Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIEU LUAN CHAT LUONG DAN SO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.18 KB, 18 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Dù đã được cải thiện đáng kể, song chất lượng dân số nước ta vẫn thấp và
đang đứng trước những thách thức mới như: Tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi
sinh cao, tốc độ già hóa dân số tăng nhanh, tỷ lệ dân số bị khuyết tật, dị tật bẩm
sinh có xu hướng tăng... Ðây đang là những vấn đề "nóng", đòi hỏi các giải
pháp toàn diện để nâng cao chất lượng dân số.
Theo báo cáo của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DSKHHGÐ), chất lượng dân số về thể chất của người Việt Nam đã được cải thiện
song vẫn còn rất thấp. Kết quả Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2009 cho
thấy, có 1,5% dân số Việt Nam bị thiểu năng về thể lực và trí tuệ. Trong đó, số
trẻ mới sinh bị dị tật bẩm sinh do di truyền chiếm khoảng từ 1,5 đến 3% và có
xu hướng tiếp tục gia tăng do điều kiện sống, môi trường độc hại, chưa được
phát hiện và điều trị sớm.
Bên cạnh đó, số lượng người bị tàn tật, khuyết tật trong cả nước rất lớn,
khoảng 5,3 triệu người (chiếm 6,3% số dân)... Tầm vóc, thể lực cân nặng, sức
bền của người Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực vẫn còn hạn chế.
Chiều cao trung bình của người Việt Nam là 164,4 cm (đối với nam) và 153 cm
(nữ), tăng trung bình 4 cm sau 35 năm. Với chiều cao hiện tại, nam thanh niên
Việt Nam vẫn thấp hơn chuẩn quốc tế 13,1 cm và nữ thấp hơn 10,7 cm. Không
chỉ thua kém về chiều cao, thanh niên Việt Nam còn thua kém cả về sức bền, sức
mạnh (cơ bắp), cân nặng so với chuẩn quốc tế khá nhiều.
Chất lượng dân số cũng được đánh giá qua tuổi thọ bình quân của người
dân. Tuổi thọ bình quân của người dân Việt Nam đạt mức khá cao là 73 tuổi, tuy
nhiên, tuổi thọ bình quân khỏe mạnh lại chỉ đạt 66 tuổi và xếp thứ 116/182 nước
trên thế giới. Một vấn đề mới xuất hiện và có những tác động lớn đến chất lượng
dân số cần đặc biệt lưu ý là tỷ số giới tính khi sinh (số trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ
sinh gái) ở nước ta đã tăng nhanh một cách bất thường và phức tạp. Nếu năm
1975, tỷ số này vẫn ở mức tự nhiên 105/100 tăng lên 107/100 vào năm 1999, thì
trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến nay, tỷ số này gia tăng một cách đáng lo


ngại, luôn ở mức hơn 110, năm sau cao hơn năm trước.
Bởi vậy tiểu luận đề tài: “ Chất lượng dân số và tìm hiểu các giải pháp
nâng cao chất lượng dân số” nhằm mục đích tìm hiểu, nghiên cứu về chất lượng
dân số.

2


NỘI DUNG
I - TỔNG QUAN CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
1. Khái niệm dân số
Dân cư của một vùng là tập hợp những con người cùng cư trú trên một
lãnh thổ nhất định (xã, huyện, tỉnh, quốc gia, châu lục hay toàn bộ Trái Đất).
Dân số là dân cư được xem xét, nghiên cứu dưới nhiều góc độ: quy mô và
chất lượng. Nội hàm của khái niệm dân số hẹp hơn nội hàm của khái niệm dân
cư. Quy mô, cơ cấu dân số trên một lãnh thổ không ngừng biến động do các quá
trình sinh, tử, di cư, hoặc đơn giản chỉ là theo năm tháng, bất cứ ai cũng chuyển
từ nhóm tuổi này sang nhóm tuổi khác. Các hoạt động của mỗi cá nhân cũng
thường xuyên thay đổi, tuổi niên thiếu đi học từ nhà trẻ, mẫu giáo ... Đến các
trường chuyên nghiệp; tuổi trưởng thành làm việc, tuổi già nghỉ ngơi. Trình độ
văn hóa, chuyên môn, địa vị xã hội cũng thay đổi. Những thay đổi của mỗi cá
nhân làm thay đổi số lượng, thành phần kết cấu của dân số nói chung.
Dân số theo nghĩa thông thường là số lượng dân số trên một vùng lãnh
thổ, một địa phương nhất định. Bởi vì dân số có thể coi là số lượng dân cư của
cả trái đất hay một phần của nó, của một quốc gia hay một vùng địa lý nào đó.
Tất nhiên trên quan niệm dân số học thì dân số của một nước có ý nghĩa vô cùng
quan trọng.
Dân số theo nghĩa rộng được hiểu là một tập hợp người. Tập hợp này
không chỉ là số lượng mà cả cơ cấu và chất lượng. Tập hợp này bao gồm nhiều
cá nhân hợp lại, nó không cố định mà thường xuyên biến động. Trong dân số

