trang trí góc thư viện xanh với những quyển
sách chứa đựng nhiều hình thức giáo dục đạo đức và vốn tri thức cao tạo điều kiện cho
các em ham đọc sách, mở rộng hiểu biết, phát triển khả năng đọc cho các em. Từ đó
giúp các em giao tiếp - ứng xử tốt, rèn kỹ năng cho học sinh có trách nhiệm bảo quản tài
sản chung, gọn gàng, ngăn nắp.

Học sinh tham gia đọc sách, báo vào giờ ra chơi
c.7. Phối hợp với Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
- Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là một tổ chức của lứa tuổi thiếu niên,
nhi đồng có vai trò rất lớn trong việc tập hợp, tổ chức sinh hoạt, giáo dục thiếu niên nhi
đồng theo những chương trình nội dung bổ ích, góp phần hình thành và phát triển phẩm
chất, lý tưởng... cho học sinh.
- Trong hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp - ứng xử, nhà trường và giáo viên
cần phát huy vai trò tổ chức Đội của nhà trường trong rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng
xử cho học sinh tiểu học thông qua các phong trào, các hoạt động theo chủ đề, chủ điểm
của Đội.
- Hằng năm, để tạo cho các em có nhiều hoạt động ý nghĩa, Liên đội của trường
đã tổ chức nhiều chương trình như: văn nghệ, các trò chơi dân gian, tổ chức các cuộc
thi, tuyên truyền về an toàn giao thông,... Qua các hoạt động đó các em có thêm cơ hội
được giao lưu, tìm hiểu, học cách làm việc nhóm, mở rộng vốn sống thực tế, tăng khả
năng thuyết trình trước đám đông. Từ đó sẽ giúp các em tự tin, có khả năng giải quyết

các vấn đề nảy sinh và đặc biệt là tạo được sự linh hoạt trong giao tiếp.
c.8. Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa giáo viên với cha mẹ học sinh
17


- Đây là mối quan hệ mật thiết, có liên quan chặt chẽ với nhau và không thể thiếu
được trong giáo dục, rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh. Nhiệm vụ này
không chỉ có trách của nhiệm giáo viên chủ nhiệm mà còn là trách nhiệm cha mẹ, cộng
đồng xã hội đối với thế hệ trẻ. Bởi lẻ, các em chỉ tham gia học tập, vui chơi ở trường
thời gian ngắn, thời gian còn lại sinh hoạt ở gia đình từ ăn uống, nghỉ ngơi, học hành,
vui chơi, tiếp xúc với môi trường xung quanh,... đều ảnh hưởng tác động của gia đình.
Từ đó, cho thấy những kỹ năng giao tiếp - ứng xử cũng được hình thành rất nhiều từ
yếu tố gia đình. Mặt khác, những kỹ năng giao tiếp - ứng xử được tiếp thu, hình thành
từ hoạt động giáo dục tại nhà trường sẽ được củng cố, vận dụng khá lớn trong môi
trường gia đình. Cha mẹ giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động gia đình. Trong hoạt động
giáo dục, cha mẹ được ví như cô giáo và cô giáo được ví như mẹ hiền. Xuất phát từ đó,
nhà trường, giáo viên cần có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình, phát huy vai trò của cha
mẹ học sinh trong quá trình rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh ở phạm
vi ngoài nhà trường, nhằm giáo dục người học ở mọi nơi, mọi chỗ.
- Gia đình là một bộ phận mật thiết của giáo dục, có ảnh hưởng rất lớn đối với
việc hình thành nhân cách và giáo dục kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh. Sinh
hoạt, nếp sống của mỗi thành viên trong gia đình có ảnh hưởng nhất định tới định
hướng phát triển của học sinh. Chính vì vậy, giữa nhà trường và gia đình cần phối hợp
chặt chẽ, thống nhất nội dung, yêu cầu, biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp - ứng xử
cho học sinh. Đặc biệt, tạo các điều kiện giáo dục cần thiết quan tâm đến nội dung giáo
dục với nhà trường, đó là:
+ Dành thời gian để đôn đốc - kiểm tra - theo dõi sự biến đổi trong giao tiếp, cách
cư xử, hành vi, thái độ,... của con em mình.
+ Định hướng và giáo dục những giá trị giao tiếp phù hợp, chuẩn mực đạo đức của
các em.

