Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ NHẰM THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

LƯU THỊ THANH HẢO

PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ
NHẰM THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ

Ngành: Quản lý khoa học và công nghệ
Mã số: 834 04 12

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ HOÀI NAM

HÀ NỘI, 2018

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Phát triển hoạt động định giá công nghệ
nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ” là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu và kết quả nêu trong
luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình


nào khác.
Hà Nội, ngày tháng

năm 2018

Tác giả

Lưu Thị Thanh Hảo

ii


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .....................................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 10
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu................................................. 10
6. Ý nghĩa của luận văn ................................................................................................ 11
7. Cơ cấu của luận văn .............................................................................................. 11
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG ............................................................................. 12
1.1. Cơ sở lý luận về định giá công nghệ ................................................................... 12
1.2. Một số kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động định giá công nghệ .................. 17
1.2.1. Hoạt động định giá của một số nước Bắc Mỹ ( Hoa Kỳ, Canada) ....... 18
1.2.2. Hoạt động đánh giá, định giá ở một số nước Châu Âu .......................... 19
1.2.3. Hoạt động đánh giá, định giá của một số nước Châu Á ........................ 21
1.3. Cơ sở lý luận về thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển ................ 24
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1............................................................................................... 31

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI
VIỆT NAM HIỆN NAY....................................................................................... 32
2.1 Các văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam hiện nay về hoạt động định giá
công nghệ................................................................................................................ 32
2.2. Thực trạng hoạt động định giá công nghệ hiện nay tại Việt Nam................... 36
2.2.1. Thực trạng nhu cầu định giá công nghệ tại doanh nghiệp .................... 37
2.2.2. Thực trạng nhu cầu định giá công nghệ tại các viện nghiên cứu, trường
đại học ..................................................................................................................... 39
2.2.3. Thực trạng hoạt động định giá công nghệ tại các tổ chức dịch vụ tư vấn
định giá. .................................................................................................................. 42
2.3. Thực trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công

iii


nghệ hiện nay tại Việt Nam.................................................................................. 45
2.3.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học, thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ
trường đại học vào doanh nghiệp ở Việt Nam ................................................... 45
2.3.2. Thực trạng Thương mại hóa KQNC tại một số viện nghiên cứu ......... 53
2.4. Vai trò của Nhà nước trên thị trường công nghệ và trong hoạt động định giá
nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ................................................................................................................ 56
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................................... 58
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ NHẰM THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT
NAM........................................................................................................................ 59
3.1. Giải pháp xây dựng mạng lưới thông tin quốc gia quản lý thương mại hóa kết
quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. ........................................... 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện khung pháp lý hoạt động định giá công nghệ nhằm

thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ .......... 64
3.3. Giải pháp đào tạo chuyên gia định giá công nghệ và xây dựng các tổ chức
định giá công nghệ độc lập................................................................................... 67
3.4. Xây dựng định hướng phát triển các tổ chức định giá công nghệ nhằm thúc
đẩy thương mại hóa KQNC khoa học và phát triển công nghệ. ...................... 73
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3............................................................................................... 76
KẾT LUẬN.................................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 78

iv


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt

Nghĩa tiếng Việt

KH&CN

Khoa học và công nghệ

CGCN

Chuyển giao công nghệ

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

SHTT


Sở hữu trí tuệ

ĐGCN

Định giá công nghệ

KQNC

Kết quả nghiên cứu

TSTT

Tài sản trí tuệ

VBPL

Văn bản pháp lý

R&D

Nghiên cứu và phát triển

v


DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1. Đơn sáng chế và giải pháp hữu ích phân theo chủ thể .................. 48
Hình 2.2. Số lượng bằng độc quyền sáng chế theo chủ thể .......................... 49
Hình 2.3. Bằng độc quyền GPHI theo chủ thể ............................................ 49


vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu (KQNC) khoa học và phát
triển công nghệ được bao hàm trong một chủ trương lớn của Đảng về phát
triển thị trường công nghệ. Trong Nghị quyết 20/NQ-TW tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định, phát triển thị trường khoa học
và công nghệ (KH&CN) trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn
các sản phẩm khoa học và công nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục
vụ xây dựng đường lối, chiến lược, chính sách phát triển) trở thành hàng hóa.
Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2020 và
một số các Chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp
KH&CN, phát triển thị trường công nghệ... Luật KH&CN – đạo luật gốc điều
chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực KH&CN cũng được nghiên cứu sửa đổi cho
phù hợp với yêu cầu đổi mới trong cơ chế quản lý KH&CN và tình hình thực
tiễn. Một loạt các văn bản dưới luật như các Nghị định, Thông tư, thông tư
liên tịch… cũng đã được Chính phủ, Bộ KH&CN, Bộ Tài chính… ban hành
để tạo khuôn khổ pháp lý cho phát triển thị trường công nghệ nói chung và
cho thương mại hóa KQNC nói riêng.
Tuy nhiên, trong công tác quản lý KH&CNđặc biệt là khai thác thương
mại hóa, khai thác chuyển giao công nghệ đang nổi lên một vấn đề nóng bỏng
là các KQNC chưa thật sự đi vào sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp,
hay nói cách khác là các doanh nghiệp chưa "mặn mà" với các KQNC của các
nhà khoa học. Ðiều này cũng đồng nghĩa với việc những KQNC của các nhà
khoa học chưa được thương mại hóa, hoặc mới chỉ đạt hiệu quả khai thác sử
dụng ở mức thấp. Trong khi đó, Ngân sách Nhà nước đầu tư cho KH&CN từ
năm 2000 đến nay đều đạt ở mức gần 2% tổng chi ngân sách hằng năm. Kể từ


