Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Phân tích đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.67 KB, 6 trang )

Đề 1: Phân tích đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”
Đặng Trần Công là một nhà thơ lớn trong nền văn học trung đại của Việt Nam.Ông
sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ thứ XVIII khi mà chế độ phong kiến Việt Nam gặp
khủng hoảng, trong nước xảy ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Chính vì thế mà trong
thời gian đó, ông đã viết tác phẩm chữ Hán “Chinh phụ ngâm” nhằm thể hiện sự đồng
cảm của mình trước nỗi đau của những người phụ nữ có chồng ra trận. Đến với tác phẩm,
để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc là đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ”.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” do Đoàn Thị Điểm dịch sang
chữ Nôm. Bà cũng là người có chồng đi sứ. Có lẽ vì thế mà trong khoảng thời gian ấy bà
đã dịch tác phẩm sang chữ Nôm. Đoạn trích đã thể hiện thành công tình cảnh và tâm
trạng của người chinh phụ phải sống trong cô đơn, buồn khổ suốt khoảnh thời chồng ra
trận.
Tám câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện nỗi cô đơn , lẻ loi của người chinh phụ.
Trước hết tác giả đã khắc họa hành động của người chinh phụ qua hai câu thơ:
“ Dạo hiên vắng thầm reo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Đầu tiên nhà thơ đã miêu tả không gian qua các hình ảnh “ hiên vắng”; “ rèm thưa” để
thấy được không gian trống trải, lạnh lẽo. Chỉ thế thôi, ta cũng cảm nhận được tâm trạng
ngổn ngang, bế tắc, quẩn quanh của người chinh phụ. Sau khi miêu tả không gian, tác giả
dần đi sâu vào hành động của người chinh phụ. Cả ngày dài cô đơn, đêm đến người chinh
phụ “dạo trong hiên vắng”.Nàng vừa đi vừa thầm đến bước chân của mình như đếm từng
ngày chồng vắng mặt. Những bước chân tưởng như lặng lẽ của nàng nhưng lại mang đầy
tâm sự, u phiền, lo lắng cho người chồng nơi chiến trận. Nỗi cô đơn chưa dừng lại ở đó,
nàng ngồi bên cửa sổ hết buông rèm rồi lại cuốn rèm. Hành động vô thức ấy lặp đi lặp lại
nhiều lần mà nàng chẳng quan tâm mình đang làm gì bởi tình cảm , tâm tư của nàng đã
gửi hết vào nỗi lo, nỗi nhớ cho người chồng nơi biên ải xa xôi. Hai câu thơ đầu của đoạn
trích như đã thể hiện tâm trạng lo lắng, buồn phiền, ngổn ngang của người chinh phụ qua
đó thấy được tấm lòng sâu sắc của nàng dành cho chồng.
Sau khi khắc họa hành động của người chinh phụ, tác giả đi miêu tả ngoại cảnh để một
lần nữa làm rõ tâm trạng của người chinh phụ:


“Ngoài rèm thước chẳng mách tin


Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng lên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Qua bức rèm thưa người chinh phụ ngóng trông chim thước – loài chim báo tin người đi
xa trở về. Nàng mong chim thước như mong ngóng chồng mình quay trở về.Thật buồn
thay cho người phụ nữ như nàng, người chồng ra đi để lại trên đôi vai nhỏ bé của nàng
bao bộn bề của cuộc sống, bao sự nhớ mong, lo lắng. Người chinh phụ nhìn vào hiện thực
nỗi nhớ, trông mong ước muốn của nàng đều không có hồi âm, không một tin tức nào về
người chồng. Câu hỏi tu từ “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng” như một lời than
thở bài tỏ nỗi cô đơn, chán trường của nàng. Hình ảnh “ngọn đèn” là hình ảnh thường gặp
trong thơ văn. Trong tác phẩm của mình, Đặng Trần Côn cũng đã mượn hình ảnh ngọn
đèn để thấy được thời gian trôi qua rất nhanh, nó cũng là sự tàn lụi, héo hon của con
người. Qua hình ảnh ngọn đèn cháy đỏ rực đến tàn bấc dầu nhà thơ như muốn nói cuộc
đời con người như một bông hoa mong manh, dang dở. Người chinh phụ cũng như một
bông hoa trong số ấy, nàng ngồi bên ngọn đèn như thầm tâm sự với nó nhưng than ôi ,
một cây đèn vô tri thì làm sao mà thấu được tâm trạng của nàng. Thời gian trôi qua, ngọn
đèn cũng chẳng thể nào thức mãi được với nàng. Trong đêm tối chỉ còn một mình nàng
cô đơn, lạnh lẽo. Bằng các tính từ “ bi thiết”, “ thương”, “buồn rầu” như cô đọng nỗi
buồn não nề của người chinh phụ. “Bi thiết” là sự bi thương, thảm thiết, đau đớn đến
không nói thành lời.Những cảm xúc ấy như bị vo tròn lại nén chặt vào cõi lòng của của
người chinh phụ. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình nhà thơ đã thành công khi diễn tả hình
ảnh người chinh phụ với những suy tư bối rối, tâm trạng héo mòn. Qua đó cũng thể hiện
sự đồng cảm của tác giả với số phận của người chinh phụ của chồng ra trận.
Tám câu thơ tiếp theo của đoạn trích, Đặng Trần Côn đã diễn tả nỗi sầu muộn
triền miền của người chinh phụ.

Trước hết, nhà thơ đã miêu tả cảnh đêm với những âm thanh, hình ảnh mang đậm nỗi
buồn:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”


Trong đêm vắng có tiếng gà “eo óc” mang âm hưởng tang tóc, thưa thớt dần như gợi ra
không gian trống vắng, quạnh hiu mà người chinh phụ đang phải đối mặt. Một đêm có
năm canh thì người chinh phụ thức trắng cả 5 canh , đối diện với chính mình trong nỗi cô
đơn, khắc khoải. Nghe tiếng gà nỗi sầu càng thêm nặng trĩu. Bức tranh tác giả đang miêu
tả như có cả động và tĩnh để khắc họa tình cảnh lẻ loi của người vợ có chồng ra trận.
Trong đêm vắng bóng cây hòe “phất phơ rủ bóng” gợi lên nỗi man mác buồn. Vây quanh
người chinh phụ là những hình ảnh mờ nhật như có như không cũng như là tin tức về
người chồng nơi chiến trận càng làm cho người chinh phụ lo lắng. Cây hòe trong “Cảnh
ngày hè” của Nguyễn Trãi là cây hòe xanh tươi , căng tràn sức sống. Còn cây hòe trong
đoạn trích lại là 1 cây hòe u sầu được đặt trong sự cô đơn , quạnh hiu của người chinh
phụ càng làm nó trở lên ủ rũ. Qua những âm thanh, hình ảnh ấy ta thấy người chinh phụ
ngóng trông chồng, nàng thức trắng đêm vùi mình vào sự cô đơn giữa không gian rộng
lớn. Có thể nói người chinh phụ đang tủi thân, chán trường.
Trong đêm vắng người chinh phụ càng thấm thía thân phận, bi kịch của cuộc đời mình:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu đằng đẵng như miền biển xa”
Người chinh phụ bị bủa vây trong sự cô đơn khiến cho cuộc sống của nàng ngày càng tẻ
nhạt ,chán trường. Nàng suốt ngày chỉ lo lắng, nhớ nhung chồng. Những ngày tháng
không cảm nhận được tình yêu, không cảm nhận được sự ấm áp của hạnh phúc đối với
nàng thật buồn tẻ. Có lẽ chính điều đó khiến cho nàng cảm thấy một giờ đối với nàng như
một năm dài dằng dặc.Những ngày dài cô đơn đong đầy sầu khổ của người chinh phụ bao
trùm lên bởi những nỗi lo lắng xem chồng ngoài biên ải có bình yên và khỏe mạnh và
cũng chính những ngày “đằng đẵng” ấy khiến cho nàng xót xa cho thân phận của
mình.Nỗi buồn nhớ của nàng tích tụ lại mênh mông hơn không gian và bao la hơn thời

gian không thể nào đong đếm được. Hình ảnh ước lệ “miền biển xa” như thể hiện tâm tư
vô hình mà vô hạn của người chinh phụ.Chỉ thế thôi ta cũng thấy được tâm trạng của
người chinh phụ càng được tô đậm.
Sau nhiều ngày dài lo lắng và buồn nhớ, người chinh phụ đã:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”