+ Cha mẹ và các thành viên trong gia đình luôn làm gương cho con em trong các
hoạt động, trong cuộc sống. Thực hiện những chuẩn mực đạo đức và cách ứng xử có
văn hóa.
+ Khuyến khích những thái độ, hành vi tốt trong giao tiếp - ứng xử của các em.
+ Thiết lập cách giao tiếp trong gia đình phù hợp chuẩn mực đạo đức.
+ Thường xuyên có sự phản ánh, liên hệ với nhà trường để tham gia vào quá trình
giáo dục các em.
IV. Hiệu quả đạt được:
1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng đề tài sáng kiến
* Trước khi áp dụng đề tài sáng kiến:
- Trong các tiết học còn thụ động chưa tích cực phát biểu, thiếu tính sáng tạo…
- Mối quan hệ thầy - trò, trò - trò chưa thật sự gần gũi, dân chủ.
- Phát huy hiệu quả trong đổi mới phương pháp dạy và phương pháp học còn nhiều
hạn chế do các em còn xa lạ, bỡ ngỡ, kỹ năng luyện tập, thực hành còn lúng túng. Thiếu
các hoạt động tập thể cho các em tham gia để giáo dục kỹ năng sống cần thiết phục vụ
cho chính bản thân học sinh trong mọi sinh hoạt, đời sống.
- Công tác giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử để tư tưởng, tình cảm của các
em đối với quê hương, đất nước được khắc sâu hơn chỉ còn trong sách vở, giờ lên lớp,
không tổ chức các hoạt động tham quan về nguồn, tham gia thực tế để các em trải
nghiệm và khẳng định mình.
- Một số học sinh chưa có thói quen tốt trong việc chào hỏi khách lạ đến trường.
- Tham gia các họat động chưa đều, thiếu tích cực khi thực hiện các nhiệm vụ được
giao.
18


- Xử lý tình huống, vận dụng thực hành các nội dung học tập có liên quan đến
nhiệm vụ các em còn bỡ ngỡ, lúng túng.
* Sau khi áp dụng đề tài sáng kiến:
Trong quá trình thực hiện các biện pháp giúp các em thực hiện tốt nhiệm vụ ở lớp