1


năm 2000, mỗi năm Nhà nước bỏ ra từ 2,5 đến hơn 3 tỷ USD để nhập khẩu
thiết bị, công nghệ (chỉ đứng sau giá trị nhập nguyên phụ liệu). Gần 65% giá
trị nhập khẩu thiết bị, công nghệ có nguồn gốc từ Nhật Bản, Ðài Loan,
Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc…, đối tượng nhập khẩu chủ yếu là những
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ðiều đáng quan tâm là một phần không nhỏ những
thiết bị, công nghệ nhập khẩu này hoàn toàn có thể nghiên cứu, chế tạo được
ở trong nước.
Thực tế cho thấy, với quy trình triển khai thực hiện các đề tài/dự án hiện
nay còn chưa quan tâm thỏa đáng đến việc quản lý và khai thác KQNC sau
nghiệm thu, cùng với việc hiện nay chưa có cơ chế phân định rõ trách nhiệm,
phân chia quyền lợi đối vớichủ đầu tư, tổ chức chủ trì, tác giả… nên các
KQNC thường không được quan tâm đến việc hoàn thiện để thỏa mãn điều
kiện đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT). Khi đó, chính tác giả cũng không
thể đứng ra đăng ký, hoặc đầu tư tiếp vì không phải là chủ sở hữu của KQNC.
Bên cạnh đó, việc triển khai KQNC tiếp tục như thế nào, khả năng phát triển
và ứng dụng ra sao cũng chưa được quan tâm thỏa đáng. Nhiều tổ chức
nghiên cứu phát triển hiện đang lưu giữ nhiều KQNC tồn tại cả dưới dạng sản
phẩm vật chất và dưới dạng tài sản trí tuệ, bí quyết know-how… nhiều kết
quả công trình có giá trị đang ngày càng bị mai một, hoặc bị bỏ quên hoặc
mới chỉ được đầu tư hạn chế trong phạm vi giai đoạn thử nghiệm rất ngắn về
thời gian hoặc sản xuất thử nghiệm với qui mô rất hạn chế. Việc đánh giá,
định giá KQNC trên cơ sở đó phân chia lợi ích, quyền lợi của chủ sở hữu và
tác giả cũng chưa được thực sự quan tâm. Thứ hai là, khả năng tiếp cận của
các tổ chức/cá nhân khác đối với các KQNC là rất khó khăn, từ thông tin, giá
trị, chi phí đến tiềm năng ứng dụng, tiềm năng công nghệ... Đây là những tồn
tại, bất hợp lý trong công tác quản lý các đề tài/dự án đòi hỏi cần phải thiết

lập một mô hình quản lý, đánh giá định giá các KQNC cho phù hợp để khắc

2


phục những hạn chế nói trên, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của việc
đầu tư kinh phí từ Ngân sách Nhà nước từ hoạt động R&D, thúc đẩy thương
mại hóa, tăng cường khai thác, ứng dụng vào sản xuất kinh doanh.
Nhiều nhà nghiên cứu, nhóm thực hiện đề tài, người chủ trì đề án tại các
Viện, Trường phản ánh rằng chính sách, cơ chế quản lý, khai thác KQNC
hiện nay chưa thực sự phù hợp với nhu cầu thực tiễn và chưa tạo động lực cho
các chủ thể tham gia khai thác KQNC tạo ra. Các KQNC từ nguồn kinh phí
Ngân sách hiện nay vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và do cơ quan
hoặc tổ chức chủ trì quản lý. Tuy nhiên, việc quản lý của các cơ quan, tổ chức
chỉ mang tính hình thức và không hiệu quả. Tùy theo chất lượng của KQNC
và nhu cầu của thị trường, đa số các kết quả các đề tài, đề án được xếp vào
kho sau khi nghiệm thu. Trong nhiều trường hợp khác thì các giao dịch mua
bán, li-xăng, chuyển giao công nghệ hoặc thậm chí là góp vốn bằng các tài
sản là các KQNC tạo ra trên cơ sở đề tài, đề án được thực hiện một cách
không chính thức, không công khai giữa tác giả, chủ nhiệm đề án với các đối
tác có nhu cầu…
Để có thể xây dựng được một chế độ quản lý, khai thác KQNC một
cách hiệu quả, vấn đề đánh giá xác định giá trị KQNC là một khía cạnh hết
sức quan trọng, là công cụ hữu hiệu, tạo điều kiện thuận lợi trong các hoạt
độngcủa các Trung tâm chuyển giao công nghệ, các tổ chức trung gian
chuyên môi giới liên kết giữa cung và cầu về công nghệ, kết nối từ nhà khoa
học tới doanh nghiệp và ngược lại.
Hiện nay, đã có nhiều các thảo luận, nghiên cứu, đề xuất chính sách liên
quan đến chính sách thúc đẩy thương mại hóa KQNC, phát triển thị trường
công nghệ, việc khuyến khích đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế

phân chia lợi ích giữa chủ đầu tư, cơ quan chủ trì, tác giả…Nhưng nhìn
chung, thường phân tích và luận giải về việc tháo gỡ các cơ chế, chính sách

