Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận Tìm hiểu về những ưu đãi tài chính từ nhà nước đối với các hoạt động khởi nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.17 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

Danh mục các từ viết tắt trong bài:
-

Doanh nghiệp nhỏ và vừa: DNNVV;
Khoa học và công nghệ: KHCN.


LỜI MỞ ĐẦU
Giai đoạn phát triển kinh tế của Việt Nam khoảng 10 năm qua đã chứng kiến sự hình
thành và phát triển rất năng động của phong trào khởi nghiệp. Có nhiều nhân tố dẫn đến khởi
nghiệp như là một lực lượng mới của nền kinh tế. Trong đó có thể kể đến khả năng sáng tạo,
tinh thần kinh doanh của người Việt; sự phát triển gia tốc của thị trường khi Việt Nam trở
thành quốc gia thu nhập trung bình; sự thất bại của hình thái “Nhà nước kinh doanh” thông
qua các doanh nghiệp, tập đoàn sở hữu Nhà nước; sự bùng nổ của công nghệ và sử dụng
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; Việt Nam bước vào thời kỳ "dân số vàng"; sự
tham gia của các quỹ đầu tư và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp...
Tuy nhiên, vai trò của Nhà nước đối với phong trào khởi nghiệp tại Việt Nam cho đến nay
vẫn chưa rõ nét. Nhà nước chưa có những quy định pháp luật điều chỉnh sự hình thành và
phát triển của những doanh nghiệp khởi nghiệp theo phương thức mới, như quỹ đầu tư mạo
hiểm Việt Nam, sự công nhận giá trị bằng tiền của tài sản vô hình trong góp vốn thành lập
công ty hay bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với doanh nghiệp khởi nghiệp... Vai trò của Nhà
nước cũng thiếu vắng trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là đối với việc khởi sự kinh doanh tại
Việt Nam và tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Vì vậy, để có được những thông tin cần thiết về vấn đề hỗ trợ của nhà nước với các hoạt
động khởi nghiệp tôi xin chọn đề tài “Tìm hiểu về những ưu đãi tài chính từ nhà nước đối
với các hoạt động khởi nghiệp” là đề tài trong bài tiểu luận lần này.

NỘI DUNG
I.


Một số khái niệm cơ bản.
1. Khởi nghiệp:
Khởi nghiệp là thuật ngữ chỉ về những công ty đang trong giai đoạn bắt đầu kinh doanh
nói chung, nó thường được dùng với nghĩa hẹp chỉ các doanh nghiệp trong giai đoạn lập
nghiệp. Khởi nghiệp là một tổ chức được thiết kế nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong
những điều kiện không chắc chắn nhất.
Một doanh nghiệp được cho là đang khởi nghiệp khi có được những đặc điển cơ bản sau:
2


− Tính đột phá: tạo ra một điều gì đấy chưa hề có trên thị trường hoặc tạo ra một giá trị tốt
hơn so với những thứ đang có sẵn, chẳng hạn như có thể tạo ra một phân khúc mới trong
sản xuất; một mô hình kinh doanh hoàn toàn mới; hoặc một loại công nghệ độc đáo, chưa
hề thấy.
− Tăng trưởng: Một công ty khởi nghiệp sẽ không đặt ra giới hạn cho sự tăng trưởng, và họ
có tham vọng phát triển đến mức lớn nhất có thể. Họ tạo ra sự ảnh hưởng cực lớn, có thể
được xem là người khai phá thị trường.
2. Ưu đãi tài chính của nhà nước với các hoạt động khởi nghiệp.
Trong kinh doanh Ưu đãi được hiểu là việc một chủ thể nào đó được dành cho những điều
kiện, quyền lợi đặc biệt hơn so với những chủ thể khác.
Ưu đãi tài chính của nhà nước được hiểu là các điều kiện ưu đãi về tài chính mà nhà
nước dành cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Hiện nay, các ưu đãi tài chính đến từ nhà
nước đa phần là các ưu đãi trong lĩnh vụ thuế cũng như các hoạt động hỗ trợ về vốn cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp.
II.