Hình ảnh “hương gượng đốt” như thấy được người chinh phụ muốn thoát khỏi nỗi buồn
nên nàng đã đốt hương để tìm thấy sự thanh thản. Thế nhưng mùi hương ấy đã đưa người
chinh phụ tìm đến những kỉ niệm đẹp đẽ ngày xưa. Tâm hồn nàng lạc vào những kí ức
hạnh phúc bên chồng khi xưa. Nàng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp bao nhiêu thì càng
xót xa cho bi kịch của chính mình bất nhiêu. Việc đốt hương không khiến nàng nguôi
ngoai ngược lại càng làm nàng thêm thấu khổ.Từ ngày chồng đi đánh giặc, người chinh
phụ không thèm đoái hoài đến son phấn hoa lệ.Thế nhưng đêm nay nàng lại ngồi soi
gương.Nhìn mình trong gương nàng thấy đôi mắt mình chưa chan sầu bi, đôi môi không
thể gượng cười.Khoảng thời gian trông mong chồng và nỗi đau âm ỉ trong lòng nàng đã
khiến cho dung nhan của nàng héo mòn trong khi nàng lại ở độ tuổi xuân sắc. Nàng khóc
cho tuổi xuân héo tàn của mình, cho dung nhan tàn phai cho số phận bi đát.Nhưng những
giọt nước mắt ý không làm nàng nguôi ngoai , không giúp nàng lấy lại tuổi xuân, dung
nhan, tình yêu. Việc đốt hương, soi gương không làm nàng thanh thản vì thế nàng mới
nghĩ đến việc đánh đàn. Nàng hi vọng tiếng đàn du dương sẽ làm nàng ổn hơn nhưng
than ôi nàng lại sợ dây đàn đứt. Với hình ảnh “ sắt cầm” gợi lên tình cảm vợ chồng thắm
thiết đi kèm với “dây uyên” biểu tượng cho lứa đôi gắn bó cùng với “phím loan” biểu
tượng cho tình yêu hạnh phúc. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ để thấy được nỗi
lo khôn nguôi của người chinh phụ dành cho chồng đang cách xa vạn dặm. Điệp từ
“gượng” gợi lên sự gượng gạo, cố gắng, chán nản của người chinh phụ , nàng vùng vẫy
trong sự cô đơn nhưng lại bị chính cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc

không làm cho người chinh phụ hết buồn mà lại khiến cho nàng u sầu, đau khổ. Nàng chỉ
mong một ngày nào đó được hạnh phúc bên chồng nhưng có lẽ trong hoàn cảnh này ước
mơ của nàng quá đỗi xa xỉ. Bốn câu cuối của đoạn nhưng đã thấy được sự cố gắng thoát
khỏi nổi buồn của người chinh phụ.
Tám câu cuối của đoạn trích đã một lần nữa khiến cho người đọc vô cùng xúc
động với nỗi nhớ thương đau đáu của người chinh phụ.
Hai câu thơ :
“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi tới Non Yên”
Người chinh phụ không chỉ muốn có người thấu hiểu, chia sẻ, yêu thương mà nàng còn
muốn bày tỏ tấm lòng của mình với người chồng đang ở nơi chiến trường ác liệt. Cụm từ
“lòng này” như thể hiện tấm lòng thủy chung chờ đợi của nàng.Với phép ẩn dụ “ nghìn
vàng” như thấy được ngóng trông chồng của người chinh phụ.Có lẽ tấm lòng của người
chinh phụ không thể đem ra đong đếm nên tác giả mới ước lệ những tình cảm cao quý ấy