3


của Nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của các cơ
quan tổ chức R&D, tạo ra một cơ chế xem xét đánh giá sàng lọc KQNC phục
vụ cho công tác thương mại hóa, thúc đẩy việc chuyển giao mua, bán các sản
phẩm KHCN có hàm lượng tri thức cao đáp ứng được một phần mong đợi của
cộng đồng doanh nghiệp.
Chính vì vậy, trong khuôn khổ Luận văn thạc sĩ quản lý Khoa học và
Công nghệ, sẽ tập trung nghiên cứu, phân tích và tổng hợp các nội dung phát
triển các hoạt độngđịnh giá công nghệ nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Tình hình nghiên cứu ngoài nước:
Thúc đẩy chuyển giao kết quả nghiên cứu đang là trọng tâm của các

chính sách kinh tế tại nhiều quốc gia trên thế giới. Việc đánh giá phân loại,
xác định rõ giá trị ứng dụng kết quả nghiên cứu là vấn đề mang tính tiền đề
cho việc thúc đẩy thương mại hóa, chuyển giao và ứng dụng thành quả nghiên
cứu khoa học công nghệ vào đời sống xã hội.
Tại Hoa Kỳ, để thúc đẩy chuyển giao và ứng dụng các kết quả nghiên
cứu từ trường đại học vào doanh nghiệp, năm 1980 Chính phủ Hoa Kỳ đã ban
hành Luật Bayh-Dole. Khuôn khổ chính sách đầu tiên cho phép các trường
đại học nắm quyền sở hữu đối với các sáng chế là kết quả nghiên cứu do nhà
nước tài trợ và khuyến khích họ tham gia vào hoạt động thương mại hóa công

nghệ đã được thông qua ở Mỹ. Mô hình chuyển giao công nghệ ở Hoa Kỳchủ
yếu chịu tác động của Luật Bayh-Dole và Luật Nhãn hiệu thương mại sửa đổi
ban hành năm 1980. Bộ luật này quy định các trường đại học, các tổ chức phi
lợi nhuận và các doanh nghiệp nhỏ có quyền được cấp bằng và được ưu tiên
cấp phép li-xăng đối với các sáng chế do liên bang tài trợ. Các bộ luật này tạo
nên một loạt các quy định chính sách đối với việc tiết lộ sáng chế và xin cấp

4


bằng, yêu cầu các tổ chức phải tạo được các khuyến khích đối với nhà nghiên
cứu và thúc đẩy sự thành lập cơ sở hạ tầng công nghệ.
Tại Hàn Quốc, năm 2000 Chính phủ ban hành Luật thúc đẩy chuyển giao
công nghệ nhằm đẩy mạnh việc thương mại hóa công nghệ được tạo ra từ các
tổ chức nghiên cứu phát triển. Thông qua các biện pháp miễn, giảm thuế, hỗ
trợ tài chính, Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ thành lập các tổ chức dịch vụ
chuyển giao công nghệ như Trung tâm chuyển giao công nghệ quốc gia, các
văn phòng chuyển giao công nghệ trong các tổ chức nghiên cứu phát triển.
Chính phủ thành lập ra Tổng công ty tài chính Công nghệ Hàn Quốc
(KOTEC) nhằm hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp công nghệ khởi nghiệp
và các công ty nhỏ và vừa qua hình thức đánh giá, thẩm định công nghệ và
bảo lãnh vay vốn, đã thực sự trở thành một nhân tố ngày càng quan trọng
trong thúc đẩy tinh thần kinh doanh bằng đổi mới, sáng tạo. Hoạt động định
giá công nghệ xác định giá trị trong tương lai của công nghệ bao gồm khả
năng cạnh tranh của công nghệ, thị trường cho công nghệ, giá trị của doanh
nghiệp hoặc dự án. Việc triển khai hệ thống thẩm định công nghệ KTRS
(Kibo Technology Rating System) – một hệ thống chấm điểm xếp hạng, là
một ma trận 2 chiều: đánh giá chất lượng công nghệ và mức độ rủi ro. Chất
lượng công nghệ được tính dựa trên các tham số của các tiêu chí đánh giá
công nghệ và triển vọng thương mại hóa, năng lực của doanh nghiệp, thị

trường, lợi nhuận...
Chính phủ Trung Quốc cũng thực hiện những biện pháp mạnh để thúc
đẩy tiến trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu, cải cách hệ thống các tổ
chức khoa học và công nghệ. Nhiều viện nghiên cứu truyền thống buộc phải
chuyển sang hoạt động theo cơ chế của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính
phủ Trung Quốc cũng dành một khoản ngân sách đáng kể để khuyến khích và
hỗ trợ các viện nghiên cứu tiến hành thương mại hóa các kết quả nghiên cứu

5


của mình và đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ cho các sáng chế tạo ra từ các đề án
nghiên cứu sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước.So với các nước công
nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, các nước thuộc Liên minh Châu Âu,
sự can thiệp của nhà nước trong thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu
ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài loan thể hiện
mạnh mẽ hơn và với nhiều biện pháp khác nhau.
Tựu chung, các chính sách thúc đẩy chuyển giao và khai thác kết quả
nghiên cứu tại các trường đại học, viện nghiên cứu tại các nước đã tạo ra tác
động tích cực đối với việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ, gia
tăng tốc độ giao dịch mua bán, chuyển giao công nghệ từ khu vực nghiên cứu
sang khu vực sản xuất. Ở Hàn Quốc, mức tăng trưởng về giao dịch mua bán
công nghệ tại các trung tâm chuyển giao công nghệ đang diễn ra với tốc độ
cao. Ở Trung Quốc, giao dịch mua bán công nghệ trên thị trường trong hơn
20 năm trở lại đây liên tục tăng trưởng, trên 2 lần so với tăng trưởng GDP.
Chính các động lực trên đang thúc đẩy những xúc tiến tương tự tại các
quốc gia thu nhập thấp và trung bình. Dựa vào các chính sách và chiến lược
quốc gia khác nhau, nhiều trường đại học và các Tổ chức nghiên cứu phát
triển công nghệ tại các nước đang phát triển tiến hành đăng ký quyền SHTT
và thành lập các văn phòng chuyển giao công nghệ, tăng cường các nghiệp vụ

