Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Nhìn lại bi kịch của chí phèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.57 KB, 12 trang )

Nhìn lại bi kịch của Chí Phèo

Trước hết, cần xuất phát từ việc nhìn lại cấu trúc thời gian và kết cấu của truyện
ngắn này.

Tác phẩm mở đầu bằng cái buổi chiều Chí Phèo uống say và lên cơn chửi. Buổi
chiều đó kéo dài qua những đoạn hồi cố nhằm dựng lại cuộc đời Chí, trượt xuống
thành buổi tối khi cái bóng xệch xạc dưới trăng làm hắn quên ý định báo thù, nảy
sinh từ sự vô vọng của tiếng chửi, và rẽ vào nhà Tự Lãng. Sau cuộc rượu với kẻ tri
kỷ cuồng, đêm đó hắn gặp kẻ tri âm của đời mình: Thị Nở. Sáng hôm sau hắn tỉnh,
không chỉ là tỉnh khỏi giấc ngủ đêm hôm trước, mà tỉnh khỏi cơn say mênh mông
suốt đời hắn, tỉnh khỏi kiếp sống sinh vật, kiếp quỷ dữ. Hắn buồn và hồi tưởng lại
những mơ ước thuở xa xưa. Hắn ốm, bát cháo hành của Thị Nở mang lại cho hắn
sinh lực, hạnh phúc và hy vọng về tương lai. Hắn tìm thấy lại ý nghĩa của cuộc đời,
muốn làm hoà với mọi người. Thời điểm đó, vào cái buổi sáng hôm đó, hắn hoàn
toàn không còn là Chí Phèo trước đây nữa. Hắn đã là một ý thức đầy đủ về giá trị
và thân phận của mình. Và năm ngày tiếp theo, quãng thời gian sống trong tình yêu
với Thị Nở, hắn đã làm một người lương thiện thực sự. Câu chuyện về Chí dừng
lại ở cái buổi trưa ngày thứ sáu, sau khi bị Thị Nở chối từ, Chí Phèo giết Bá Kiến
và tự vẫn. Nhưng tác phẩm chỉ thực sự kết thúc với những lời bàn tán xì xầm của
làng Vũ Đại và thái độ của Thị Nở một ngày sau khi Chí chết.

Như vậy, Chí Phèo – con quỷ dữ và quá trình biến thành quỷ dữ đã thuộc về quá
khứ, còn hiện tại của câu chuyện được mở ra từ cái thời điểm khởi đầu cho sự hồi
sinh của Chí, cũng là khởi đầu cho một kết thúc đau đớn sẽ đến kề ngay sau đó.

Do vậy, quá trình lưu manh hoá người nông dân và trách nhiệm của cái nghèo
trong việc huỷ hoại nhân cách họ sẽ dễ dàng bị gạt sang một bên khi chúng ta bàn
đến nhiệm vụ nghệ thuật cơ bản của tác phẩm. Còn lại, những vấn đề: bi kịch của
con người bị từ chối quyền làm người, bi kịch của con người với môi trường thiếu



nhân tính, khát vọng đổi đời, khát vọng hoàn lương, vấn đề quyền sống…tất cả có
lẽ đều liên quan đến cái chết và câu hỏi của Chí: “Ai cho tao lương thiện?”

Ai cho Chí Phèo làm người lương thiện? Câu hỏi này xưa nay vốn đã tưởng tìm
thấy câu trả lời chính xác và dứt điểm ở các thế lực là cơ chế xã hội, cường hào ác
bá và định kiến xã hội. Thực ra câu trả lời không hoàn toàn đơn giản như vậy. Tính
chất phức tạp là ở chỗ câu hỏi đó đáng ra trước tiên Chí Phèo phải tự đặt ra cho
mình chứ không phải cho Bá Kiến. Chí Phèo không chỉ là bi kịch của con người bị
từ chối quyền làm người, hơn thế còn là bi kịch của con người tự từ chối quyền
làm người. Anh ta phải chịu một phần trách nhiệm về cái chết của mình, một cái
chết không hoàn toàn nâng cao anh ta, mà ở một khía cạnh khác, còn cho thấy sự
bất lực của anh ta.

