Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Thuyết minh về cải lương nghệ thuật sân khấu truyền thống nam bộ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.54 KB, 3 trang )

Thuyết minh về cải lương nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam Bộ Việt Nam
- Ngữ Văn 12
Bình chọn:

Người Kinh Bắc tự hào khi nhắc đến dân ca quan họ. Người xứ Huế lại tự hào về những câu Nam ai,
Nam bình, những điệu hò mái nhì, mái đẩy man mác.



Thuyết minh về ca Huế - Ngữ Văn 12



Thuyết minh vể Bến Nhà Rồng - Ngữ Văn 12



Thuyết minh về quần thể di tích cố đô Huế - một di sản thế giới - Ngữ Văn 12



Thuyết minh về vai trò của rừng với cuộc sống - Ngữ Văn 12

Xem thêm: Nghị luận xã hội lớp 12 Học trực tuyến Môn Văn học

Bài làm
Người Kinh Bắc tự hào khi nhắc đến dân ca quan họ. Người xứ Huế lại tự hào về những câu
Nam ai, Nam bình, những điệu hò mái nhì, mái đẩy man mác. Người dân Nam Bộ cũng hãnh
diện khi nói về những câu cải lương mùi mẫn làm say lòng ngưòi.
Cải lương là một làn điệu đặc trưng của mảnh đất phương Nam. Hay nói cách khác Miền Nam
của xứ Việt Nam là nơi phát xuất cải lương. Con người miền Nam có một đời sống nhàn hạ,


sung túc. Ruộng cò bay thẳng cánh. Cá đầy sông, rạch. Không lo đói nhờ đất đai phì nhiêu, rau
và lúa gạo đầy đồng. Người miền Nam mang dòng máu của những dân đến sinh sống trên đất
Nam kỳ đầu tiên. Dân ca miền Nam phối hợp những đặc trưng của dân ca miền Bắc miền
Trung, thêm vào đó những sắc thái cổ truyền của nhạc Cao Miên, Trung Hoa, Chàm. Do đó,
dân ca rất phong phú về giai điệu cũng như tiết tấu qua những điệu lý, điệu hò, nói thơ. Cải
lương đầu thế kỷ XX, làm phong phú thêm cho những làn điệu dân ca đất phương Nam. Cùng
với sự ra đời của tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới... sự ra đời. Cải lương được xem như là sản
phẩm mang tính tất yếu của lịch sử. Nó hình thành từ sự tiếp xúc giữa nền văn hóa nông
nghiệp lúa nước và nền văn hóa công nghiệp phương Tây. Nếu như kịch nói có lịch sử lâu đời
và nguồn gốc từ phương Tây, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa, của quan điếm thẩm
mỹ phương Tây thì sự ra đời của Cải lương có nguồn gốc từ nghệ thuật truyền thống dân tộc
và sự du nhập lối biên kịch châu Âu. Yếu tố đầu tiên mang tính cội nguồn của nghệ thuật cải
lương lá âm nhạc tài tử Nam Bộ. Thời ấy, Tuồng (Hát bội) không còn giữ vị trí độc tôn trong
thường thức nghệ thuật trình diễn của đồng bào miền Nam, nên từ các vùng nông thôn bắt đầu
phong trào đờn ca tài tử phục vụ trong các cuộc vui như lễ cưới, lễ hỏi, đám tiệc, đám giỗ...
Theo một số nhà nghiên cứu, tiền thân của Cải Lương là nhạc tài tử biến thành "ca ra bộ" tại
nhà Ổng Cai tổng Tống Hữu Định (Ông Phó 12) tại Vĩnh Long năm 1917. Khi ca bài Tứ đại oán
với tích Bùi Kiệm thi rớt trở về, Cô Ba Định, vai Nguyệt Nga, ông giáo Diệp Minh Ký đóng vai
Bùi Kiệm, ông Giáo Du, vai Bùi Ông, vừa ca vừa ra bộ. Và từ đó đã sinh ra loại "Ca ra bộ". Sự