tư vấn định giá kết quả nghiên cứu để nhằm củng cố mối liên kết khoa học công nghiệp và thúc đẩy thương mại hóa công nghệ.
Các công trình nghiên cứu trong nước:
Trong quá trình sơ lược tìm hiểu thông tin về các nghiên cứu, đề tài liên
quan đến lĩnh vực này, chúng tôi đã thống kê được một số đề tài liệt kê dưới
đây có thể vẫn còn có rất nhiều các nghiên cứu khác nữa thảo luận về cơ chế
chính sách của Nhà nước, về hoạt động định giá công nghệ, đánh giá định giá
đối tượng tài sản trí tuệ, phát triển thị trường công nghệ .v.v.

6


Cụ thể như được liệt kê dưới đây:
1. Nghiên cứu chính sách “Thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu
và triển khai của các tổ chức khoa học và công nghệ”, TS. Nguyễn Quang
Tuấn, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, 2013 đã và
đang nghiên cứu các nội dung cơ bản về thương mại hóa, các yếu tố tác động
đến thương mại hóa, đánh giá thực trạng thương mại hóa tại một số đơn vị
tiêu biểu thông qua tiến hành điều tra các ngành (lâm nghiệp, nông nghiệp,
vật liệu xây dựng, cơ khí và hóa chất) và những giải pháp thúc đẩy thương
mại hóa…
2. “Nghiên cứu cơ chế và chính sách khuyến khích tạo ra và đăng ký
sáng chế, giải pháp hữu ích từ các KQNC khoa học có sử dụng Ngân sách
Nhà nước; Nguyễn Võ Hưng, Viện Chiến lược và chính sách khoa học và
công nghệ, 2008.
3. “Nghiên cứu đề xuất quy định tạm thời về cơ chế phân chia lợi ích
giữa chủ đầu tư, tổ chức chủ trì và tác giả trong thương mại hóa KQNC, tài
sản trí tuệ được tạo ra bằng nguồn kinh phí của Nhà nước”, Trần Văn Bình,
Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ, 2012
4. “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động Định giá công
nghệ; đề xuất nội dung quản lý Nhà nước đối hoạt động Định giá công nghệ ở

Việt Nam”, TS. Đỗ Hoài Nam, Vụ Đánh giá Thẩm định và giám định công
nghệ, 2010
5. “Nghiên cứu phương pháp xác định giá công nghệ và đề xuất quy
trình xác định giá công nghệ trong điều kiện Việt Nam” ThS. Hoàng Văn
Tuyên, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, 2010
6. “Nghiên cứu ứng dụng một số phương pháp định giá công nghệ phù
hợp với Việt Nam” KS. Ngô Thị Loan, Viện Đánh giá khoa học và định giá
công nghệ, 2013

7


7. “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng cơ chế chính sách
về quản lý, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức định giá, đánh giá
công nghệ, môi giới chuyển giao công nghệ”, TS. Trịnh Minh Tâm, 2013
Những đề tài/đề án nêu trên đã phần nào đề cập đến các chính sách,
phương thức đánh giá, định giá công nghệ và đề xuất xây dựng cơ chế chính
sách phù hợp. Tuy nhiên, chưa nghiên cứu sâu, phân tích cụ thể về hoạt động
định giá công nghệ trong chuỗi các hoạt động thúc đẩy thương mại hóa các
nghiên cứu khoa học phát triển công nghệ.
KQNC của các đề tài/Dự án thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ có thể diễn ra bất kỳ ở một giai đoạn nào. Nếu nhìn nhận ở
nhiều góc độ khác thì KQNC phân loại như: KQNC đã là công nghệ, đã đăng
ký bảo hộ quyền SHTT, hay KQNC có khả năng đăng ký bảo hộ quyền Sở
hữu trí tuệ, KQNC có tiềm năng phát triển thành công nghệ, KQNC có tiềm
năng ứng dụng thực tế, tiềm năng thị trường… KQNC có thể chỉ đơn giản là
được công bố, mang lại cho xã hội những hiểu biết mới, gọi là hiệu quả thông
tin; KQNC có thể làm xuất hiện một hướng công nghệ mới, gọi là hiệu quả
công nghệ (chưa bàn đến việc áp dụng công nghệ vào sản xuất); Khi áp dụng
KQNC vào sản xuất, dẫn đến hiệu quả tính được thành tiền, gọi là hiệu quả

kinh tế; KQNC có những tác động về mặt xã hội, chẳng hạn, văn hóa, y tế, an
ninh, quốc phòng, nhưng không thể tính được thành tiền, gọi đó là hiệu quả
xã hội…
Hoạt động định giá công nghệ diễn ra trong rất nhiều giai đoạn khác
nhau từ việc đánh giá thẩm định một đề xuất nghiên cứu; đánh giá KQNC
ngay sau khi hoàn thành đề tài (Output) chưa xét đến khả năng áp dụng; đánh
giá kết quả sau nghiệm thu;đánh giá hiệu quả (Outcome) và tác động (Impact)
của nghiên cứusau khi công trình được đưa vào áp dụng..., Đánh giá KQNC
về hiệu quả và tác động chưa thể thấy được sau khi công việc nghiên cứu thu

