Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Hãy bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài tiếng hát con tàu của chế lan viên nhớ bản sương giăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.85 KB, 2 trang )

Hãy bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Tiếng hát con tàu của Chế
Lan Viên Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Tình yêu làm đất lạ
hóa quê hương" - Ngữ Văn 12
Bình chọn:

Tiếng hát con tàu là khúc hát say mê rạo rực của một tâm hồn đã thoát khỏi cái khung chật
hẹp của một cái tôi nhỏ bé để ra với chân trời rộng lớn của nhân dân, đất nước.


Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "... Nhớ bản...



Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Nhớ bản sương...



Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu: "Con gặp lại nhân dân như...



Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Con gặp...

Xem thêm: Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên Học trực tuyến Môn Văn học

Hãy bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng


Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Chủ đề bài thơ Tiếng hát con tàu: cảm hứng đi vào thực tế, khát vọng được trở về với
nhân dân của người nghệ sĩ.
Sự ra đời của bài thơ Tiếng hát con tàu gắn liền với một sự kiện kinh tế - xã hội lúc bấy
giờ. Vào năm 1958 là năm có phong trào vận động thanh niên miền xuôi lên mở mang
kinh tế, văn hóa ở miền núi. Phong trào này được sự ủng hộ nhiệt tình của đông đảo
các từng lớp nhân dân... bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên ra đời trong không
khí sôi nổi ấy. Những sự kiện đó chỉ là một gợi ý, là điểm xuất phát để Chế Lan Viên thể
hiện khát vọng được về với nhân dân, về với cuộc sống rộng lớn, đồng thời cũng là trở
về với ngọn nguồn của nghệ thuật.


Bình giảng khổ thơ thứ nhất để làm nổi bật tình cảm gắn bó của con người với một
vùng đất:
Tiếng hát con tàu là khúc hát say mê rạo rực của một tâm hồn đã thoát khỏi cái khung
chật hẹp của một cái tôi nhỏ bé để ra với chân trời rộng lớn của nhân dân, đất nước.
Trong niềm vui mới, hồn thơ của Chế Lan Viên như hóa thành con tàu tâm tưởng, hăm
hở trong hành trình về với nhân dân, về với cuộc sống rộng lớn. Nhưng về với nhân
dân cũng là về với lòng mình, làm giàu thêm tâm hồn mình; từ đó nhà thơ đã đi đến sự
khẳng định Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu. Cả phần hai - cũng là phần chủ yếu
của bài thơ - dùng cho việc tái hiện hình ảnh nhân dân và gợi lên kỉ niệm đẹp, sâu nặng
tình nghĩa trong những năm kháng chiến gian khổ. Theo dòng hoài niệm, mạch thơ
mang đến những câu thơ mang tính khái quát, triết lí:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Cảnh sương giăng, đèo mây phủ hiện lên rất chung (bởi không nói về một làng bản cụ
thể nào) nhưng lại không hề chung chung, bởi ta vẫn dễ dàng nhận ra cảnh sắc riêng
của Tây Bắc. Khi bình giảng có thể so sánh thêm với những câu thơ của Tố Hữu “Nhớ
từng bản khói cùng sương - Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” - Việt Bắc.

Câu thơ thứ 2: Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương? Là một câu hỏi tu từ - hỏi chỉ
để mà khẳng định rõ hơn tình cảm gắn bó sâu nặng của nhà thơ đối với con người,
cảnh vật Tây Bắc, với mọi miền đất xa xôi và hẻo lánh khác của đất nước.
Ở hai câu tiếp theo, Chế Lan Viên đã dùng những cặp đối xứng: khi ta ở/khi ta đi; đất
ở /đất hóa tâm hồn, để qua đó nói lên tình cảm gắn bó máu thịt của mình với Tây Bắc.
Chính tình cảm đó đã dẫn tới một sự chuyển hóa từ “đất ở" vốn vô tri vô giác thành "đất
hóa tâm hồn".
Ý nghĩa lớn lao của tình yêu, tình cảm một con người đối với một vùng quê:
Sang khổ thơ thứ 2, mạch thơ dường như chuyển sang một sự rung cảm và suy tưởng
khác - về tình yêu và đất lạ:

Xem thêm tại: />


×