Các chính sách ưu đãi tài chính từ nhà nước đối với các hoạt động khởi

nghiệp hiện nay.
1. Các chủ trương chính sách của nhà nước trong vấn đề khởi nghiệp.

Những năm qua, việc đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực khoa
học và công nghệ đã có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã
hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động này còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Nhằm đổi
mới cơ chế và chính sách phát triển hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam, Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng đã khẳng định: Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh; Có
chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật
sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để hướng tới mục tiêu “Quốc gia khởi nghiệp” nhà nước đã đưa ra nhiều chủ chương
chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp điển hình như:
Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò
của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế nêu rõ: Xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân phải gắn liền với
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền sở hữu và
3


tự do kinh doanh của doanh nhân theo pháp luật, khuyến khích doanh nhân làm giàu cho
mình và cho đất nước.
Kết luận số 64 - KL/TW ngày 9/12/2010 của Ban Bí thư về kết quả thực hiện Nghị quyết
số 14-NQ/TW (khóa IX) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cũng khẳng định:
Tiếp tục hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), chủ
doanh nghiệp và người lao động, nâng cao trình độ cán bộ quản lý; xây dựng cơ chế, chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới; đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ cao
vào sản xuất nông nghiệp; thiết lập thị trường công nghệ; tiếp tục triển khai tích cực và đồng
bộ các chính sách trợ giúp phát triển DNNVV.
Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) cũng nhấn
mạnh việc phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công
nghệ (KHCN): “Hình thành các tập thể nghiên cứu đáp ứng yêu cầu giải quyết các nhiệm vụ
trọng điểm quốc gia. Phát triển các nhóm nghiên cứu trẻ, tiềm năng từ các trường đại học,

viện nghiên cứu để làm hạt nhân hình thành các doanh nghiệp KHCN” và “Đẩy mạnh phát
triển các doanh nghiệp KHCN; hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập tổ chức nghiên cứu và
phát triển”.
Khẳng định lại đường lối, chủ trương trên, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nêu
rõ: Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh. Có chính sách thúc đẩy phát
triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành lực lượng
nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài những nghị quyết của Đại hội Đảng các khóa nêu trên, Thủ tướng chính phủ cũng
đã nhiều lần nhấn mạnh trọng tâm của chiến lược tái cơ cấu nền kinh tế mà Nhà nước đang
theo đuổi là hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo. Ba đột phá chiến lược đã được đề cập ở Đại hội
Đảng XI, XII và được nêu trong chiến lược 10 năm từ 2011 - 2020 là: Thể chế, hạ tầng và
nguồn nhân lực. Nội dung quan trọng nhất hiện nay là là xây dựng, hoàn thiện về thể chế
chính sách dành cho khởi nghiệp. Cụ thể trước hết cần tạo một môi trường kinh doanh bình
đẳng, lành mạnh cho các doanh nghiệp. Đó là sự cân bằng ưu tiên giữa doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh
nghiệp trong nước.
4


2. Thực tiễn triển khai và kết quả đạt được từ các chính sách ưu đãi tài chính của
nhà nước.
Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, nhiều văn bản Luật đã được ban hành, có tác động
trực tiếp đến hoạt động khởi nghiệp và phát triển KHCN như: Luật KHCN (2000, được sửa
đổi năm 2013); Luật Sở hữu trí tuệ (2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009); Luật Chuyển
giao công nghệ (2006); Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật (2006); Luật Chất lượng sản
phẩm hàng hóa (2007) và Luật Đo lường (2011); Luật Công nghệ cao (2008). Ngoài các văn
bản luật các văn bản dưới luật cũng được ban hành hàng loạt để phục vụ mục đích phát triển
của doanh nghiệp như các Nghị quyết số 08/2011/QH13, Nghị quyết số 29/2012/QH13,
Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013.
Từ các quy định của pháp luật trên giấy cho đến thực tiễn, Chính phủ Việt Nam đã ban