học, thuật ngữ "dân số" được nghiên cứu cả ở trạng thái tĩnh và trạng thái động
cùng những yếu tố gây nên sự biến động đó.
Các chỉ tiêu đo lường về dân số:
Quy mô dân số là tổng số dân sinh sống (cư trú) trong những vùng lãnh
thổ nhất định vào những thời điểm xác định.
Phân bố dân số là sự sắp xếp số dân trên một vùng lãnh thổ phù hợp với
điều kiện sống của người dân và với các yêu cầu nhất định của xã hội.

3


Cơ cấu dân số là sự phân chia tổng số dân của một vùng thành các nhóm
theo một hay nhiều tiêu thức (mỗi một tiêu thức là một đặc trưng nhân khẩu học
nào đó).
Mức sinh phản ánh mức độ sinh sản của dân số. Nó liên quan đến số trẻ
sinh sống mà một người phụ nữ thực có trong suốt cuộc đời sinh sản của mình.
Mức chết là sự biểu thị mức độ chết của con người xảy ra trong một
khoảng thời gian nào đó. Thông qua mức chết có thể đánh giá, so sánh biết được
tần số và cường độ chết của nhóm dân cư khác nhau.
Di cư là sự thay đổi nơi cư trú của con người, từ đơn vị lãnh thổ này tới
một lãnh thổ khác trong một khoảng thời gian nhất định. Hay nói cách khác là
thay đổi nơi cư trú trong một khoảng thời gian nào đó.
2. Khái niệm chất lượng dân số
Chất lượng dân số là những thuộc tính bản chất của dân số bao gồm
tổng hoà các yếu tố thể lực, trí lực và tinh thần của con nguời phù hợp với
quy mô, cơ cấu dân số (tuổi, giới tính, phân bố, trình độ học vấn, nghề
nghiệp...) và với trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Ăng-ghen cho rằng: “Chất lượng dân số là khả năng của con người thực
hiện các hoạt động một cách hiệu quả nhất”.
Ở Việt Nam, đề tài nghiên cứu chất lượng dân số và các dịch vụ xã hội cơ

bản đã đưa ra một định nghĩa cụ thể về chất lượng dân số trong điều kiện cụ thể
Việt Nam: “Một cộng đồng dân cư có chất lượng cao là cộng đồng khỏe mạnh,
có khả năng tạo ra môi trường cư trú trong lành, không nghèo đói và có học vấn
ý thức xã hội cao”.
Theo Pháp lệnh dân số của Việt Nam: “Chất lượng dân số là sự phản
ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số”. Chất
lượng dân số bao gồm các thành phần sau:
 Thể chất gồm nhiều yếu tố khác nhau trong đó có các số đo về chiều
cao, cân nặng, sức mạnh, tốc độ, sức bền, sự khéo léo, dinh dưỡng,
bệnh tật, tuổi thọ, gen di truyền của người dân.
 Trí tuệ gồm các yếu tố trình độ học vấn, thẩm mỹ, trình độ chuyên môn
kỹ thuật, cơ cấu ngành nghề… thể hiện qua tỷ lệ biết chữ, số năm bình
quân đi học/đầu người, tỷ lệ người có bằng cấp, được đào tạo về
4


chuyên môn kỹ thuật…


Tinh thần gồm các yếu tố về ý thức và tính năng động XH thể hiện
qua mức độ tiếp cận và tham gia các hoạt động XH, văn hoá, thông
tin,… của người dân.

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dân số
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dân số, tài liệu này tập trung
phân tích các nhóm yếu tố chủ yếu sau:
3.1. Yếu tố sinh học và di truyền
Như trên đã phân tích, yếu tố về di truyền và sinh học dưới giác độ chủng
tộc không tác động đến chất lượng dân số. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã cho
thấy, những đứa trẻ sinh ra từ các bà mẹ chưa thành niên (dưới 18 tuổi) và từ