Là một nghệ sĩ chân chính, Nam Cao đã nhìn thấy những nguy cơ ẩn giấu trong cái
đặc tính vốn từng làm nên sức mạnh của dân tộc: ý thức cộng đồng.

Thời đại Nam Cao, ý thức về con người cá nhân có điều kiện phát triển. Các nhà
thơ mới công nhiên phô bày, khẳng định cái tôi cá nhân. Văn học lãng mạn đòi giải
phóng cá nhân bằng cách đưa ra những mẫu người có bản lĩnh, dám đối lập với
toàn bộ xã hội, dám bảo vệ cá tính riêng, chấp nhận đơn độc trong những lựa chọn
của mình. Nam Cao lặng lẽ ủng hộ cuộc đấu tranh đó bằng một cách khác, bằng
cách chỉ ra rằng: nếu quá lệ thuộc vào cộng đồng, con người sẽ tự thủ tiêu mình; và
nếu cộng đồng cho phép mình can thiệp quá sâu vào đời sống của mỗi cá nhân, nó
sẽ huỷ diệt cá nhân đó.

Chí Phèo thực chất là bi kịch về sự yếu đuối của cá nhân trước sức mạnh của ý
thức cộng đồng. Ý thức này vừa là áp lực bên ngoài vừa là một phần trong thẳm
sâu con người Chí, nó khiến Chí bị khuất phục trước cuộc sống.



1. Từ nỗi sợ cô đơn….

Ngay đoạn mở đầu truyện, Nam Cao đã triệt để bóc trần cái đời bị loại trừ một
cách tuyệt đối của Chí Phèo, thân phận bị bỏ rơi, quan hệ giữa hắn với cộng đồng,
nỗi khốn khổ, sự cô độc mà hắn phải gánh chịu. Tiếng chửi xác định thế đối lập
của hắn với toàn bộ xã hội, toàn bộ nhân thế và toàn bộ vũ trụ. Sự thu hẹp dần
phạm vi đối tượng chửi (hắn chửi trời, chửi đời, chửi tất cả làng Vũ Đại, chửi
những đứa nào không chửi nhau với hắn, và cuối cùng chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra
thân hắn) bộc lộ tình thế bi đát của một cá nhân bị cô lập. Bị chính những người đẻ
ra bỏ rơi, Chí Phèo chỉ còn mối liên hệ duy nhất với cộng đồng làng Vũ Đại, chính
cộng đồng đó đã cho hắn cơ hội trưởng thành, dù là với thân phận đi ở. Nhưng sau
khi ở tù về, mối liên hệ ấy đã hoàn toàn bị cắt đứt. Quan hệ của Chí với cộng đồng,
từ đó được thiết lập trên sự đe doạ, cướp giật, hắn dùng sức mạnh để áp chế, cưỡng
bức cộng đồng phải chịu hắn. Và Chí Phèo, mặc dầu trong cơn say triền miên vô
tận, không ý thức được những việc mình làm (“hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu
cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc…Hắn đâu
biết vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say”) (tr.38)[1] vẫn không
thể chấp nhận được tình trạng bị bỏ rơi, hắn vẫn muốn được là thành viên của cộng
đồng, ý thức ấy đã ăn sâu vào máu hắn.

Trong nỗi sợ cô đơn, hắn tìm cách xác lập lại mối liên hệ đã bị cắt đứt bằng những
phương thức giao tiếp tuyệt vọng: la làng, ăn vạ, chửi.

La làng là một phản ứng quen thuộc khi một người gặp nguy hiểm, cần sự trợ giúp
của cộng đồng. Khi ăn vạ, người ta cũng la làng để tìm sự ủng hộ ngầm và để làm
mất mặt người bị ăn vạ (người ta chỉ mất mặt khi nhược điểm của mình bị bóc trần
trước mắt những người khác, từ quan niệm này nảy sinh thói sĩ diện hão, tin rằng
những đánh giá của cộng đồng làm nên nhân cách của mình) nhằm dễ dàng phạt vạ
người đó. Chí Phèo kêu làng không phải để tìm sự trợ giúp mà tìm sự đồng loã.

Hắn cần được chứng kiến, cần được thể hiện sự tồn tại của mình trước mọi người.
Đó là điều mà Thị Nở đã không hiểu được khi hắn vừa dằn thị xuống vừa kêu làng.