tôi đạt nhiều kết quả tốt. Đặc biệt là công tác giáo dục kĩ năng giao tiếp - ứng xử cho
học sinh. Cụ thể như sau:
- Học sinh tự tin về khả năng giao tiếp của mình, hiểu được các quy tắc giao tiếp
chung như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, nói lời yêu cầu đề nghị, biết cách xử lý phù hợp,
bày tỏ suy nghĩ của mình, bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ,... với một số người gần
gũi các em như: thầy cô giáo, bạn bè, người thân trong gia đình,... Biết lắng nghe, tôn
trọng những ý kiến đóng góp của bạn bè, người thân và có hành vi tự uốn nắn kịp thời,
tích cực.
- Trong học tập các em tham gia xây dựng bài sôi nổi, biết bày tỏ quan điểm của
mình, biết giúp bạn sửa chữa khuyết điểm để cùng tiến bộ, thành lập nhóm bạn gần nhà
cùng học tập, học sinh hoàn thành tốt giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành, tham gia hoạt
động nhóm mạnh dạn và luân phiên cử nhóm trưởng, thư kí để hoạt động.
- Hoạt động ngoại khóa: các em biết phát biểu ý kiến của mình, biết tham gia thảo
luận, mạnh dạn vui chơi, ra câu đố...; biết múa hát tập thể các bài theo quy định; biết
chơi các trò chơi truyền thống (nhảy bao, kéo co, nhảy dây, đổ nước vào chai,...).
- Nhiều em tích cực tham gia các phong trào chung của Đoàn - Đội như: múa hát
văn nghệ, tham gia chương trình phát thanh măng non...
- Tham gia đầy đủ các phong trào, hội thi do nhà trường tổ chức.
- Trong các tiết học đạo đức các em chủ động tiếp thu kiến thức mới, xử lý các
tình huống đạo đức có liên quan tốt.
- Học sinh hiểu biết một cách vững chắc về những chuẩn mực đạo đức, hành vi
đạo đức để có những thói quen tốt về đạo đức trong mọi quan hệ và mọi tình huống.
- Các em biết hoà mình vào tập thể lớp, trường. Có trách nhiệm với tập thể bằng
những hành động của mình.
- Qua quá trình được uốn nắn, giáo dục, động viên, các em đã có ý thức tự giác
hơn. Có tinh thần tự giác trong học tập, xây dựng được thái độ học tập đúng đắn.
- Những biểu hiện tích cực như: quan tâm giúp đỡ bạn; giao tiếp - ứng xử lịch sự,
văn hóa; những việc làm tốt được thể hiện nhiều hơn đối với các em.
- Có ý thức tự quản tốt, tình trạng gây gỗ đánh nhau không còn diễn ra trong lớp.
- Có ý thức bảo vệ của công, xây dựng môi trường xanh-sạch-đẹp, góp phần xây

dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.

19


Học sinh lớp 3A lao động, vệ sinh và chăm sóc bồn hoa
- Đối với lớp tôi chủ nhiệm trong các năm học qua thu được kết quả như sau:

Năm học

2015-2016
2016-2017
2017-2018
đến cuối HKI

Tổng
số
học
sinh
30
32
30

Số HS
giao tiếp tốt

Số HS chưa có
kỹ năng giao tiếp,
chưa mạnh dạn, tự tin


Số
lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

8
14
16

26,67%
43,75%
53,33%

15
13
11

50%
40,62%
36,67

Số HS chưa có
kỹ năng diễn
đạt, thể hiện
Số
lượn

Tỉ lệ
g
7
23,33%
5
15,62%
3
10%

20


- Tăng so với cùng kỳ năm học trước.
- Thực tế khẳng định: Khi nhiệm vụ được thực hiện tốt, tất cả học sinh đều có kỹ
năng giao tiếp ứng xử đúng đắn, chuẩn mực sẽ góp phần cải thiện chất lượng học tập và
các em đạt kết quả tốt trong các phong trào thi đua.
- Đặc biệt hơn đầu năm học này lớp tôi có em Nguyễn Thanh Phong và em
Trương Thị Mỹ Ngân từ một học sinh hết sức nhút nhát, rụt rè, vào đầu năm khi tôi gọi
hai em này lên bảng, hai em không thể tự giới thiệu bất cứ một điều gì về bản thân và
gia đình của mình. Nhờ áp dụng tốt các biện pháp nêu trên và có sự động viên tốt, quan
tâm, theo dõi chặt chẽ của giáo viên chủ nhiệm cùng với Ban giám hiệu, thầy cô bộ
môn, Đoàn-Đội và sự phối hợp của cha mẹ học sinh đến nay hai em đã có nhiều chuyển
biến tích cực hiện tại hai em đã tự tin hơn khi giao tiếp với thầy cô. Tuy nhiên, sự linh
hoạt, sức biểu lộ tình cảm, cảm xúc của em vẫn chưa bằng các bạn.
2. Lợi ích thu được khi đề tài sáng kiến áp dụng
- Đối với học sinh:
Góp phần nâng cao chất lượng học tập và khả năng giao tiếp -ứng xử, trả lời câu
hỏi của người lớn, thầy cô... (trình bày câu trả lời).
Trong học tập các em sẽ mạnh dạn phát biểu bày tỏ quan điểm của mình, biết
giúp bạn sửa chữa khuyết điểm. Giúp các em tự tin hơn trong cuộc sống. Học sinh tự có