những bà mẹ quá lớn tuổi (trên 40 tuổi) có nguy cơ cao về chậm phát triển thể
chất. Vì vậy, tuyên truyền rộng rãi cho phụ nữ, không sinh con trước tuổi 22 và
sau tuổi 35 cũng là một giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dân số.
3.2. Chất lượng cuộc sống
Chất lượng cuộc sống có nội dung rất phong phú liên quan đến mọi mặt
của cuộc sống con người. Nó thể hiện thông qua mức độ thỏa mãn nhu cầu về
vật chất, cũng như tinh thần của cá nhân, cộng động và toàn thể xã hội. Chất
lượng cuộc sống là một khái niệm động, không ngừng thay đổi từ thấp đến cao
phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, chế độ chính trị, quan niệm về văn
hóa và truyền thống của mỗi dân tộc ở từng giai đoạn phát triển của xã hội. Vì
vậy, cần phải sử dụng nhiều chỉ tiêu đánh giá mới phản ánh hết bản chất của chất
lượng cuộc sống. Theo William Bell, chất lượng cuộc sống có thể được đánh giá
thông qua 12 chỉ báo:
 An Toàn;
 Sung túc về kinh tế;
 Công bằng về pháp luật;
 An ninh quốc gia;
 Bảo hiểm lúc tuổi già, ốm đau;
5


 Hạnh phúc về tinh thần;
 Sự tham gia vào đời sống xã hội;
 Bình đẳng về giáo dục, nhà ở và nghỉ ngơi;
 Chất lượng đời sống văn hóa;
 Quyền tự do công dân;
 Chất lượng môi trường kỹ thuật (giao thông, nhà ở, thiết bị sinh hoạt,
thiết bị giáo dục, thiết bị y tế…;
 Chất lượng môi trường sống.
Như vậy, có thể hiểu là chất lượng cuộc sống phản ánh sự thỏa mãn nhu

cầu, trước hết là nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người. Mức độ đáp ứng sự
thỏa mãn càng cao thì chất lượng cuộc sống càng cao. Tổ chức UNDP đã từng
thống kê tới 168 nhu cầu cơ bản của con người khi đánh giá chất lượng cuộc
sống.
Chất lượng cuộc sống càng cao sẽ giúp cho con người phát triển cả về thể
chất, trí tuệ và tinh thần. Điều này làm cho chất lượng dân số được cải thiện.
Ngược lại, nếu mức độ thỏa mãn nhu cầu, đặc biệt là các nhu cầu cơ bản của
cuộc sống con người không được đáp ứng đầy đủ, là một nhân tố làm cho con
người không phát triển về thể lực; trí lực và tinh thần. Đây là nguyên nhân làm
cho chất lượng dân số giảm sút.
3.3. Kinh tế
Có thể phân chia ảnh hưởng của kinh tế đến chất lượng dân số thành hai
cấp độ: cấp độ kinh tế vĩ mô (sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia) và ở cấp độ
vi mô (kinh tế của hộ gia đình).
Nếu xét ở cấp độ kinh tế vĩ mô, với một nền kinh tế phát triển, Chính phủ
sẽ có điều kiện đầu tư cho phát triển giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho
người dân, từ đó cải thiện trí lực của dân số. Thứ hai, với một nền kinh tế phát
triển, Chính phủ sẽ có điều kiện để đảm bảo an ninh xã hội, thực hiện xóa đói
giảm nghèo, nâng cao sức khỏe về thể lực cho người dân. Mặt khác, nếu kinh tế
phát triển, Chính phủ sẽ có điều kiện để đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở y tế, tăng
cường đào đạo cán bộ y tế và mua sắm trang thiết bị y tế hiện đại phục vụ cho
công cuộc chăm sóc sức khỏe của người dân từ đó nâng cao chất lượng dân số.
6


Ở cấp độ kinh tế gia đình, những gia đình giàu có thường có tiền đầu tư về
giáo dục cho con cái để nâng cao trình độ học vấn. Đối với những gia đình này
vấn đề bình đẳng nam nữ về giáo dục (giữa con trai và con gái cũng được chú
ý). Đồng thời những gia đình này thường có điều kiện sống tốt (nhà ở và môi
trường gần cận gia đình: công trình vệ sinh, nước sạch). Đây cũng là điều kiện