Trong vô thức hắn sợ cô đơn đến mức, ngay cả trong hành động riêng tư nhất có
thể hắn cũng muốn có sự chứng kiến của người khác. Chi tiết này của Nam Cao
cho phép liên tưởng đến Kafka. Ở phương Tây, những năm hai mươi, trong thế giới
của Kafka, cô đơn là “giá trị quý báu nhất đang bị nghiền nát bởi cái áp đảo hiện
diện ở khắp nơi”[2]. Nguy cơ của con người là ở chỗ cái riêng tư không còn được
bảo vệ khi anh chàng K. lúc nào cũng bị hai phái viên của lâu đài cặp kè, cả trong
lúc ngủ với vợ. “Sự cô đơn bị cưỡng hiếp”[3] làm nên sức ám ảnh cho tác phẩm
của Kafka. Sau đó hai thập kỷ, ở Việt Nam, trong thế giới Nam Cao, cô đơn là thứ
đáng sợ nhất đối với anh Chí làng Vũ Đại. Chí bám vào cộng đồng như bám vào
một chiếc phao cứ lạnh lùng tuột khỏi tay Chí.

Dân làng thực ra đã tạo nên một sức mạnh hậu thuẫn cho hắn trong những lần đòi
nợ Bá Kiến: “vả lại những người đứng xem đã về cả rồi, hắn thấy hắn hình như trơ
trọi. Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi thủa ngày xưa…(tr.27). Con
quỷ dữ của làng Vũ Đại đã phải lấy sức mạnh từ bên ngoài và từ sự mê hoặc của
rượu.

Chửi là một hình thức gây hấn với người khác hoặc là một phương thức trả thù của
kẻ yếu. Với Chí Phèo, chửi là để mong có được sự hồi đáp từ phía cái cộng đồng
mà hắn đã không còn có thể trò chuyện được nữa. Hắn chửi vì hắn sợ phải im lặng
và sợ sự im lặng của người khác. Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi
(tr.38). Hắn hẳn đã hy vọng rằng bằng cách đó không cho phép người khác lảng
tránh mình.

Tuy vậy những phương thức giao tiếp ấy đã bị lạm dụng đến mức chúng trở nên vô
nghĩa đối với dân làng Vũ Đại. Người ta không còn quan tâm đến những nỗ lực

tuyệt vọng của Chí nữa. Bản thân hắn cũng không ý thức được tính chất tuyệt vọng
trong những hành động của mình, cho đến cái buổi chiều được Nam Cao chọn làm
điểm khởi đầu cho câu chuyện. Hắn đã thất bại hoàn toàn với “ngón” chửi. Quan
trọng hơn, hắn cảm nhận được sự thất bại ấy. Với hắn đó là một mối thù lớn. Mối
thù bị loại bỏ. Và tất cả những ai không đếm xỉa đến hắn đều là kẻ thù của hắn, đều


phải chịu trách nhiệm về sự cô độc của hắn, nghĩa là tất cả mọi người. Do vậy mà
hắn phải “báo thù vào bất cứ ai. Hắn phải vào nhà nào mới được, bất cứ nhà nào.
Hắn sẽ rẽ vào bất cứ ngõ nào hắn gặp để đập phá đốt nhà hay lăn ra kêu làng nước.
Phải đấy, hắn sẽ rẽ vào bất cứ cái ngõ nào hắn gặp…(tr.38)”. Hắn không cần biết
một nhà nào hay một người nào cụ thể. Những hành động “trả thù” mà hắn toan
tính thực ra đều nhằm mục đích gây chú ý cho mọi người. Thế nên khi nhìn thấy
cái bóng[4] quần quật dưới chân mình, khi thấy mình không còn quá lẻ loi nữa,
hắn đã lập tức quên ý định báo thù, bù vào đó, hắn đã có một “cuộc nhậu đẹp” với
kẻ “tri kỷ” Tự Lãng, một kẻ cũng đơn độc gần bằng hắn. Vì thế, khi Tự Lãng đã
say bò ra và hỏi: “người ta đứng lên bằng cái gì?” thì Chí Phèo vần ngửa lão ra, để
mặc lão thế rồi lảo đảo ra về. Những kẻ như lão chỉ có thể đứng lên với sự nâng đỡ
của người khác. Mà Chí thì không thể nâng lão đứng dậy được vì chính hắn còn
thảm hại hơn lão, hắn cũng đang cần một người giúp đỡ. Người đó là Thị Nở.
“Nhưng hắn đứng lên làm sao được. Thị quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn
gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về
lều” (tr.45)”. Chí Phèo đã đứng lên như vậy. Rồi tiếp theo đó, hắn tỉnh.