hành một số chính sách tài chính như chính sách thuế, chính sách tín dụng nhà nước và
chính sách tài chính hỗ trợ gián tiếp thông qua mô hình vườm ươm doanh nghiệp. Cụ thể các
chính sách này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, về các chính sách huy động vốn: Các chính sách này đã được ban hành kịp thời
nhằm đa dạng hóa hình thức huy động vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp
cận nhiều hơn với hình thức huy động vốn hiện nay. Cụ thể:
- Chính sách huy động vốn qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp theo hướng nâng cao
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp khi huy động vốn trên thị trường trái
phiếu. Việc hoàn thiện chính sách này đã tác động tích cực đến vấn đề huy động vốn của
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có sự
tham gia tích cực của các doanh nghiệp và cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt cả về quy mô thị
trường và số lượng.
- Chính sách huy động vốn qua thị trường chứng khoán được xây dựng với nhiều nội
dung đổi mới, phù hợp với thực tiễn phát triển. Hiện tại, khung pháp lý cho hoạt động của
thị trường chứng khoán đã cơ bản hoàn thiện, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán
phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn cho
doanh nghiệp.
Công tác tái cấu trúc thị trường chứng khoán tiếp tục được đẩy mạnh, các công ty chứng
khoán được khuyến khích thực hiện hợp nhất, sáp nhập nhằm nâng cao năng lực hoạt động,
5


lành mạnh hóa thị trường (đến hết năm 2017, số lượng công ty chứng khoán còn 79 công ty,
giảm 25% so với cuối năm 2016). Kết thúc năm 2017, chỉ số VN-Index đạt 984,24 điểm,
tăng 48% so cuối năm 2016; quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán tăng khoảng 80,5% so
với cuối năm 2016 và mức vốn hóa đạt tỷ lệ khoảng 70% GDP, là mức cao nhất từ khi thị
trường mở cửa, đạt mục tiêu đặt ra đến năm 2020. 1 Hoạt động thị trường chứng khoán ổn
định; công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường, các vi phạm cũng đã được xử lý kịp thời.
- Chính sách tín dụng của Nhà nước đã có nhiều thay đổi quan trọng, được điều chỉnh,
sửa đổi cho phù hợp với biến động của nền kinh tế vĩ mô. Cụ thể, ngày 31/3/2017, Chính

phủ ban hành Nghị định số 32/2017/NĐ-CP về tín dụng đầu tư của Nhà nước, thay thế các
văn bản trước đây về chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu. Theo đó, khách hàng
có dự án đầu tư nhóm A, B, C thuộc ngành nghề, lĩnh vực kết cấu hạ tầng; nông nghiệp,
nông thôn, công nghiệp được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước không phân biệt theo
địa bàn đầu tư. Mức vốn cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước tối đa đối với mỗi dự án
bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động). Thời hạn cho vay
được xác định theo khả năng thu hồi vốn của dự án và khả năng trả nợ của khách hàng, phù
hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh của dự án (tuy nhiên, không quá 12 năm). Riêng với
các dự án đầu tư thuộc nhóm A thời hạn cho vay vốn tối đa là 15 năm.
Cùng với các chính sách trên, chính sách tín dụng nhà nước cũng được sửa đổi nhằm phát
huy tác dụng đối với những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, góp phần nâng
cao hiệu quả đầu tư, chuyển dịch kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua hệ thống Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam, nhiều chương trình, dự án
tín dụng chính sách được thực hiện như: Chương trình cho vay phát triển kinh tế hộ gia đình;
Hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn; Chương trình cho vay thương nhân hoạt động tại
vùng kinh tế khó khăn miền núi… Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính
sách được tiếp cận vay vốn để duy trì, phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi, doanh nghiệp khởi nghiệp phải có dự án,
phương án sản xuất kinh doanh khả thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước
thông qua Quỹ Phát triển DNNVV. Hướng dẫn cơ chế tài chính cho Quỹ phát triển DNNVV
để hoạt động cũng được ban hành tại Thông tư số 19/2015/TT-BTC. Như vậy, các DNNVV
1 Trích báo cáo tình hình chứng khoán năm 2017 của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước

6


thuộc lĩnh vực ưu tiên nếu đáp ứng đủ điều kiện thì được vay vốn tại Quỹ với mức vay tối đa
là 30 tỷ đồng, lãi suất vay 7%/năm, thời hạn vay tối đa 7 năm.
Thứ hai, về chính sách thuế: Các tư tưởng, quan điểm, chính sách của Đảng về khuyến
khích, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển đã được thể hiện tại các văn bản quy phạm

pháp luật, nhất là các văn bản về thuế được sửa đổi, bổ sung trong thời gian qua. Cụ thể, từ
năm 2004 đến nay, với việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về
thuế, các chính sách ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh
nghiệp đầu tư trong nước cơ bản được thống nhất và kiện toàn, góp phần đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính về thuế. Đây là giai đoạn cải cách thuế được triển khai khá toàn diện, triệt
để thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo cơ chế kinh
tế thị trường, tăng cường hội nhập với các nền kinh tế khu vực và thế giới.
Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp thành lập mới
hoặc thực hiện các dự án đầu tư mới, trong đó tập trung vào đầu tư, phát triển khoa học và
công nghệ, sản phẩm công nghệ cao, sản xuất năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường như:
Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục
công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao; ươm
tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát triển
công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển theo quy định của
pháp luật về công nghệ cao; đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp
thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; phát triển công nghệ sinh học; dự án đầu tư mới thuộc
lĩnh vực bảo vệ môi trường… Các chính sách thuế được thiết kế hỗ trợ theo nhiều kênh: hỗ
trợ trực tiếp, hỗ trợ gián tiếp, hỗ trợ theo địa bàn, hỗ trợ theo đối tượng…
Thứ ba, về chính sách, chế độ kế toán, kiểm toán đối với doanh nghiệp: Để hỗ trợ và
khuyến khích sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân, các công cụ kế toán, kiểm toán cũng
được Bộ Tài chính kịp thời hoàn thiện và triển khai áp dụng cho các doanh nghiệp theo
hướng tiệm cận với Chuẩn mực quốc tế về kế toán, kiểm toán. Đối với doanh nghiệp khởi
nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ, các quy định về chế độ kế toán riêng cũng được nghiên cứu
để ban hành đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - tài chính và phù hợp với khả năng trình độ
của cán bộ trong doanh nghiệp. Theo đó, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp siêu nhỏ
7


được hướng dẫn đơn giản, gọn nhẹ giúp doanh nghiệp dễ thực hiện, góp phần tiết kiệm chi
phí kế toán và tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp khởi nghiệp cũng được hỗ trợ thông qua mô hình phát triển
vườn ươm doanh nghiệp trong một số lĩnh vực ưu tiên, chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp
thành lập mới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Kinh phí thành lập và hoạt động các
vườm ươm công lập được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước như Vườn ươm Phú Thọ (Đại học
Bách khoa TP. Hồ Chí Minh); Vườn ươm CRC (Đại học Bách Khoa Hà Nội); Vườn ươm
khu Công nghệ cao Hòa Lạc; Vườm ươm doanh nghiệp (công viên phần mềm Quang Trung
TP. Hồ Chí Minh)…
Quy mô vốn/doanh nghiệp của Việt Nam đã có sự cải thiện từ 5,8 tỷ đồng năm 2014 lên
10,2 tỷ đồng vào năm 2017. Tính chung cả năm 2017, cả nước có 126.859 doanh nghiệp
thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký 1.295,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% về số doanh
nghiệp và 45,4% về số vốn đăng ký so với năm 2016. Bên cạnh số doanh nghiệp thành lập
mới, năm 2017 cũng có 26.448 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 0,9% so với năm
trước, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong năm đạt
153,3 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới
trong năm 2017 là 1.161,3 nghìn người, giảm 8,4% so với năm 2016. Tổng vốn đăng ký
thành lập mới năm 2017 là 1.295.911 tỷ đồng, tăng 45,4% so với cùng kỳ năm 2016. Thực tế
này cho thấy, mục tiêu đạt 1 triệu doanh nghiệp vào năm 2020 là khả thi. 2
Ngoài ra, hiện nay Việt Nam cũng đang nổi lên như một thị trường đầu tư mạo hiểm hấp
dẫn (Top 3 Đông Nam Á) thu hút vô số các nhà đầu tư kể cả trong và ngoài nước đến đầu tư
kinh doanh tạo nên một sân chơi không chỉ của riêng các doanh nghiệp trong nước. Chính vì
vậy các chính sách ưu đãi của nhà nước đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp, các DNNVV
càng trở lên cấp thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
III.