để giúp con người ít mắc bệnh hơn đặc biệt là các bệnh thường gặp ở nước
nghèo như: Giun sán, bệnh phổi, thấp khớp, lao... Do điều kiện kinh tế gia đình
khá giả họ có điều kiện tận hưởng dịch vụ y tế hiện đại nhằm bảo vệ sức khỏe và
đẩy lùi cái chết. Tuy nhiên, khi nói đến điều kiện kinh tế ở cấp độ gia đình có
ảnh hưởng đến nâng cao chất lượng dân số là phải nói đến điều kiện kinh tế của
đại bộ phận dân cư chứ không phải là điều kiện kinh tế của một vài hộ gia đình
đơn lẻ. Vì vậy, công cuộc cải cách kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức
sống chung của toàn xã hội chính là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới cải
thiện chất lượng dân số.
3.4. Y tế
Sức khoẻ là vốn quý của con người. Giữ gìn sức khoẻ, bảo vệ và chăm
sóc sức khoẻ là nhiệm vụ của mỗi người và toàn xã hội. Sức khoẻ của mỗi người
lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: sinh học, điều kiện sống, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của từng nước, môi trường và chính sách chăm sóc sức khoẻ
quốc gia.
Ngày nay, trình độ phát triển y học và phương tiện phòng trị bệnh ngày
càng cao, nhưng lại không đồng đều giữa các quốc gia. Điều đó làm cho tỷ lệ
người có sức khoẻ tốt ở các nước nghèo thấp hơn các nước giàu. Tại các nước
nghèo tỷ lệ người mắc các bệnh như: lao, sốt rét, suy nhược cơ thể ở người lớn,
suy dinh dưỡng trẻ em, bệnh giun sán rất cao. Do sự tiến bộ về y học trên thế
giới, loài người đã không còn khiếp sợ các loại bệnh trên. Tuy nhiên, thế giới lại
xuất hiện một số bệnh khác, các bệnh này lại lan truyền rất nhanh ở cả các nước
đang phát triển và phát triển như: HIV/AIDS; bệnh căng thẳng thần kinh
(stress); H1N1…
Các chỉ báo đánh giá sự chăm sóc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, nâng
cao chất lượng dân số là:
- Chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ em: Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng các
loại vác-xin; số nhà hộ sinh trên tổng số dân; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy
dinh dưỡng…
7



- Chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại cộng đồng: số cơ sở y tế; số giường bệnh;
số nhân viên y tế (y sỹ, bác sỹ, y tá…) trên 10.000 dân; tỷ lệ các loại bệnh
đặc trưng theo vùng địa lý; tỷ lệ người nhiễm HIV…
- Sàng lọc trước sinh và sơ sinh: Tỷ lệ các cơ sở y tế có cung cấp dịch vụ
sàng lọc trước sinh và sơ sinh; Tỷ lệ phụ nữ mang thai được xét nghiệm
sàng lọc khi mang thai; Tỷ lệ trẻ sơ sinh được xét nghiệm xác định dị tật;
Tỷ lệ trẻ em được điều trị sớm các dị tật bẩm sinh…
3.5. Giáo dục
Những chỉ báo phản ảnh tình trạng của giáo dục là: tỷ lệ người đi học; số
luợng học sinh ở các cấp (nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, trung học, cao đẳng, đại
học), tỷ lệ đi học đúng tuổi ở các cấp học…
Giáo dục ảnh hưởng tới chất lượng dân số thông qua cơ chế sau:
Giáo dục ảnh hưởng tới chất lượng dân số về mặt trí tuệ. Nhờ phát triển
giáo dục, người dân được nâng cao hiểu biết và kiến thức giúp cho họ có đủ
trình độ tiếp thu khoa học – kỹ thuật mới, tiên tiến. Trình độ học vấn cao giúp
con người có tính năng động và sáng tạo, lao động tự giác, có kỷ luật và có năng
suất cao.
Giáo dục để nâng cao chất lượng dân số là quốc sách của mỗi quốc gia.
Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của các quốc gia đó mà Chính phủ quyết định
mức đầu tư cho giáo dục thích hợp.
Giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến mức sinh. Khi trình độ học vấn càng
cao thì mức sinh càng thấp. Tuy nhiên, ảnh hưởng của giáo dục đến mức sinh
chỉ dừng lại ở một giới hạn nhất định. Nếu trình độ học vấn vượt khỏi giới hạn
trên thì tác động của giáo dục đến mức sinh không còn nữa. Cần chú ý rằng, chỉ
có trình độ học vấn trung bình của toàn bộ phụ nữ cả một vùng, một tỉnh, một
nước… mới có thể tác động làm giảm mức sinh của vùng, chứ không phải là
trình độ học vấn của đơn lẻ một phụ nữ. Mức sinh giảm, số con trung bình của
mỗi phụ nữ (mỗi gia đình) ít đi, người dân có điều kiện hơn trong việc chăm sóc

dinh dưỡng, sức khoẻ và giáo dục cho các con, không phân biệt con trai hay con
gái. Qua đó, chất lượng dân số được nâng lên.
Giáo dục có tác động trực tiếp đến việc đẩy lùi cái chết. Những người có
trình độ học vấn cao thường có kiến thức về cơ chế lây truyền bệnh tật để phòng
và chữa bệnh kịp thời. Mặt khác, khi có trình độ học vấn cao, họ có điều kiện để
8