Nỗi sợ cô đơn được Chí nhận thức một cách đầy đủ sau khi tỉnh. “Tỉnh dậy hắn
thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! (…) Chí Phèo hình như đã
trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ
hơn đói rét và ốm đau” (tr.46). Có thể hiểu buổi chiều và buổi tối hôm Chí gặp Thị
Nở (một cái mốc quan trọng trong đời Chí, điều này không cần phải bàn cãi nữa!)
là sự kết thúc cho giai đoạn quỷ dữ. Và buổi sáng hôm sau chính là điểm khởi đầu

của một giai đoạn mới- giai đoạn làm người. Biểu hiện đầu tiên của tính người
trong Chí, đấy là nỗi buồn và cảm giác cô độc. Nỗi buồn giúp hắn cảm nhận cuộc
sống trong sự mới mẻ, hấp dẫn và gợi lại mơ ước xa xưa về một mái ấm bé nhỏ.
Cảm giác cô độc cho hắn hình dung trước những bất trắc đang chờ đón khi hắn đã
ở cái dốc bên kia của đời. Và hắn sợ.

Người nông dân Việt Nam ít có mặc cảm cô đơn, vì họ gắn bó khăng khít với họ
hàng, tông tộc, bà con, xóm giềng, đất nước, những cộng đồng lớn nhỏ xung quanh
họ. Người Việt rất chú trọng đến sức mạnh của tình đoàn kết, tinh thần đùm bọc


cưu mang lẫn nhau. Họ không thích sự nổi trội đặc biệt của một cá nhân nào đó,
vượt hơn hẳn so với những người còn lại ( trừ phi cá nhân đó có một tầm vóc lớn
hơn hẳn hoặc đã được thánh hoá). “Xấu đều còn hơn tốt lõi”. Họ muốn hoà lẫn vào
người khác. Hạnh phúc của họ chính là một cuộc sống ổn định hoà hợp với mọi
người xung quanh. Bát cháo hành của Thị Nở đối với Chí vô cùng thơm ngon vì nó
giúp hắn cảm nhận một cách sâu sắc hương vị của sự chia sẻ, giúp hắn hiểu thế nào
là được người khác cho, được quan tâm chăm sóc. “Bởi vì lần thứ nhất hắn được
một người đàn bà cho” (tr.47). Cho chính là biểu hiện cao nhất của sự san sẻ, đùm
bọc, điều mà Chí rất cần và rất thiếu.

Bát cháo hành Thị Nở trong cảm nhận của Chí không chỉ được xem như bằng
chứng của tình yêu mà còn là dấu hiệu của tình làng nghĩa xóm. Chí không dừng
lại ở mơ ước về một gia đình êm ấm với Thị Nở. Hắn còn mơ đến việc tìm được
bạn, tìm được một chỗ trong cộng đồng. “Vì thế mà bát cháo hành của Thị Nở làm
hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại gây kẻ thù? (tr.48). “Trời ơi,
hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở
đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao mọi người lại không thể
được. Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng lương thiện của những người
lương thiện… (tr.49)”.


Chí không mong điều gì khác ngoài sự hoà hợp với mọi người. Hắn đã nghĩ một
cách đơn giản rằng Thị Nở có thể giúp hắn bước vào thế giới lương thiện. Chỉ khi
được mọi người chấp nhận, Chí mới thực sự cảm thấy là một người lương thiện
đúng nghĩa.

2….đến cái chết như một cô đơn tuyệt đối.

Thực ra, cuộc đời Chí Phèo có thể kết thúc theo ba hướng: hoặc tiếp tục sống làm
con quỷ làng Vũ Đại, hoặc bảo vệ con người mới của mình bằng cách bỏ làng ra đi


tìm đến một vùng đất mới, hoặc là chết để làm ma của làng, nhưng là một con ma
lương thiện. Nam Cao đã chọn cách thứ ba, vì tất yếu Chí phải hành động như thế.

