Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Phân tích đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.94 KB, 9 trang )

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

1. Tác giả: Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên thật là Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là
Prancois.

Cuộc đời Hàn Mặc Tử là chuỗi ngày của sóng gió và bất hạnh nhưng lại gắn liền
với chữ BÌNH. Ông sinh ra ở Đồng Hới, Quảng Bình; làm báo Lan Bình; có người
yêu ở Bình Thuận và mất ở Bình Định.

Hàn Mặc Tử là nhà thơ nổi tiếng sớm nhất và cũng là khởi đầu cho dòng thơ lãng
mạn Việt Nam. Cùng vơi Chế Lan Viên, Yến Lan, Hàn mặc Tử khởi xướng ra
trường thơ loạn, trường thơ điên. Ông có tài năng thơ từ rất sớm và đã từng gặp gỡ
Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của thi sĩ này.

Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử là một trong nhũng nhà thơ có
sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Ông làm thơ từ năm 14 – 15
tuổi với các bút danh: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh…

Hàn Mặc Tử bắt đầu bằng thơ cổ điển Đường luật. Sau ông chuyển hẳn sang sáng
tác theo khuynh hướng thơ lãng mạn mới. Qua diện mạo hết sức phức tạp và đây bí
ẩn của thơ mới, người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời
trần thế trong thơ Hàn Mặc Tử.

Tác phẩm chính: Gái quê (1936). Thơ Điên (1938), Xuân như ý, Thượng thanh khí,
Cảm châu duyên, Duvên kì ngộ (kịch thơ 1939), Quần tiên hội (kịch thơ), Chơi
giữa mùa trăng (thơ văn xuôi 1940)


Những nàng thơ thoáng qua cuộc đời Hàn Mạc Tử:

HOÀNG THỊ KIM CÚC: Gốc HuẾ (1913 – 3/2/1989). Năm 1932. Hàn Mặc Tử


gặp và thương Kim Cúc nhưng vì nhút nhát nên chỉ dám bày tỏ qua thơ.

MỘNG CẦM (Phan Thiết). Năm 1935. Hàn Mặc Tử gặp và thương Mộng Cầm.
Họ thường cùng nhau đi chơi biển Mũi Né. Năm 1936, vì biết mình có bệnh, ông
chia tay Mộng Cầm và rời Phan Thiết.

MAI ĐÌNH (gốc Thanh Hóa, sinh năm 1919 – mất năm 1999). Mai Đình là bạn
thuở nhỏ của Hàn Mặc Tử và thầm yêu ông qua tập thơ Gái Quê. Năm 1939, bà ra
Quy Nhơn nuôi Hàn Mặc Tử trong lúc bệnh hoạn.

NGOC SƯƠNG (Gốc Quang Ngãi, SINH 1914 – MẤT 2002). Ngọc Sương là dì
ruột của Mộng cầm và là chị ruột của nhà thơ Bích Khê. Do không chiếm được
tình cảm của Hàn Mặc Tử , bà buồn và quyết định khoác áo soeur.

THƯƠNG THƯƠNG (gốc Huế sinh1924). Thương Thương là cháu họ gọi nhà văn
Trần Thanh Địch là chú. Để an ủi bạn trong cơn hiểm nghèo, Trần Thanh Địch mạo
nhận Thương Thương viết thư tình gửi cho Hàn Mặc Tử.

2. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Xuất xứ: Lúc đầu bài thơ có tên Ở đãy thôn Vĩ Dạ, sáng tác vào năm 1938, in trong
tập Thơ điên (về sau dổi thành Đau thương) xuất bản sau khi nhà thơ qua đời.

Hoàn cảnh sáng tác: Khi Hàn Mặc Tử về Quy Nhơn chữa bệnh, nhận được bức
bưu ảnh và những lời thăm hỏi của Kim Cúc một người con gái lúc mà Hàn Mặc


Tử đã có tình cảm thắm thiết gửi ra Quy Nhơn. Chính tâm thiếp và những lời thăm
hỏi dó đã gợi cảm hứng đế Hàn Mặc Tử viêt

Thể loại: thơ mới, dạng thất ngôn tứ tuyệt liên hoàn.


Nội dung: Bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn,
nỗi cô đơn của Hàn Mặc Tử trong một mối tình xa xăm, vô vọng. Đó còn là tâm
lòng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, cuộc sống và con người.

II. Phân tích bài thơ:

Bài thơ nói về một tình yêu đơn phương, thơ mộng, trong sáng, lung linh, huyền
ảo. Đồng thời còn là một bức tranh thi vị về xứ Huế.

Nhan đề: Đây thôn Vĩ Dạ như một lời giới thiệu, lời mời chào.

Cảnh sắc xứ Huế mông mơ và con người huế hiền hậu:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.