8


được kết quả. Hiệu quả và tác động chỉ có thể dự kiến và chỉ có thể thấy rõ
sau khi đưa kết quả vào áp dụng.
Với việc xây dựng hệ thống tiêu chí định giá KQNC nhằm đưa ra những
thông tin khách quan về các giá trị của các thành quả nghiên cứuKH&CN, với
một số cách tiếp cận và tiêu chí phù hợp với tính chất của hoạt động R&D và
đặc điểm của sản phẩm công nghệ. Hoạt động định giá KQNC trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhằm xem xét, sàng lọc phân
tích các khía cạnh nêu trên và đưa ra một công cụ hữu hiệu trong quá trình
mua bán trao đổi, chuyển giao KQNC; hoặc thúc đẩy việc tiếp tục đầu tư phát
triển KQNC để đáp ứng các điều kiện để đăng ký quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ,
hoặc thúc đẩy hoàn thiện KQNC để có thể trở thành công nghệ, ứng dụng vào
lĩnh vực sản xuất công nghiệp.v.v. Ngoài ra viêc, đánh giá khả năng thương
mại hóa KQNC liên quan đến quá trình phát triển, sản xuất và tiếp thị công
nghệ mới, quy trình hoặc sản phẩm công nghệ. Toàn bộ quá trình này đòi hỏi
các bước xem xét như: Điều tra, thí điểm quy trình sản xuất ; sản xuất sản
phẩm mới hoặc nguyên mẫu; kiểm tra chấp nhận của thị trường; Báo cáo khả
thi, và marketing dự án cho nhà đầu tư tiềm năng .v.v.

Chính vì vậy, việc xem xét một cách bài bản về việc đánh giá và định giá
KQNC trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, việc phát
triển hoạt động định giá công nghệ sẽ mang lại lợi ích lớn cho việc ban hành
các chính sách nhằm quản lý, hỗ trợ hình thành cũng như hoạt động thúc đẩy
thương mại hóa, khai thác và chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường
công nghệ.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chung: Phân tích làm rõ cơ sở khoa học, thực trạng hoạt

độngvà định hướng phát triển các tổ chức định giá công nghệ nhằm thúc đẩy

9


thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
(KQNC)
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở khoa học; các quy định hiện hành và tìm hiểu mô
hình thành công trong hoạt động thương mại hóa KQNC tại các Trường đại
học, Viện nghiên cứu-phát triển. Đưa ra báo cáo phân tích thực trạng, các vấn
đề tồn tại trong phương thức quản lý, khai thác các KQNC thuộc lĩnh vực
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ hiện nay.
- Phân tích, đề xuất các tiêu chí, định giá công nghệ các KQNC thuộc
lĩnh vực nghiên cứu phát triển công nghệ góp phần xác định phương hướng
tiếp tục đầu tư phát triển hoàn thiện công nghệ, thúc đẩy việc thương mại hóa
ứng dụng sản phẩm công nghệ vào sản xuất kinh doanh
- Nghiên cứu cơ sở khoa học, thực trạng hoạt động và định hướng phát
triển hoạt động định giá công nghệ nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: kết quả nghiên cứu thuộc lĩnh vực nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ, chính sách thương mại hóa KQNC, hoạt
động định giá công nghệ.
- Phạm vi nghiêm cứu; Các doanh nghiệp, Trường đại học và các Viện
nghiên cứu và các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam, thị trường
KHCN từ năm 2013 trở lại đây
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
1) Phương pháp thu thập thông tin từ các tài liệu trong và ngoài nước:
2) Phương pháp tiếp cận từ trên xuống và từ dưới lên:
3) Phương pháp tiếp cận nghiên cứu tham dự

10


6. Ý nghĩa của luận văn
Phân tích làm rõ cơ sở khoa học, thực trạng hoạt động và định hướng
phát triển các tổ chức định giá công nghệ nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết
quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (KQNC)
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được kết cấu thành 03
chương:
- Chương 1: Lý luận chung
- Chương 2: Thực trạng hoạt động định giá công nghệ tại Việt Nam hiện

nay
- Chương 3: Đề xuất một số giải pháp phát triển hoạt động định giá công
nghệ nhằm thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ tại Việt Nam

11


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Cơ sở lý luận về định giá công nghệ
Với vai trò là thước đo sức cạnh tranh và khả năng phát triển của nền
kinh tế nói chung, doanh nghiệp nói riêng trong tương lai, công nghệ trở
thành một trong những dòng tài sản vô hình được trao đổi, thương mại hóa
trên thị trường công nghệ. Yếu tố đầu vào cơ bản cho việc trao đổi, thương
mại hóa này chính là việc biết được giá trị của công nghệ, kết quả của quá
trình định giá công nghệ. Những gì thị trường cần là giá trị của công nghệ
như là một sản phẩm được giao dịch trên thị trường, và điều này đòi hỏi một
giá trị công bằng và khách quan mà không chịu ảnh hưởng bởi các công ty cụ
thể sở hữu nó.
Công nghệ và giá trị công nghệ.
Công nghệ là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các
kiến thức khoa học, được sử dụng để giải quyết một hoặc một số nhiệm vụ
thực tiễn trong sản xuất, kinh doanh, được thể hiện dưới dạng bí quyết kỹ
thuật, phương án, quy trình công nghệ, tài liệu… và các dịch vụ hỗ trợ tư vấn.
Công nghệ có giá trị như một tài sản vô hình với 2 thuộc tính cơ bản: “Giá
trị sử dụng” và “giá trị trao đổi”. Giá trị sử dụng, hay công dụng của công nghệ
chính là “sự khác biệt” do đặc tính sáng tạo, đổi mới tạo nên, sự khác biệt này
cũng đồng thời quyết định thuộc tính tự nhiên của hàng hóa, dịch vụ, là cơ sở
hình thành mối quan hệ mua bán liên quan tới tài sản công nghệ. Số lượng giá

trị sử dụng của tài sản trí tuệ được phát triển cùng với sự phát triển về trình độ
khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, giá trị sử dụng của tài sản trí tuệ chỉ được thể
hiện khi tài sản trí tuệ được khai thác, tiêu dùng một cách thực sự; nếu không, tài
sản trí tuệ được coi như không có giá trị sử dụng.