thể chiếm lĩnh được tri thức mới bằng cách thông qua các hoạt động: kể chuyện, quan
sát tranh, xử lý tình huống, đóng vai,...
Giúp các em biết giao tiếp - ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với người
thân trong gia đình, với thầy cô bạn bè, với những người xung quanh, với cộng đồng,
quê hương đất nước.
- Đối với bản thân:
Việc xác định không chỉ dạy văn hóa mà còn dạy cho các em về cách làm người
là một vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng. Để đáp ứng được mục tiêu giáo dục và
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, đó là “Nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho xã hội.
Giúp cho giáo viên có nhận thức đầy đủ hơn về công tác giáo dục kỹ năng giao
tiếp - ứng xử cho học sinh hiện nay trong trường tiểu học. Vận dụng các biện pháp giáo

21


dục phù hợp với từng đối tượng cụ thể; tính linh hoạt, sáng tạo để làm chuyển biến tình
hình thực hiện nhiệm vụ học sinh của lớp mình.
Đánh giá đúng đắn thực trạng, phân tích sâu sắc các nguyên nhân hạn chế, lường
trước những tác hại sẽ xảy ra có tác động không tốt đến chất lượng giảng dạy, giáo dục
của lớp, những ảnh hưởng tiêu cực đến nhiệm vụ chung của toàn trường.
Mỗi thầy, cô giáo xem đây là vấn đề bức xúc, cần quan tâm đúng mức và luôn có
giải pháp hiệu quả thường xuyên, liên tục, góp phần phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống, hình thành nhân cách, hành vi thói quen tốt cho học sinh, tạo mọi điều kiện để
các em phát triển toàn diện trong môi trường an toàn, thân thiện, chính các em cảm nhận
được tình yêu thương, sự quan tâm, chia sẻ của mọi người đối với bản thân và phải làm
gì để xứng đáng hơn, phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi.
- Đối với tổ chuyên môn:
Việc giáo dục các em kỹ năng giao tiếp - ứng xử sẽ góp phần tạo ra những con
người có nhân cách, phẩm chất đạo đức tốt và góp phần nâng cao các hoạt động giáo

dục các môn văn hóa, huy động tối đa học sinh vào các hoạt động tập thể của trường,
của lớp.
Tạo môi trường thuận lợi cho việc giảng dạy sẽ dễ dàng hơn, nâng cao được chất
lượng kỹ năng giao tiếp - ứng xử học sinh làm cho quá trình hình thành nhân cách tốt
hơn.
- Đối với Đoàn - Đội, cha mẹ học sinh và cộng đồng: có sự phối hợp với giáo
viên dạy lớp, chọn lọc những hình thức giáo dục phù hợp, hiệu quả cùng chung tay hình
thành nhân cách thế hệ trẻ. Hy vọng rằng với những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn sẽ
góp phần đáng kể vào việc ngăn chặn tình trạng suy thoái đạo đức học đường, xây dựng
thế hệ học sinh năng động, thân thiện, phát triển toàn diện.
- Đối với đơn vị, ngành: Sẽ bớt đi gánh nặng, từ đó sẽ không có những thói quen
chưa tốt của các em gây ra. Phối hợp giáo dục của trường đạt hiệu quả cao hơn.
Thực hiện tốt kỹ năng giao tiếp - ứng xử và các văn bản chỉ đạo của Bộ làm nền
tảng trong lãnh, chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường, ngành
giáo dục góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.
V. Mức độ ảnh hưởng:
1. Khả năng áp dụng giải pháp
Những biện pháp bản thân đã thực hiện trong việc giúp cho học sinh của lớp rèn
luyện tốt kỹ năng giao tiếp - ứng xử có thể áp dụng cho các lớp tiểu học của đơn vị và
các lớp tiểu học trên toàn tỉnh và cả nước trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học
các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp của Đoàn, Đội. Vận dụng trong công tác
phối hợp giữa giáo viên với gia đình học sinh, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường,
mục đích là để góp phần giáo dục cho học sinh hoàn thành nhiệm vụ đạt kết quả như
mong muốn.
2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp đó
- Giáo viên phải gương mẫu, chuẩn mực, bình tĩnh xử lý trong các tình huống.
Luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
- Thường xuyên kết hợp chặt chẽ với tổ chức Đoàn - Đội, các giáo viên bộ môn,
giáo viên trong trường, cha mẹ học sinh của lớp để tạo môi trường học tập rộng lớn cho
các em. Từ đó, các em có thể tự tin trong giao tiếp - ứng xử, sống hòa đồng cùng tập