làm những công việc đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao và do đó thu nhập cao.
Khi thu nhập cao, người ta có điều kiện tận hưởng những dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ tốt hơn và vì vậy sức khoẻ của người dân được đảm bảo. Đó cũng là một
nhân tố để nâng cao chất lượng dân số.
3.6. Môi trường
Thiên nhiên đã sinh ra con người, cung cấp tài nguyên và tạo nên môi
trường sống cho con người. Mối quan hệ giữa con người và môi trường là mối
quan hệ luôn gắn bó mật thiết với nhau. Ở những vùng khí hậu ôn hoà, tài
nguyên phong phú, con người có điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Ngược lại, ở những nơi điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, con người khó có điều
kiện để cải thiện cuộc sống, nâng cao chất lượng dân số.
Tuy nhiên, cần thấy rằng các thành tố của môi trường luôn không ổn định
hoặc không hoàn toàn có lợi để con người có thể duy trì tốc độ tăng trưởng của
phát triển như một hằng số. Một thành tố của môi trường trong những điều kiện
nhất định có thể trở thành những nhân tố cản trở sự phát triển của con người. Ví
dụ, thiên tai có thể làm người chết, mùa màng bị phá hoại, làm khó khăn rất
nhiều cho việc nâng cao chất lượng sống của người dân. Mặt khác, trong mối
quan hệ với môi trường, do mức sinh cao, dân số tăng nhanh, để nâng cao chất
lượng cuộc sống con người đã không ngừng phát triển sản xuất và tăng cường
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, con người đã tàn phá môi trường, làm
thay đổi hệ sinh thái, thay đổi môi trường sống của các sinh vật và của chính bản
thân con người với xu hướng môi trường ngày càng xấu đi, gây tác hại đến sức

khỏe của con người. Hiện nay, do tình trạng đất, nước, không khí bị ô nhiễm mà
lương thực, thực phẩm mà con người sử dụng cũng bị ô nhiễm, bị nhiễm độc,
chủ yếu do phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, thuôc trừ sâu.
Giữa gia tăng dân số và ô nhiễm môi trường có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Sự gia tăng dân số quá mức dẫn tới quá tải về môi trường gây ra những phản ứng
không có lợi cho bản thân con người và qua đó làm cản trở quá trình nâng cao
chất lượng dân số.
3.7. Các yếu tố khác
Các yếu tố khác như văn hóa, thể dục thể thao, du lịch, vui chơi giải trí
cũng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và qua đó cũng
góp phần nâng cao chất lượng dân số.

9


4. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng dân số:
Dựa vào khái niệm và đặc trưng của chất lượng dân số được phân tích ở
trên, chúng ta có thể đề cập tới 3 nhóm chỉ tiêu chính sau đây có thể được sử
dụng để đánh giá chất lượng dân số:
Nhóm 1: Các chỉ tiêu về dân số
Đây là những chỉ tiêu phản ánh mức độ hợp lý về qui mô, cơ cấu và phân
bố dân số, cũng như các chỉ tiêu về các quá trình dân số cần điều chỉnh như mức
sinh, mức chết, di dân để đạt được mức độ hợp lý trên.
Nhóm 2: Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng con người
Đây là những chỉ tiêu đánh giá về năng lực của các cá nhân có thể thích
nghi tốt với xã hội như thể lực (chỉ số khối lượng cơ thể BMI, tuổi thọ khoẻ
mạnh, tỷ lệ suy dinh dưỡng..), trí tuệ (chỉ số IQ, số năm đi học trung bình..) và
năng lực xã hội (chỉ số kỹ năng nghề nghiệp..) của con người.
Nhóm 3: Các chỉ tiêu về môi trường kinh tế xã hội
Nhóm chỉ tiêu này đánh giá mức độ thuận lợi, đầy đủ trong môi