Thị Nở và bát cháo hành đã biến bản năng muốn gia nhập cộng đồng của Chí (tiềm
ẩn trong các hành động chửi, la làng, ăn vạ) thành một ý thức đầy đủ và mãnh liệt.
Sở dĩ Chí Phèo có thể tồn tại ở làng như vậy cho đến nửa đời người là vì lúc nào
hắn cũng say. “Chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ rằng có hắn ở đời”. Và khi hắn tỉnh,
khi hắn biết rằng có hắn ở đời thì cũng liền ngay đó hắn hiểu rằng đời không thể có
hắn được. Nhưng hắn cũng không còn có thể say lại để quên đi tất cả, để không
biết gì như trước đây nữa. Trong tất cả những thứ mà lần đầu tiên Chí được hưởng
thụ vào năm ngày cuối cùng của đời mình, chỉ duy nhất hơi cháo hành là thứ hắn
cảm nhận được, là thứ ám ảnh hắn lúc tuyệt vọng, lúc mọi thứ tuột khỏi tay hắn.
Hơi cháo hành như mùi vị của hạnh phúc thoáng qua giờ đã trở nên không có thực,
và vĩnh viễn không bao giờ có thực nữa. Đó là một chút tình mong manh nhưng dai
dẳng không thể dứt bỏ nổi. Hắn không thể sống, dù ở làng Vũ Đại hay ở nơi khác,
mà thiếu nó được. “Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc
rưng rức” (tr.52). Vì hơi cháo hành mà lần đầu tiên trong đời hắn khóc, tiếng khóc
của một con người nuối tiếc cái hạnh phúc không phải để cho mình nhưng lẽ ra

mình có thể được hưởng. Tiếng chửi cuối cùng của Chí không còn là một thứ
phương tiện giao tiếp nữa. Đó là tiếng lảm nhảm tuyệt vọng của kẻ đã nhìn thấy
trước tương lai duy nhất dành cho mình: Cái Chết.

Ai là kẻ phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chí? Bá Kiến, đại diện cho bọn
cường hào ác bá, thế lực bức hại người lao động? Bà cô Thị Nở, đại diện cho cái xã
hội của những người lương thiện với định kiến hẹp hòi? Hay chính Chí Phèo với
sự yếu đuối của một nhân cách quá lệ thuộc vào cộng đồng?

Đương nhiên Bá Kiến là kẻ trực tiếp đẩy Chí sa ngã. Và Chí đáng lẽ phải thù oán
Bá Kiến, lại khiến cho dân làng Vũ Đại oán thù và tẩy chay đến không còn cơ hội
để quay trở lại với họ nữa.


Trong thế giới của Nam Cao, Chí Phèo không phải là kẻ duy nhất sống ngoài lề xã
hội. Chí có những người anh em cùng chung cảnh ngộ bị cô lập, như Đức trong
Nửa Đêm, Lang Rận trong truyện ngắn cùng tên, có thể kể thêm Cu Lộ trong Tư
Cách Mõ… ở một môi trường mà thái độ của những người khác góp phần tạo nên
nhân cách phẩm giá của một người, thậm chí có thể quyết định chuyện sống chết
của người đó thì phản ứng của Chí Phèo cũng không khó giải thích. Trong Nửa
Đêm, sau khi cho độc giả chứng kiến cảnh một đứa bé vô tội bị tẩy chay vì những
tội lỗi của bố nó, Nam Cao đã viết: “Thì ra những người rất hiền lành cũng có thể
là những người rất ác. Có điều họ không có cách để làm ác”[5]. Thực ra họ cũng có
cách để làm ác, khi họ không chấp nhận sự vô tội của một người vô tội, không thừa
nhận sự phục thiện của một người muốn phục thiện, không chấp nhận hạnh phúc
của người khác. Nam Cao có xây dựng một loại nhân vật không muốn cho người
khác được sung sướng (ông có hẳn truyện Nhìn Người Ta Sung Sướng kể về một
bà già rất khó chịu mỗi khi vợ chồng con gái mình có những biểu hiện hạnh phúc,
và bà nhất định sẽ bắt cô cháu dâu tương lai hầu mình đủ mười bốn năm mới thôi,
quyết không cho cô ấy sung sướng ngay với cháu trai mình). Bà cô Thị Nở cũng