Mở đầu khổ thơ là những ấn tượng về mảnh vườn thôn Vĩ trong ánh nắng tinh khôi
của buôi ban mai. Câu mở đầu là câu hỏi nhưng lại gợi cảm giác như lời trách nhẹ
nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết cứa cô gái thôn Vĩ với nhà thơ (hay đấy cũng
là lời nhà thơ tự trách, tự hỏi mình, là ước ao thầm kín của người đi xa được về lại
thôn Vĩ). Tác giả không dùng hai chữ “về thăm” mà dùng hai chữ “về chơi” mang
sắc thái thân mật, tự nhiên, chân tình hơn. Câu hỏi như vọng lên lừ một phương
trời xa xôi ấy đã là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hôn nhà thơ bao kỉ niệm sâu
sắc. bao hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu về xứ Huế.

Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên trong hồi tưởng, Hàn Mặc Tử

không tả mà chi gợi những gì gây ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc còn lưu lại trong
tâm trí người ở nơi xa.

Trước hết là “Nắng hàng cau nắng mới lên” ba chữ nang hàng cau gợi sắc thái bình
dị mà thanh cao. Thôn Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp, cao vút, vượt lên trên
những cây khác (thứ cây đầu tiên nhận ánh sáng của một ngày), những tàu cau còn
đọng sương đêm, hút lây ánh sáng, lấp lánh ánh mặt trời buổi sớm mai.

Tác giả còn gợi được vẻ đẹp của nắng ở đây. Đó là nắng mới lên thật trong trẻo,
tinh khôi, gợi sức sống đang vươn lên trên những khu vườn tươi dẹp của thôn Vĩ.
Cái thần thái của thôn Vĩ là vườn cây xanh. Vườn bao bọc quanh nhà. Cấu trúc
vườn nhà – nhà vườn được chăm sóc chu đáo vốn là đặc trưng xứ Huế. Những
khóm hoa, cây cảnh vốn đã xanh tươi lại được những bàn tay khéo léo chăm sóc
nên càng thêm đẹp thêm tươi.

“Vườn ai” (hay chính vườn nhà em) biểu lộ sự ngỡ ngàng. Hai từ “mướt quá” gợi
vẻ tươi tốt, đầy sức sống của vườn cây. “Vườn ai mướt quá” như lời cảm thán
mang sắc thái ngợi ca. “Xanh như ngọc” là một so sánh thật đẹp, gợi hình ảnh
những lá cây xanh mướt, mượt mà được ánh mặt trời rực rỡ của buổi sớm mai
chiếu xuyên qua trở nên có màu xanh trong suốt và ánh lên như ánh ngọc.


Và thấp thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc có bóng ai đó
kín đáo, dịu dàng, phúc hậu:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

Mặt chữ điền là phép hoán dụ. Hình ảnh “mặt chữ điền” gợi vẻ đẹp tâm hồn. Đó là
tính cách cương trực, phúc hậu, lại che ngang tôn rõ thêm nét kín đáo. Sự xuất hiện
của con người càng làm cho cảnh thêm sinh động.


Ngav khổ thơ đầu, ta đã cảm nhận được cái thần thái của thôn Vĩ với cảnh xinh
xắn, con người phúc hậu, thiên nhiên và con người hài hòa với nhau trong một vẻ
đẹp kín đáo, dịu dàng.

Tâm trí nhà thơ hướng về một hình ảnh không thể tách rời thôn Vĩ. Đó là dòng
sông Hương hiền hòa:

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tiếp nối mạch cảm xúc ở khố đầu, ở khổ thơ thứ 2 tác giả đặc tả cảnh sông nước
mây trời xứ Huế và bộc lộ niềm hoài vọng bâng khuâng. Thiên nhiên như có biến
chuyển từ bình minh nắng mới lên đến chiều hoàng hôn vắng lặng rồi đêm trăng
huyền ảo. Đang vui vẻ ấm áp bỗng nhiên chia hai, đau xót đến tột cùng.


Hình ảnh dòng sông Hương gắn với khói mây và con thuyền ai đó đang đậu dưới
ánh trăng nơi bến vắng. Nếu hai câu đầu tả thực vẻ êm đềm, nhịp điệu khoan thai
của xứ Huê: gió mây nhè nhẹ bay đi, dòng nước chảy lững lờ, cây cỏ khẽ đung
đưa.

Phép điệp: gió – mây thể hiện sự ngăn cách quyết liệt. Biện pháp nhân hóa gió,
mây, dòng sông khiến cho hình ảnh thơ trở nên lung linh, gợi cảm. Gió thổi mây
bay. Nhờ gió mà dòng sông có sóng, có sự sống động. Thế nhưng ở đây mây và gió
lại rời xa nhau, làm tăng thêm cái trống vắng của không gian. Hay nói đúng hơn rất
ít mây và gió cho nên dòng sông lặng lẽ, buồn thiu và cây cỏ bên bờ chỉ khẽ lay
động rất nhẹ. Cảnh đẹp nhưng thật lạnh lẽo, chia lìa tan tác. Đoạn thơ phản phất

nỗi u buồn, cô dơn của nhà thơ.