12


Sự hình thành mối quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
ngày càng được quyết định bởi hàm lượng công nghệ kết tinh trong hàng hóa;
hơn nữa, chính thành tố “công nghệ” cũng trở thành đối tượng trao đổI trực
tiếp trên thì trường và có giá trị trao đổi. Trong bối cảnh đó, chúng tôi nhận
định rằng giá trị của công nghệ đang dần trở thành một hình thức biểu hiện
của giá trị hàng hóa, dịchvụ.
Khái niệm về định giá
Thuật ngữ định giá đã được giải thích và sử dụng chính thức trong các
văn bản pháp lý ở Việt Nam, cụ thể là:
Luật Giá giải thích: “Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ”;
Luật Kinh doanh bất động sản: “Định giá bất động sản là hoạt động tư
vấn, xác định giá của một bất động sản cụ thể tại một thời điểm xác
định”.Quan điểm này được nhìn nhận từ góc độ quản lý, điều tiết và định
đoạt giá của Nhà nước.
Theo Luật Giá thì, định giá được hiểu là việc ấn định các mức giá cụ
thể cho từng loại tài sản làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch mua, bán tài
s ản, hàng hóa, d ịch vụ đó trên thị trường. Đối với các loại tài sản, hàng hóa,
dịch vụ do nhà nước định giá (các cơ quan có thẩm quyền quy định) hoặc với
tư cách là chủ sở hữu, thì các mức giá cụ thể của từng loại tài sản, hàng hóa
mang tính bắt buộc mọi đối tượng tham gia hoạt động giao dịch, mua bán
phải th ực hiện. Đối với các tài sản, hàng hóa, d ịch vụ không thuộc danh mục

Nhà nước định giá thì do các tổ chức, cá nhân tự định giá theo quy luật thị
trường làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch mua bán, trao đổi.
Theo đó, định giá được hiểu là việc xác định giá trị của tài sản tại một
địa điểm, thời gian nhất định. Định giá thông qua các hình thức cụ thể, giá

13


chuẩn khung giá, giá giới hạn (giá tối thiểu, tối đa). Việc xác định giá trị tài
sản là do các cá nhân hay pháp nhân là chủ sở hữu tài sản quyết định, nhằm
bổ sung căn cứ cho các hoạt động giao dịch, mua bán tài sản đó trên thị
trường.
Khái niệm về định giá công nghệ
Với vai trò là thước đo sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh
nghiệp, công nghệ đã và đang trở thành một dòng tài sản vô hình được trao
đổi, thương mại hóa trên thị trường. Để hiểu đầy đủ hơn việc định giá công
nghệ, từ ý nghĩa kinh tế (theo lý thuyết kinh tế thị trường), đặc trưng cơ bản
của giá trị được biểu hiện bới:
Giá trị được đo bằng tiền tệ.
Giá trị luôn có tính thời điểm, có thể có giới hạn địa lý và luôn thay đổi
theo thời điểm (thời kỳ).
Giá trị của một tài sản có thể khác nhau đối với các chủ sở hữu là cá
nhân (hay chủ thể) khác nhau.
Giá trị của một tài sản cao hay thấp về cơ bản phụ thuộc vào 2 yếu tố
quyết định, đó là: (1) công dụng hữu ích (tính hữu ích) vốn có của tài sản, và
(2) khả năng khai thác của chủ thể đối với các hữu ích của tài sản (khả năng
mang lại lợi ích của tài sản cho người khai thác).
Đo lường tiêu chuẩn về giá trị của tài sản, hàng hóa, dịch vụ là khoản
thu nhập bằng tiền mà tài sản mang lại cho mỗi cá nhân có được trong từng
bối cảnh giao dịch nhất định.

Theo đó, giá trị công nghệ là những lợi ích tài chính mà công nghệ đó
có thể tạo ra trong một hoàn cảnh cụ thể, có tính đầy đủ đến các rủi ro rằng
việc đầu tư để phát triển tài sản có thể cao hơn giá trị thu được. Khái niệm này
nói lên, khả năng tạo ra lợi ích tài chính trong tương lai, hoặc tiềm năng