trường kinh tế xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển hoàn thiện của con người.
Ví dụ về mặt kinh tế, thu nhập, việc làm có thể sử dụng các chỉ tiêu như GDP
bình quân đầu người, chỉ số nghèo khổ, tỷ lệ thất nghiệp, mức thu nhập bình
quân, diện tích nhà ở bình quân..; về giáo dục đào tạo sử dụng các chỉ tiêu
như tỷ lệ học sinh đến trường đúng tuổi, tỷ lệ học sinh bỏ học theo giới tính,...;
về mặt bảo vệ chăm sóc sức khoẻ, sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hóa gia đình
sử dụng các chỉ tiêu như: tỷ lệ phụ nữ có thai được khám thai, tỷ lệ trẻ em dưới
một tuổi được tiêm chủng đủ 6 loại vaccin, tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh
thai, số cán bộ y tế, giường bệnh/1000 dân, tỷ lệ nhiễm HIV, tỷ lệ mang thai
ngoài ý muốn và phá thai (đặc biệt ở tuổi vị thành niên, thanh niên )...;
Hay một số chỉ tiêu tổng hợp phản ánh các thành tựu và mức độ bình đẳng
công bằng trong xã hội như: chỉ số phát triển con người HDI, chỉ số phát triển
giới GDI (tương tự HDI nhưng tính riêng cho từng giới), chỉ số tạo quyền về
giới GEM (đo mối tương quan giới trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính
trị và quyền ra quyết định), chỉ số nghèo nhân văn HPI (phản ánh mặt không
thành công của phát triển nhân văn), chỉ số đo lường mức độ mất công bằng
trong phân phối thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo
dục, nước sạch giữa các cá nhân và hộ gia đình trong cộng đồng GINI, chỉ số
10


bền vững địa phương LSI (đánh giá mức độ bền vững trong phát triển kinh tế
xã hội của một địa phương)...
Những chỉ tiêu trên có thể được liệt kê đầy đủ hơn nữa và đối với mỗi
ngành và lĩnh vực có thể lựa chọn một số trong các chỉ tiêu đó làm mục tiêu cho
các hoạt động của mình, góp phần nâng cao chất lượng dân số.

11



II – GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
2.1. Nội dung của nâng cao chất lượng dân số
 Nâng cao thể chất:
Thể chất con người phụ thuộc vào quy luật di truyền ( các yếu tố gen,
giống nòi, giới tính…), yếu tố môi trường, yếu tố chăm sóc dinh dưỡng; phụ
thuộc vào tình trạng sức khỏe, hoạt động thể lực (sự rèn luyện sức khỏe, thể
dục thể thao, lao động, vui chơi giải trí…); phụ thuộc vào chất lượng đời sống,
gia đình và xã hội…Nâng cao về thể chất là những nỗ lực của chính quyền và
người dân bằng các biện pháp khác nhau để nâng cao các số đo về chiều cao,
cân nặng, sức mạnh, tốc độ, sức bền, sự khéo léo, dinh dưỡng, bệnh tật, tuổi
thọ của dân số đồng thời cải thiện tốt hơn các yếu tố giống nòi, gen di truyền
(như giảm tật nguyền bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ…) của người dân.
Sự cải thiện và nâng cao trình độ thể chất được đánh giá bằng sự cải
thiện và nâng cao các chỉ tiêu thành phần :
-

Chiều cao trung bình của thanh niên 20 tuổi;

-

Cân nặng trung bình của thanh niên 20 tuổi;

-

Chỉ số khối lượng cơ thể (BMI) trung bình của thanh niên 20 tuổi;

-

Tuổi thọ bình quân;


-

Tỷ lệ phụ nữ từ 15 - 49 tuổi có chồng hiện đang sử dụng các biện pháp
tránh thai;

-

Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
 Nâng cao trí tuệ

Trí tuệ con người phát triển phụ thuộc vào các yếu tố: di truyền, chăm sóc
sức khỏe và dinh dưỡng từ bào thai, chất lượng chăm sóc và giáo dục của gia
đình, nhà trường và cộng đồng, chất lượng đào tạo và dạy nghề, môi trường xã
hội, hoạt động giải trí và quá trình tự học hỏi của các cá nhân. Nâng cao về trí
tuệ chính là nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, phát huy
năng lực sáng tạo…Một nguồn nhân lực được xem là có chất lượng cao khi có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, kỹ năng lao động thành thạo.
12


Trí tuệ được đánh giá bằng các tiêu chí:
-

Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ;

-

Học sinh đi học mẫu giáo trên 1000 dân;

-


Tỷ lệ đi học trung học phổ thông.

-

Tỷ lệ lao động được đào tạo.

 Nâng cao tinh thần
Nâng cao yếu tố tinh thần phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản như văn hóa,
chính trị, giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, truyền thống gia đình, dòng họ, dân tộc;
chất lượng đời sống văn hóa; thông tin và giải trí; điều kiện môi trường xã hội
phát triển, môi trường gia đình; phong tục, tập quán tốt và các phong trào xã
hội, văn hóa nghệ thuật và sinh hoạt tôn giáo…Nâng cao về tinh thần của con
người là các nỗ lực của chính quyền và người dân nhằm nâng cao ý thức và
tính năng động xã hội của con người thể hiện qua sự gia tăng mức độ tiếp cận,
hưởng thụ và tham gia các dịch vụ xã hội, văn hóa, thông tin, vui chơi, giải trí
của người dân.
Sự cải thiện và nâng cao tinh thần đánh giá qua các chỉ tiêu:
-

Tỷ lệ gia đình được công nhận là gia đình văn hóa;

-

Số vụ tai nạn giao thông tính trên 100 nghìn dân;

-

Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng internet trên 100 nghìn dân.