như nghìn vàng.Người chinh phụ gom hết nõi nhớ, tình yêu của mình đem đến với gió
đông , nàng như đang nhờ cơn gió ấm áp ấy gửi nỗi lòng của mình đến với chồng.Điển
tích điển cố “Non Yên” là hình ảnh ước lệ nơi biên ải xa xôi, nơi chiến trận ác liệt , nơi
mà sinh mạng con người chỉ như cây cỏ có thể biến mất bất kì lúc nào.Câu hỏi tu từ như
thể hiện sự băn khoăn của người chinh phụ .Nàng thực sự không biết non yên ra sao ,
không biết gió đông thế nào. Nàng ao ước tấm lòng của mình sẽ được chồng biết nhưng
ao ước cũng chỉ là ao ước nàng chỉ biết ngậm ngùi cho thân phận của mình.Chưa dừng lại
ở đó , nỗi nhớ của người chinh phụ còn được thể hiện qua:
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Non Yên một lần nữa được lặp lại để thấy được khoảng cách giữa 2 vợ chồng người
chinh phụ. Nỗi nhớ của người chinh phụ được gửi vào không gian rộng lớn, vô tận càng

khiến cho nàng thêm trăn trở.Hình ảnh so sánh “ đường lên bằng trời” kết hợp với từ láy
gợi hình “ thăm thẳm” gợi cho người đọc hình dung ra độ sâu , xa, rộng của nỗi nhớ. Nỗi
nhớ chồng của nàng được cụ thể hóa bằng sự bao la của vũ trụ. Tin cảm ấy dai dẳng ngập
tràn trong không gian.Hình ảnh đường lên trời xa vời thăm thẳm như đang nói chính thực
tại của người chinh phụ : nàng không biết những ngày xa chồng , những ngày cô đơn sẽ
kéo dài đến bao giờ cũng như nàng không biết tận cùng của bầu trời kia còn bao la đến
đâu.Từ láy “ đau đáu” như chính là nỗi nhớ triền miên của người chinh phụ cũng có cả
nỗi lo liệu rằng chồng mình nơi biên ải xa xôi có bình an hay không ? Chỉ thế thôi , nhà
thơ đã cho chúng ta thấy nỗi nhớ chồng tha thiết của người chinh phụ.

Sau khi khắc họa nỗi nhớ chồng của người chinh phụ, Đặng Trần Côn đã khắc sâu
tâm trạng sầu khổ của người chinh phụ qua 2 câu thơ cuối :
“ Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mua phun”
Từ láy “thiết tha” cho thấy nỗi buồn dai dẳng vây quanh người chinh phụ, chúng
như cứ vào da thịt của nàng.Thật đáng thương cho một người phụ nữ như nàng.
Nỗi đau ấy của người chinh phụ khiến cho “cành cây”; “sương” – những hình ảnh


đẹp đều thấm được nỗi bi đát làm cho người chinh phụ càng thêm bi ai sầu não.
Hai câu thơ gần giống với câu thơ trong truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Dường như cảnh và người có một mối liên hệ nào đó mà mỗi khi con người sầu
khổ cũng khiến cho cảnh vật u buồn. Có lẽ đó là một trong những thứ mà con
người chúng ta ít ai cảm nhận được mà chỉ có những người có tấm lòng sâu sắc ,
tinh tế như Đặng Trần Côn , Đoàn Thị Điểm , Nguyễn Du mới thấu hiểu.
Có thể nói đoạn trích “ tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thành công
khi đã thể hiện nỗi cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ mong ước có cuộc sống
hạnh phúc lứa đôi. Không chỉ vậy đoạn trích còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã

đày đọa hạnh phúc của con người. Theo thời gian đoạn trích “ tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ “ nói riêng và tác phẩm “ Chinh phụ ngâm” nói chung sẽ còn mãi
trong lòng người đọc.
-

Người soạn : Phạm Thị Phương Anh –
Học sinh lớp 10A2, trường THPT Đức
Hợp-

Đây là phần phân tích đoạn trích của em kính mong thầy cô và các bạn sẽ cho thêm
ý kiến để em cố gắng .
Em xin chân thành cảm ơn !



×