Hai câu sau cho thấy tâm hồn thi nhân có buồn và cô đơn nhưng vẫn chan chứa
tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Đây là cảnh thực mà cứ như ảo. Lặng đi trong buôn đau, tác giả trở về với cõi
mộng, với thế giới vầng trăng. Hai câu thơ đầy trăng: con thuyên chở trăng – một
dòng sông trăng – một bến sông trăng. Tác giả miêu tả một đêm trăng sáng trên
dòng sông Hương. Sông Hương không gì thơ mộng hơn là dưới ánh trăng. Hàn
Mặc Tử cũng không mê gì hơn mê trăng. Trăng đối với thi nhân không chỉ là cảnh
quang để thưởng ngoạn mà còn là nơi để gửi gắm niềm tin yêu.


Tác giả dùng hình ảnh gợi cảm khắc họa cảnh đẹp huyền ảo, thơ mộng. Hình ảnh
“thuyền chở trăng” không có gì mới nhưng “sông trăng” lại là một khám phá riêng
của thi nhân. Ai có thể thờ ơ trước một dòng sông trăng? Câu hỏi tu từ “Có chở
trăng về kịp tối nay? đau đáu một nỗi niềm mong đợi, biểu hiện niềm khao khát
gặp gỡ đến thiết tha. Chữ’ “kịp” là cảm giác về một hiện tại quá ngắn ngũi của Hàn
mạc Tử. Khổ thơ kết thúc bàng một tín hiệu mong chờ, lời khấn cầu chứa đựng
hoài nghi lo sợ, hy vọng mong manh.

Nếu hai khổ thơ đầu, ý thơ còn chút rộn ràng thì đến khổ thơ cuối lại thuộc về một
không gian hoàn toàn khác. Thi nhân đã về với nơi chốn mình là ở đấy nơi mà thi
nhân đang ngóng về thôn Vĩ. Nhà thơ nói về con người xứ Huế. Cảnh vật và con
người như chìm vào mộng ảo. Tác giả như lặng đi trong mơ tưởng:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Đọc khổ thơ này ta dường như không còn thấy vẻ đẹp của Huế mà chỉ còn lại nỗi
đau buồn của con người. Khổ thơ mở đầu bằng một lời thốt ra trước hình ảnh ai dó
tuy mờ ảo nhưng có thật. Mờ ảo vì khách đường xa. Nhận không ra có thật vì áo
em trắng. Hình ảnh chứa đựng biết bao thân thương nhưng rất đỗi xa vời.

Điệp ngữ “khách đường xa” nhấn mạnh sự xa cách. Xa về không gian, thời gian
mà còn xa về tâm hồn, tình cảm. Việc đến Huế chỉ là giấc mơ do tâm trạng chán
nản vì bệnh tật. Đó là một giấc mơ có cả sự khao khát một cái gì đó mà mình cảm
thấy lung linh huyền ảo, tươi đẹp, trắng trong nhưng không bao giờ với tới:


“Áo em trăng quá nhìn không ra”

Tâm hồn em thánh thiện quá, hạnh phúc đến bất ngờ. Thi nhân say men sắc màu
trinh trắng đến choáng váng nhìn không ra hay bức thư của Hoàng Cúc đã làm thức
dậy hình bóng xa xôi một nữ sinh Đồng Khánh thuở nào? Tình cảm của người con
gái Huế quá trong sáng, ngây thơ rất đáng trân trọng nhưng Hàn Mặc Tử chỉ nghĩ
đến tình yêu hư ảo.

Cuối bài thơ là sự khép lại một tâm trạng hoài nghi, bâng khuâng: “Ở đâv sương
khỏi mờ nhăn ảnh”. Đúng là Huế mưa nhiều lắm, sương khói lắm. Sương khói
trắng, áo em trắng, không gian toàn màu trang. Có hay không bóng hình em trong
khói sương mờ nhạt kìa hay em chỉ là ảo ảnh. Yêu mà không nhận diện được hình
bóng người yêu, không nắm bắt được tình cảm người yêu -> rơi vào lâm trạng ray
rứt. bâng khuâng:


“Ai biết tình ai có đậm đà”

Câu hỏi day dứt, băn khoăn về một mối tình đơn phương. Đại từ phiếm chỉ “ai” tạo
tính đa nghĩa cho câu thơ. “Ai” là anh hay là em. Anh biết tình em có đậm đà hay
là Em biết tình anh đậm đà vẫn là một câu hỏi chơi vơi, không có lời giải đáp.

gắn với mối tình đơn phương nhưng khổ thơ không chỉ minh họa cho mối tình giữa
thi sĩ và người bạn gái. Đặt trong dòng kỉ niệm về Huế, bài thơ còn có một ý nghĩa
khác. Trong sương khói của đất kinh thành Huế những thiếu nữ Huế tươi đẹp quá,
kín đáo, huyền ảo quá. Nào ai biết tình yêu của họ bền chặt? Liệu khi yêu tình cảm
có đậm đà? Đây không phải là đánh giá hay trách móc ai. Tình cảm càng thiết tha
thì càng tiếc nuối. Bài thơ là một chút nhăn nhủ, trách móc của trái tim khao khát
yêu thương mà không đến được tình yêu trọn vẹn.


Kết luận:
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên
tưởng, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của thi sĩ Hàn Mặc Tử là bức tranh đẹp về một miền
quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu người, thủy chung với
cuộc đời.



×