14


thương mại của một công nghệ là yếu tố xác định giá trị của công nghệ đó.
Khi tài sản công nghệ được trao đổi (mua – bán) trên thị trường thì nó
trở thành hàng hóa, được phản ánh bởi giá trị trao đổi, và/hoặc được biểu hiện
bằng giá cả của công nghệ dựa trên các hình thức li-xăng,và các khoản thu
nhập khác từ li-xăng. Giá của công nghệ (giá cả) được hình thành trong đàm
phán giao dịch thương mại, nó phản ánh giá trị của công nghệ tương ứng tại
một địa điểm, thời gian nhất định đó. Mức giá này, trong nhiều trường hợp có
thể thấp hơn (lợi thể nghiêng về người tiếp nhận công nghệ) hoặc ngược lại
cũng có thể cao hơn nhiều (lợi thế thuộc về người sở hữu/chuyển giao) so với
giá trị nguyên gốc của nó (nguyên giá). Vì vậy, định giá công nghệ là việc xác
định giá trị tạo ra lợi ích tài chính của công nghệ tại một địa điểm, thời gian
và điều kiện nhất định; Đối tượng công nghệ được định giá là một phần hoặc
toàn phần của một công nghệ, có đủ điều kiện để đạt/(hoặc đã) được bảo hộ
sở hữu trí tuệ và duy trì các quyền sở hữu trí tuệ, thể hiện dưới dạng sau đây
của tài sản vô hình: Sáng chế, giải pháp hữu ích; Nguyên tắc định giá công
nghệ dựa trên cơ sở định giá tài sản vô hình.
Chính vì vậy, việc định giá công nghệ nhằm xác định giá trị của
công nghệ là rất quan trọng, vì đây là yếu tố đầu vào cơ bản cho quá trình trao
đổi, thương mại hóa công nghệ. Định giá công nghệ là một yếu tố quan trọng
trong quá trình thương mại hóa và chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ và tăng sức cạnh tranh; đồng thời
là căn cứ, nền tảng để thực hiện quản lý tài sản nói chung và công nghệ nói

riêng; là cơ sở cần thiết khi phải đưa ra các quyết định liên quan đến chuyển
giao quyền sở hữu công nghệ (giúp người bán xác định giá bán có thể chấp
nhận được và người mua quyết định giá mua, thiết lập cơ sở cho sự trao đổi
công nghệ); tài chính và tín dụng (để biết giá trị công nghệ dùng làm tài sản
bảo đảm, bảo hiểm công nghệ); cho thuê theo hợp đồng (đặt ra mức tiền thuê

15


và các điều khoản cho thuê)... Việc xác định giá trị công nghệ nếu không sát
với giá trị thực của công nghệ có thể dẫn đến các nghiệp vụ liên quan đến
công nghệ không được thực hiện hoặc thực hiện không thành công. Đối với
cơ quan quản lý, nếu không làm tốt công tác định giá công nghệ có thể sẽ tạo
ra kẽ hở giúp các công ty đa quốc gia (MNCs) và xuyên quốc gia (TNCs)
thực hiện hành vi chuyển giá, chuyển giao những công nghệ lạc hậu, cũ nát
làm lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường...
Mục đích định giá công nghệ
Thực tiễn ngày nay cho thấy tài sản công nghệ không chỉ là phương
tiện, công cụ của hoạt động sản xuất, kinh doanh mà bản thân nó cũng là đối
tượng của hoạt động mua bán, trao đổi, thậm chí còn là phương tiện để doanh
nghiệp phô trương tiềm lực, vị thế, gây sức ép với đối thủ cạnh tranh do đó
vấn đề xác định giá trị công nghệ đang ngày càng nên gắn bó hơn với hoạt
động kinh doanh, trở thành nhu cầu thường xuyên trong việc đưa ra quyết
định kinh doanh tới mức đòi hỏi doanh nghiệp phải nỗ lực xây dựng và thực
hiện quản trị tài sản công nghệ nhằm củng cố và phát triển giá trị nguồn lực
tài sản trí tuệ của mình trong tổng thể hoạt động quản trị kinh doanh của
doanh nghiệp. Ngoài ra trong bối cảnh nền kinh tế chuyển dịch từ thâm dụng
vốn và lao động sang thâm dụng tri thức, xu hướng gia tăng về hợp tác chiến
lược, sát nhập M&A, và sự chuyển dịch của hệ thống tài chính từ bảo đảm,
cầm cố sang tín dụng, thì việc định giá công nghệ nhằm thực hiện các mục

đích cơ bản như sát nhập (M&A), đầu tư, trao đổi công nghệ, tham khảo
trong kiện tụng, và ghi nhận kế toán và báo cáo thuế.
Việc xác định giá trị công nghệ nhằm mục đích sau đây:
Phục vụ doanh nghiệp trong các tình huống tranh chấp, xâm phạm về
bản quyền công nghệ;

16


Tiết kiệm chi phí thông qua việc tính toán chi phí cơ hội giữa việc mua
hay là tự phát triển công nghệ;
Chuyển giao quyền sở hữu (chuyển nhượng) hoặc quyền sử dụng (lixăng) tài sản công nghệ (xác định phí chuyển giao hoặc giá trị hợp đồng
chuyển giao);
Góp vốn đầu tư,liên doanh, liên kết; cổ phần hóa, phát hành cổ phiếu,
chứng khoán, thế chấp…;
Sát nhập mua lại doanh nghiệp thông qua việc tính toán tỉ trọng giá trị
tài sản trí tuệ trong tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp;
Hiến tặng cho mục đích nhân đạo để hưởng các chính sách ưu đãi trong
kinh doanh.
Tóm lại, định giá công nghệ là hoạt động xác định giá trị công nghệ
được đo lường bằng tiền tệ. Theo Luật Chuyển giao công nghệ Việt Nam
(2006) giải thích: Định giá công nghệ là hoạt động xác định giá của công
nghệ. Đối tượng công nghệ được định giá là một phần hoặc toàn bộ công
nghệ sau đây: Bí quyết kỹ thuật; Kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới dạng
phương án công nghệ, quy trình công nghệ, giải pháp kỹ thuật, công thức,
thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, chương trình máy tính, thông tin dữ
liệu; Giải pháp hợp lý hoá sản xuất, đổi mới công nghệ; Đối tượng công nghệ
được định giá có thể gắn hoặc không gắn với đốitượng sở hữu công nghiệp; có
kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện.
1.2.Một số kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động định giá công nghệ

Liên quan đến định giá công nghệ thì cho đến nay trên thế giới chưa có
nước nào hoặc tổ chức quốc tế nào ban hành tiêu chuẩn riêng về định giá công
nghệ, việc định giá công nghệ chủ yếu được thực hiện dựa trên nguyên tắc
chung cho định giá tài sản vô hình.