 Nâng cao đời sống vật chất và các dịch vụ xã hội cơ bản
Nâng cao đời sống vật chất và các dịch vụ xã hội cơ bản nhằm đáp ứng
nhu cầu cuộc sống, cung cấp, tư vấn các vấn đề giáo dục, y tế và các dịch vụ xã
hội khác. Một dân số có chất lượng cao phải là cộng đồng hoạt động có hiệu
quả, đạt kết quả cao trong các hoạt động kinh tế - xã hội cũng như có tăng
trưởng kinh tế hợp lý với các tiêu chí:
-

Thu nhập bình quân đầu người;

-

Tỷ lệ nghèo;

-

Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch;
13


-



2.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng dân số
Để nâng cao chất lượng dân số trong giai đoạn hiện nay và thời gian
tới, Nhà nước và chính quyền cần phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ:
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, khơi dậy phong trào mọi
người dân thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, có lối sống lành mạnh, chế
độ dinh dưỡng hợp lý để nâng cao sức khoẻ, tầm vóc, thể lực người Việt Nam.

Nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về cấm tảo
hôn và hôn nhân cận huyết thống. Bảo đảm quyền cơ bản của con người; quyền
phát triển đầy đủ, bình đẳng về thể chất, trí tuệ, tinh thần; hỗ trợ nâng cao những
chỉ số cơ bản về chiều cao, cân nặng, sức bền; tăng tuổi thọ bình quân; nâng cao
trình độ học vấn và tăng thu nhập bình quân đầu người;
2. Tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện
thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số;
3. Đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, đặc
biệt về giáo dục, y tế để cải thiện chất lượng sống và nâng cao chất lượng dân
số; Tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giảm tỉ lệ bệnh tật, giảm tử
vong, tăng tuổi thọ và số năm trung bình sống khỏe mạnh; thực hiện tốt các
chương trình, biện pháp để nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam.
4. Hỗ trợ đối với vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, người dân tộc thiểu số rất ít người,
người các dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, người thuộc hộ nghèo, cận
nghèo, người có công với cách mạng, người khuyết tật để nâng cao chất lượng
dân số.
 Biện pháp bảo vệ sức khỏe, nâng cao tầm vóc, thể lực, trí tuệ,
tinh thần:
a) Tuyên truyền, giáo dục, tư vấn về kiến thức, kỹ năng để người dân có
năng lực lựa chọn, thực hiện các biện pháp, dịch vụ nâng cao chất lượng dân số;
đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, tạo phong trào mọi người dân thường
xuyên luyện tập thể dục thể thao, có lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp
lý để nâng cao sức khỏe, tầm vóc, thể lực người Việt Nam;
14


b) Đa dạng hóa các loại hình cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cộng,
phát triển sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, giáo dục và đào tạo, văn hóa,

thông tin để tạo cơ hội cho người dân được lựa chọn và tiếp cận dịch vụ đa dạng,
thuận tiện;
c) Thực hiện chính sách, biện pháp hỗ trợ đối với vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, hỗ
trợ các nhóm đối tượng theo quy định của pháp luật về ngành, lĩnh vực liên
quan.
 Biện pháp tầm soát bệnh tật bẩm sinh:
Nâng cao chất lượng dân số cần phải được bắt đầu bằng những can thiệp
nhằm cho ra đời những đứa trẻ hoàn toàn khỏe mạnh, thông minh, có điều kiện
phát triển về thể chất và trí tuệ.
a) Tư vấn, khám sức khỏe trước hôn nhân: Khuyến khích nam, nữ, người
có nguy cơ cao ảnh hưởng đến việc mang thai, sinh con và con có nguy cơ bị
bệnh, tật bẩm sinh thực hiện tư vấn, khám sức khỏe trước hôn nhân, tự nguyện
trao đổi thông tin về kết quả khám sức khỏe và những ảnh hưởng đến việc mang
thai, sinh con và con có nguy cơ bị bệnh, tật bẩm sinh
b) Tư vấn, tầm soát, chẩn đoán, điều trị trước sinh; tầm soát, chẩn đoán,
điều trị sơ sinh: Khuyến khích phụ nữ mang thai, phụ nữ mang thai có nguy cơ
cao sinh con bị bệnh, tật bẩm sinh tham gia tư vấn, tầm soát, chẩn đoán, điều trị
trước sinh. Việc tầm soát, chẩn đoán, điều trị trước sinh đối với người mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo quy định tại Khoản 2 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia
đình phải bắt buộc thực hiện. Cha, mẹ hoặc thành viên khác trong gia đình chủ
động, tự nguyện cho trẻ sơ sinh tham gia tầm soát, chẩn đoán, điều trị sơ sinh
 Biện pháp chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục đối với
người chưa thành niên, thanh niên
1. Người chưa thành niên, thanh niên cần được cung cấp các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục có chất lượng, thuận tiện, an toàn
và thân thiện; được giữ bí mật theo quy định của pháp luật; được cung cấp kiến
thức chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục phù hợp với độ tuổi.
2. Người chưa thành niên, thanh niên phải có trách nhiệm thực hiện pháp
luật về về dân số, hôn nhân và gia đình; thực hiện nếp sống, lối sống lành mạnh;