thể, sẵn sàng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, tự tin trình bày suy nghĩ, mong muốn của
mình trước đám đông.
- Theo dõi những biểu hiện, thái độ của các em để động viên khen thưởng, củng
cố lòng tin tạo điều kiện cho sự phát triển nhân cách.
22


- Nêu gương người tốt việc tốt gần gũi với các em để học tập tiến bộ.
- Giáo viên phải biết tổ chức, xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, luôn quan
tâm chia sẻ, giúp đỡ bạn bè khi có khó khăn.
- Trong đầu năm học, giáo viên phải xây dựng được kế hoạch năm học có biện
pháp giáo dục cụ thể trong từng đối tượng học sinh (nhất là đối với học sinh cá biệt).
- Đối với Đoàn - Đội hàng tuần, tiết chào cờ cho học sinh kể chuyện về “Tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, từ đó cho học sinh liên hệ bản thân đã làm và chưa làm
được gì, để từ đó động viên, khuyến khích các em học tập và làm theo.
- Đối với Thư viện tổ chức tốt ngày hội đọc sách nhằm nâng cao kiến thức, phát
triển tư duy, rèn luyện nhân cách con người giúp các em học sinh được tiếp cận với
nhiều loại sách báo từ đó các em tìm được niềm vui trong đọc sách mà hình thành thói
quen đọc sách bổ ích để mở rộng kiến thức, nuôi dưỡng tâm hồn, rèn luyện năng lực
ngôn ngữ và giao tiếp - ứng xử đúng mực.Giáo dục các em đọc và làm theo sách, nâng
cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
VI. Kết luận
- Việc rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho các em lớp 3 nói riêng và học sinh bậc
tiểu học nói chung là một quá trình lâu dài, chắt lọc qua từng hành vi giao tiếp; không
phải qua một việc làm, một môn học mà bao trùm toàn bộ các hoạt động của học sinh.
Đòi hỏi người giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, tìm hiểu nắm bắt
đặc điểm tâm lý của học sinh. Giáo viên phải là người có lòng tự tin, trí sáng tạo, vốn
sống, sự tích hợp trong các môn học và hoạt động giáo dục, năng lực chuyên môn;
không phải ngày một - ngày hai làm được mà phải là quá trình: Nhận thức - Hình
thành thái độ - Thay đổi hành vi và học sinh phải được trải nghiệm, tích hợp dần qua

các tình huống thực tế trong môi trường giáo dục Nhà trường - Gia đình - Xã hội. Tùy
từng đối tượng học sinh mà áp dụng cho phù hợp với tình hình thực tế của lớp mình và
đối tượng học sinh. Thông qua giao tiếp, học sinh tự điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp, văn minh, lịch sự hơn; mạnh dạn, tự tin, hòa đồng trong mọi trường hợp. Học
sinh biết nói nhiều lời hay - làm nhiều việc tốt, có thể là từ những việc nhỏ nhất, góp
phần thúc đẩy sự phát triển nhân cách của mình.
- Gắn nhà trường với đời sống cộng đồng, góp phần xây dựng các chuẩn mực
văn hóa vì các em đều tham gia các hoạt động ngoài nhà trường trong hiện tại và tương
lai.
Tôi xin cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.

Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến

Người viết sáng kiến

Lê Thị Việt Chương

23



×