khởi đầu của hình thức này được đánh dấu tại cuộc trình diễn của nhóm ca nhạc tài tử trên sân
khấu hộp trong đó có cô Ba Đắc tại Hội chợ thuộc địa tại Pháp. Sau này ca ra bộ phát triển như
một trào lưu tại Nam bộ. Tiết mục được trình diễn rất thô sơ trên một bộ ván gỗ, diễn viên vừa
ca, vừa diễn với điệu bộ, động tác minh họa. Ca ra bộ chính là gạch nối giữa hình thái âm nhạc
và hình thái sân khâu. Và sau này trở thành Hát cải lương. Sau đó nhờ những soạn giả như
ông Trương Duy Toàn, Mộc quán Nguyễn Trọng Quyền... viết lại từng mảng các chuyện tích
xưa để diễn ca ra bộ, với hình thức đối ca, liên ca rồi kết hợp lại thành những vở tuồng Cải
lương đầu tiên như Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều... Cải lương hình thành và phát triển rất mau
nhờ những đóng góp cùa những bậc tài danh như Năm Phi, Năm Châu, Trần Hữu Trang, Tư

Chơi, Năm Nờ, Phùng Há... Bước đầu hình thành, Cải lương giống như tên gọi cũng chịu ảnh
hưởng đủ thứ nghệ thuật (đầu Ngô mình Sở). Tình trạng hỗn độn trong trang phục, hay phong
cách diễn vẫn thường xảy ra; chẳng hạn diễn viên đóng Lã Bố mang giày bốt, đóng Điêu
Thuyền mặc áo dài, cột dây ngang lưng, đầu thắt bánh lái, cũng hát đủ kiểu tích Tau, chuyện
Tây. Tuy nhiên, những gì phi nghệ thuật làm mất bản sắc dân gian dần bị đào thải. Nhờ các tác
giá có tri thức, có tài năng mà sân khâu cải lương hình thành hai dòng: tuồng Tàu và tuồng Tây
mà sau này các nhà cứu sân khấu khẳng định là Cải lương có hai phương pháp: phương pháp
hiện thực tâm lý và phương pháp biểu hiện tả ý. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ,
nếu nói hát bội là loại hình nghệ thuật cũ, kịch nói là loại nghệ thuật mới thì Cải lương lại đứng
giữa cái cũ và cái mới. Tính dân tộc của phương pháp biểu hiện tả ý và tính hiện đại qua
phương pháp tả thực tâm lí sân khấu Cải lương vừa dân tộc vừa hiện đại là do kết hợp một
cách tài tình phương pháp hiện thực tâm lý và biểu hiện tả ý đó.
Về đề tài kịch bản không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung Quốc hay Việt Nam mà còn lấy trong
các tiểu thuyết hay những cốt truyện do tác giả kịch bản đặt ra. Về nghệ thuật biểu diễn: Thật
mà đẹp. Không còn ước lệ như trong hát bội. Dùng giọng thật, tự nhiên. Không có những giọng
mé, giọng hầu..v.v…Dàn nhạc tài tử lúc hòa tấu ở phòng khách (đàn hát sa-lông) thường gồm
có: đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn độc huyền, sáo hay tiêu, mỗi thứ nhạc cụ chi có một. Có
người hát thì thêm phách hay song lang. Khi trở thành dàn nhạc cải thì số lưọng nhạc cụ trở
thành quan trọng hơn: trống ban, song lang, cặp não bạt, đổng la, đàn cò, đàn gáo, đàn kìm,
đàn tam, đàn đoản, đàn tranh. Lại thêm sáo, tiêu, kèn cùn, kèn nàm. Sau này có thêm đàn độc
huyền, đàn xến, ghi ta phím lõm (còn gọi là lục huyền cầm), tam thập lục, vi-ô-lông, hạ uy cấm.
Cây lục huyền cầm hay ghi-ta phím lõm có nhiều khả năng về cung bậc, âm thanh trầm bổng lại
có thể luyến láy do phím móc sâu. Từ 40 năm nay, ghi-ta phím lõm giữ vai trò chính trong dàn
nhạc cải lương, và sau này đàn ghi ta phím lõm có gắn điện giống ghi-ta điện. Ngoài dàn nhạc
cổ, còn có thêm dàn nhạc Tây phương với piano, saxo, clarinette, trống, ghi-ta điện, và đàn
synthé hay organ.
Những bài bản được nghe trong tuồng cải lương đều phát xuất từ dân ca nhạc miền Nam phần
lớn, và những làn điệu trong nhạc đàn tài từ, một loại nhạc thính phòng miền Nam. Có thể phân
loại một số bài bản thông dụng. Từ những điệu ca dân gian như những điệu Lý (chẳng hạn từ
điệu Lý ngựa ô biến thành điệu cải lương Ô Mã 18 câu nhịp đôi). Từ nhữn



Xem thêm tại: />


×