chủ động học tập, tiếp thu các kiến thức về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục;
thực hiện phòng, chống ma tuý, phòng ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình
dục và các bệnh xã hội khác.
Nhà nước có trách nhiệm:
15


a) Ban hành chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ
chức, cá nhân đầu tư xây dựng và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản,
sức khỏe tình dục;
b) Đáp ứng nhu cầu tư vấn, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản,
sức khỏe tình dục đối với người chưa thành niên, thanh niên;
c) Giảng dạy về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, giáo dục giới tính
trong nhà trường, phù hợp với cấp học và bậc học;
c) Tổ chức quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục đối với người chưa thành
niên, thanh niên;
Gia đình có trách nhiệm: quản lý, giáo dục và cung cấp kiến thức về
chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, giáo dục giới tính; phòng, chống
ma tuý, phòng ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục và các bệnh xã hội
khác; nâng cao sức khoẻ, phát triển thể chất, thực hiện nếp sống lành mạnh cho
người chưa thành niên, thanh niên.
 Biện pháp nâng cao chất lượng cuộc sống người dân:
Nhà nước cần có cơ chế, chính sách phù hợp để nâng cao chất lượng cuộc
sống cho nhân dân như:
- Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
- Xóa đói giảm nghèo
- Đảm bảo nhu cầu lương thực và dinh dưỡng
- Phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực.
- Phát triển y tế và chăm sóc sức khỏe

- Nâng cao điều kiện sống và môi trường sống
- Tăng cường văn hóa tinh thần và an ninh xã hội

Trong các giải pháp trên, cần ưu tiên giải pháp tạo việc làm cho người lao
động, có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài gắn với chiến
lược phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đó chính là chỗ dựa vững chắc để phát
triển bền vững.

16


KẾT LUẬN

Chất lượng dân số bao hàm các yếu tố về thể lực, tinh thần, trí tuệ;
được xem như thước đo mức sống, trình độ và sự tiến bộ của một vùng,
một quốc gia. Nâng cao chất lượng dân số giúp xã hội được ổn định, tiến
bộ, công bằng, văn minh; nền kinh tế phát triển, mọi người đều có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mọi áp bức bất công của xã hội từng bước bị
loại trừ; môi trường thiên nhiên được bảo vệ; đời sống vật chất, tinh thần
của người dân ngày càng hoàn thiện hơn, loại bỏ được đói nghèo; con
người có cơ hội nhiều hơn trong việc phát huy tài năng, năng lực sáng tạo.
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số;
phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số. Đưa nội dung
dân số và phát triển vào chương trình đào tạo, tập huấn, nghiên cứu khoa học.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý, cung cấp dịch vụ, tạo thuận lợi cho người dân…
Nâng cao chất lượng dân số cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, có sự
chung tay của nhà nước, nhân dân và toàn thể xã hội.

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Pháp lệnh dân số 2003; />2. Dự thảo luật dân số;
/>_piref135_27935_135_27927_27927.mode=detail&_piref135_27935_135_2792
7_27927.id=2012
3. Tổng cục thống kê: “Tổng điều tra dân số giữa kỳ 2014”;
/>4. PGS.TS Nguyễn Nam Phương (chủ biên), Giáo trình dân số phát triển (phần
1); />5. Lê Thị Hồng Quế, Luận văn Thạc sỹ: “ Chất lượng dân số quận Bình Tân
trong quá trình đô thị hóa”. />6. Đinh Thị Ngọc Châu, Luận văn Thạc sỹ: “ Giải pháp nâng cao chất lượng dân
số tỉnh Quảng Nam”. />
18



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×