thuộc loại này. Bà phản đối cuộc hôn nhân của cháu gái trước hết vì bà nhục cho
ông cha bà, sau đó là vì bà tủi cho thân bà, uất ức cho cái đời không chồng của bà.
Bà đố kỵ ngay với đứa cháu bất hạnh. Bà không có hạnh phúc, vậy thì cháu gái bà
cũng đừng hòng mong điều đó.

Nam Cao không ngại phơi bày những hủ tục, những thói tật kìm hãm sự phát triển
của con người, ngăn cản con người sống hạnh phúc. Những day dứt của ông được
phát biểu qua lời của nhân vật Thứ trong tiểu thuyết Sống Mòn: “Đó là tại thói
quen. Không phải cái thói quen của riêng mình, nhưng là cái thói quen lưu truyền
đã mấy đời, đến nỗi nó nhập vào máu chúng ta. Tư tưởng, tính tình, cảm giác, hành
động của chúng ta đều khuôn theo những thói tục. Những lề lối sẵn trong thời đại
chúng ta. Thời thế thay đổi, lòng người đổi. Thế kỷ sau sẽ lọc máu cho chúng ta
trong trẻo lại.

Y thở dài nghĩ bụng nhưng tại sao ta lại không thể nghĩ chuyện lọc máu ngay từ
bây giờ”[6].


Tham vọng của Nam Cao là muốn lọc máu cho cả dân tộc. Nam Cao đã khám phá
ra những gì mà mỗi chúng ta không muốn để lộ ra. Ông giúp con người tự nhìn vào
tận sâu trong tâm hồn mình để hiểu mình một cách thấu đáo hơn và có đủ can đảm
để thay máu. Chỉ cần như thế, ông đã hoàn thành xuất sắc cái sứ mệnh nhà văn mà
ông đã từng nêu ra đây đó trong các tác phẩm của mình.

Dấu hiệu hiện đại của tác phẩm Nam Cao biểu hiện ở ranh giới thiện ác giờ đây
không còn quá rành mạch nữa. Những người lương thiện ở làng Vũ Đại sẽ tự đánh
giá về mình ra sao khi chính họ là nguyên nhân dẫn đến cái chết của một con
người. Điều bi đát là bản thân họ không thể ý thức được, không thể hình dung nổi
điều đó.


Không ai được chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chí Phèo và Bá Kiến, lúc Chí Phèo
bộc lộ sự kiêu hãnh của một con người đã tự lấy lại phẩm giá. Cuộc đối thoại đó là
cuộc đối thoại có giá trị nhất trong đời Chí, là điều mà ắt hẳn Chí muốn được mọi
người biết đến. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã để cho cả nhà Bá Kiến
hôm đó đi vắng, chỉ mình cụ Bá ở nhà. Cuộc đối thoại đòi quyền làm người, trong
thực tế, đã chìm lỉm vào hư vô. Và hắn la làng, cách giao tiếp quen thuộc của hắn,
nhưng bi đát thay, cũng như xưa nay, khi hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội
đến. Vì vậy, lúc dân làng có mặt thì tất cả đã kết thúc. Họ chỉ thấy sự việc mà
không bao giờ biết được nguyên nhân đích thực của nó. Chí Phèo hiểu rằng dù hắn
có tu tỉnh thì cái quá khứ của hắn cũng không cho phép hắn trở thành người lương
thiện giữa mọi người, hắn sẽ không được họ chấp nhận. Hắn muốn dùng cái chết
của mình để chiêu tuyết cho đoạn đời tội lỗi trước kia và rung một tiếng chuông
cảnh tỉnh cho sự khắt khe của dư luận. Nhưng ước vọng của Chí đã theo hắn và Bá
Kiến xuống mồ. Đó là một bí mật trọn vẹn đối với người dân làng Vũ Đại. Tội
nghiệp Chí Phèo, “mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói nhưng không ra tiếng”. Những
điều mà Chí muốn nói với dân làng, với cái xã hội của những người lương thiện
không bao giờ còn được nói ra nữa. Họ không bao giờ biết đến cái mong ước làm
người lương thiện của Chí. Họ cũng không bao giờ biết được rằng chính họ có thể


cho Chí một cơ hội, rằng chính họ đã có thể cứu vớt một linh hồn, rằng chính họ đã
phê duyệt vào cái án tử hình của Chí.