17


1.2.1. Hoạt động định giá của một số nước Bắc Mỹ ( Hoa Kỳ, Canada)
Hoạt động định giá đối tượng Tài sản trí tuệ nói chung và định giá công
nghệ nói riêng ở Hoa Kỳ, Canada dựa trên hệ thống các tiêu chuẩn định giá
tài sản vô hình thuộc tập hợp các Tiêu chuẩn định giá doanh nghiệp (Business
Valuation Standards – BVS) do Hiệp hội định giá viên Hoa kỳ (American
Society of Appraisers - ASA) phê chuẩn từ tháng 7/2008 thông qua Ủy ban
Định giá doanh nghiệp trên cơ sở áp dụng các Tiêu chuẩn thống nhất về hành
nghề định giá do Quỹ tài trợ định giá (Appraisal Foundation) xây dựng. Mục
đích của việc xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn nói trên là nhằm duy trì và
nâng cao chất lượng hoạt động định giá doanh nghiệp phục vụ lợi ích của
định giá viên doanh nghiệp và người sử dụng kết quả định giá. Theo đó khi
tiến hành định giá tài sản vô hình, các định giá viên phải xem xét áp dụng
cách tiếp cận và phương pháp định giá thích hợp. Các cách tiếp cận được xem
xét khi định giá tài sản vô hình bao gồm:
Cách tiếp cận thu nhập (Income Approach): Định giá viên cần xác định
các lợi ích kinh tế do tài sản vô hình tạo ra một cách thích hợp và các rủi ro
liên quan tới các lợi ích đó; định giá viên cần xem xét lợi ích kinh tế do việc
khấu hao tài sản nhằm mục đích trả thuế thu nhập; định giá viên cần xem xét
có sự khác nhau giữa tuổi đời kinh tế của ài sản vô hình với tuổi đời pháp lý
(thời gian tồn tại theo luật định) của tài sản đó hay không.
Cách tiếp cận thị trường (Market Approach): định giá viên cần xem xét
sự khác nhau giữa tài sản vô hình được định giá và tài sản vô hình so sánh,

cũng như các điều kiện thị trường tương ứng với từng tài sản.
Cách tiếp cận chi phí (Cost Approach): định giá viên cần xem xét các
chi phí trực tiếp và gián tiếp liên quan tới việc tái tạo hoặc thay thế tài sản vô
hình được định giá (nếu có), cũng như mọi hao mòn về giá trị của tài sản đó

18


do chức năng bị lỗi thời (lạc hậu), tiềm năng kinh tế bị suy giảm hoặc đời
sống kỳ vọng bị rút ngắn.
Các cách tiếp cận định giá cơ bản trên đã được thể hiện trong một số
văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính Hoa Kỳ.
Mô hình định giá các công nghệ giai đoạn tiền cạnh tranh dựa trên việc
xác định các điểm giá trị cụ thể (SVPs) trong quá trình phát triển công nghệ,
thể hiện giá trị tiền tệ của mỗi SVP được chỉ ra.Có 10 điểm SPVđược chỉ ra
và các nhà nghiên cứu đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp của cả ba cách
tiếp cận: chi phí, thị trường và thu nhập để xác định giá trị của công nghệ từ
đó làm cơ sở cho việc đàm phán chuyển giao. Mô hình này được ứng dụng để
định giá một số công nghệ được phát triển tại Trung tâm Ứng dụng Khoa học
và Phát triển Công nghệ (CCADET) thuộc Trường Đại học Quốc Gia Mexico
(UNAM)
1.2.2. Hoạt động đánh giá, định giá ở một số nước Châu Âu
Các tổ chức đánh giá, định giá công nghệ của Đức có nhiệm vụ chính
là tìm hiểu, phát triển khoa học và công nghệ có liên quan đến các mối quan
hệ trong hệ thống công nghệ như vấn đề về môi trường, kinh tế, xã hội, chính
trị... Đó là nghiên cứu về chính sách công nghệ, ảnh hướng của công nghệ đến
hệ thống khoa học kỹ thuật, xã hội. Các nhiệm vụ này có liên quan mật thiết
đến nhau giữa các nhân tố: (1) giải quyết vấn đề trước khi đưa ra hoạch định,
chính sách mới, tri thức mới về công nghệ, (2) làm rõ tác động đến kinh tế, xã
hội, (3) phát triển những lợi thế hay ngăn ngừa rủi ro có thể mang lại từ công

nghệ (Quá trình dự báo công nghệ) và (4) phương pháp khoa học và thông tin
liên quan đến công nghệ. Các nhiệm vụ này có tác động và điều chỉnh lẫn
nhau trong suốt quá trình triển khai. Vì thế, các tổ chức đánh giá, định giá
công nghệ của Đức phải xem xet một cách tổng thế các mục trong công tác
đánh giá để có thể đưa ra được những tư vấn có lợi nhất đối với cơ quan quản

19


×