Bi kịch của Chí ở đây là bi kịch của một giá trị không được biết đến, không được
thừa nhận, không được thấu hiểu. Chí đã chết một cái chết vô ích. Cái chết đó thực
sự vô nghĩa khi người ta xếp Chí cùng hàng với Bá Kiến “Thằng nào chứ hai thằng
ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau”(tr.54). Câu chuyện
không kết thúc bằng cái chết của Chí mà kết thúc bằng sự đánh giá của cộng đồng
về cái chết ấy. Chính với cách kết thúc như vậy, Nam Cao đã đẩy Chí tới tận cùng
nỗi bất hạnh. Trong những lời bàn tán của người dân làng Vũ Đại người ta nhắc

đến Bá Kiến nhiều hơn là Chí Phèo. Và sự đánh giá mà người đời dành cho Chí
hoàn toàn ngược với cái mong muốn mà vì nó hắn đã phải trả giá bằng cả tính
mệnh (Chí Phèo hẳn cũng muốn để lại tiếng thơm!). Thay vì thấu hiểu và chia sẻ,
người ta đã vui mừng, thoả mãn. Những giông bão trong tâm hồn Chí thực sự
chẳng để lại một dấu vết nào trên cái làng êm ả đó. Thậm chí cả Thị Nở là người
duy nhất có thể cảm thông và thấy được bản tính hiền lành của Chí “Sao có lúc nó
hiền như đất” (tr.54), cũng không hiểu được khát vọng làm người trong hắn. Chí
Phèo không có Chúa làm kẻ chứng nhân vô hình cho sự thức tỉnh linh hồn. Chí
Phèo là một cô độc tuyệt đối, điều mà hắn sợ nhất trên đời. Vào thế kỷ XVI, lúc mà
ở phương Tây, con người cá nhân đang trên đường hình thành, Montaigne có nói:
“Điều lớn lao nhất trên đời, đó là biết thuộc về chính mình (…). Không nên trao
mình cho người khác mà chỉ trao mình cho chính mình mà thôi”[7]. Chí Phèo,
bằng cái chết, đã trao mình cho người khác, mà tiếc thay, đã không được đón nhận.

Trở lại với cuộc đối thoại giữa Chí và Bá Kiến, cần lưu ý rằng Chí Phèo chỉ có thể
dõng dạc tuyên bố: “Tao muốn làm người lương thiện!”. Hắn không thể kiêu ngạo
mà thông báo rằng: “Ta đã là người lương thiện”, mặc dù trong thực tế đúng là như
vậy, hắn đã hoàn toàn thay đổi trong những ngày sống chung với Thị Nở. Hắn
không đủ tự do để tự biến mình thành người lương thiện và tự hào về hành động
của mình, và cũng không đủ mạnh để dám trả giá cho việc làm người lương thiện.
Hắn chết vì thấy rằng không ai cho hắn lương thiện. “Ai cho tao lương thiện?”.


Vậy ra sự lương thiện của hắn lại phụ thuộc vào người khác chứ không phải vào
chính bản thân hắn!!!

Chí Phèo đã không thể hình dung rằng người ta vẫn có thể lương thiện mà không
cần được cho phép, không cần được dung nạp. Chí đã không thể cứ lặng lẽ làm
một người lương thiện ngoài lề xã hội. Chí Phèo chưa thể hiểu được bản thân giá
trị của cá nhân Chí có thể đặt ngang cân với toàn bộ xã hội còn lại. Bị chi phối bởi

ý thức cộng đồng, Chí tuyệt đối tin là nhân cách của mình phụ thuộc vào sự đánh
giá của cộng đồng về mình, tin rằng thái độ che chở đùm bọc của người khác cấp
cho hắn một thân phận và sự đánh giá của người khác cấp cho hắn một diện
mạo[8]. Chí đã đồng nhất lương thiện với việc làm hoà với mọi người.

Chí Phèo không có được cái bản lĩnh của một người mang trong nó sức mạnh cá
nhân và sức mạnh của một trình độ học vấn đủ để anh ta muốn khẳng định giá trị
riêng của mình. Bản lĩnh của Chí Phèo là dám chết khi không còn có thể tiếp tục
phạm tội nhưng lại không thể làm một thành viên của xã hội lương thiện. Bản lĩnh
đó là chỗ mạnh nhưng đồng thời cũng là chỗ yếu đuối của Chí. Sự khinh bỉ của
những người lương thiện đã giết chết Chí Phèo, đã giết chết Lang Rận, đã làm cho
Đức phát điên. Nhân vật của Nam Cao chọn cái chết để tránh nỗi nhục nhã trước
sự khinh bỉ của người khác và để tránh, điều này thật phi lý, việc mình trở thành
nỗi nhục của người khác.

Hành động chết của Chí không phải là một hành động tự do theo cái nghĩa là Chí
đã tự do quyết định số phận của mình. Cái chết ấy có thể xem như một nỗ lực cuối
cùng để tìm cách hoà nhập cộng đồng. Sự hoán cải thực sự có thể biến Chí thành
một người lương thiện nhưng chưa thể biến Chí thành một nhân cách tự chủ. Và,
theo Nam Cao, không có một nhân cách tự chủ thì không thể sống mà làm người
lương thiện được.


Nam Cao đau xót trước một thực tế: áp lực của dư luận xã hội có ảnh hưởng rất lớn
đến nhân cách của con người. Trong Tư Cách Mõ ông đã nói: “Hỡi ôi! Thì ra lòng
khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều
lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục
người là một cách rất diệu để người sinh đê tiện…”[9] Dư luận xã hội thường thiên
kiến, tàn nhẫn, vô tình. Và một khi ý thức cá nhân còn chưa phát triển ở mức độ
cao, thì ý thức cộng đồng còn có thể phát huy cái sức mạnh vô giới hạn của nó.


Chí Phèo cho ta thấy một cá nhân có thể bị nghiền nát dưới sức mạnh của ý thức
cộng đồng như thế nào. Chí Phèo đã tuyệt vọng hướng tới một giá trị không thể gọi
tên. Nếu ta đi tìm định nghĩa về sự lương thiện thì đây, câu trả lời của Chí: Lương
thiện là được người khác chấp nhận. Đó không thể là chuẩn mực của một giá trị.
Cái chết của Chí, do vậy, là một thất bại hơn là một chiến thắng của tính thiện, của
khát vọng hoàn lương. Bằng sự thất bại của Chí (và cùng với Chí là sự thất bại của
của Đức, Dì Hảo, của Nhu, của Lang Rận[10], cu Lộ…), Nam Cao muốn người
nông dân Việt Nam có ý thức sâu sắc về những vấn đề của mình, và đối mặt với
chúng để vượt qua chúng. Song, hơn nửa thế kỷ qua, niềm mong mỏi của ông đã
được đáp ứng ở mức độ nào?

Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao nếu có một chiều sâu thì đó là khả năng chạm tới
đáy thẳm của ý thức cộng đồng. Chạm tới nó để cảnh báo về sự nguy hiểm, năng
lực tàn phá, huỷ diệt, sự trì níu và làm tụt hậu của nó. Điều khiến người nghệ sĩ day
dứt là phải vượt qua cái đáy thẳm đó để, trước khi đến được chân trời xa xôi của
văn minh, ít nhất cũng đến được miệng vực, tức là mặt đất của sự công bằng,
không thiên kiến, nơi cá nhân có vị trí độc lập với cộng đồng. Và nếu như thời hiện
đại lấy con người cá nhân với cái tôi biết suy nghĩ làm cơ sở cho tất cả thì phải
chăng, Nam Cao còn một điều day dứt nữa: Làm thế nào để xoá bỏ nỗi sợ cô đơn.
Bởi vì con người cá nhân chỉ có thể phát triển khi người ta không còn quá khiếp sợ
nỗi cô đơn để có ý thức về tự do của mình.

Nguyễn Thị Từ Huy



×