Các điểm bất cập trong các chính sách ưu đãi tài chính khởi nghiệp và các

giải pháp.
1. Các điểm bất cập.
Mặc dù các chính sách tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp của nước ta
đã cho thấy các lợi ích to lớn mà chúng mang lại cho nền kinh tế và sự phát triển của các

2 Trích Báo cáo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2017

8


doanh nghiệp và đất nước. Song đi đôi với sự tích cực phát triển bao giờ cũng tồn tại sự kìm
hãm sự phát triển đó. Ta có thể kể đến một số những yếu tố kìm hãm sự phát triển của doanh
nghiệp khởi nghiệp như sau:
Một là, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp khởi nghiệp chỉ là một cấu phần trong
các chương trình hoặc chính sách chung cho mọi thành phần kinh tế. Khâu tổ chức thực hiện
hiện nay, còn thiếu tính kịp thời; Công tác tổng kết, đánh giá các cơ chế, chính sách được
ban hành chậm nên chưa có sự điều chỉnh kịp thời để giải quyết những vướng mắc, khó khăn
đặt ra và hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả.
Hai là, doanh nghiệp Việt Nam có cơ cấu nhân sự, trình độ quản trị doanh nghiệp, nhất là
các chuẩn mực tài chính, kế toán yếu kém, mang tính gia đình trị, không minh bạch và
không đáng tin cậy đối với nhà đầu tư làm giảm tính hiệu quả của các chính sách ưu đãi.
Ba là, một số doanh nghiệp có thể có ý tưởng kinh doanh, công nghệ tốt nhưng lại thiếu
kỹ năng quản trị kinh doanh bài bản; các dự án muốn thu hút vốn đầu tư mạo hiểm không
được trình bày thuyết phục, nhất là bằng tiếng Anh.
Bốn là, tính chất quản trị mang tính khép kín, tính sẵn sàng chia sẻ cổ phần (chủ sở hữu)
và hợp tác kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao cũng ảnh hưởng bất lợi tới
việc việc tạo vốn ban đầu.
Năm là, khung pháp lý và chính sách vẫn còn bất cập, chậm được xử lý hữu hiệu. Đến
nay, theo khảo sát của Bộ KHCN vẫn còn bất cập trong thực thi các vấn đề bản quyền, sở
hữu trí tuệ trên nhiều phương diện khác nhau.
Sáu là, ở cấp độ quốc gia chưa có một chính sách tổng thể về doanh nghiệp khởi nghiệp;
các hoạt động khởi nghiệp trong thời gian vừa qua đều mang tính rời rạc, nhỏ lẻ, nhất là chỉ
dừng lại ở góc độ các cuộc thi, sân chơi, phong trào, chưa đi vào chiều sâu. Điều này không
những gây lãng phí, phân tán nguồn lực xã hội mà còn dẫn tới hiệu quả đạt được không cao.
2. Một số giải pháp nhằm đảm báo các chính sách ưu đãi về tài chính của nhà nước

cho doanh nghiệp khởi nghiệp đạt đươc hiệu quả.
Thứ nhất, nghiên cứu phát triển thêm các kênh huy động vốn cho doanh nghiệp khởi
nghiệp, chú trọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán với mô hình thị trường
chứng khoán cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó bao gồm cả doanh nghiệp khởi nghiệp.
9


Theo kinh nghiệm của một số nước và vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Đài Loan, việc phát
triển sàn giao dịch chứng khoán dành cho khởi nghiệp, giúp các doanh nghiệp huy động vốn
trực tiếp từ xã hội, tháo gỡ khó khăn về vốn phát triển sản xuất kinh doanh..
Thứ hai, cần thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp thông qua: Triển
khai đề án tổ chức giao dịch trái phiếu doanh nghiệp. Theo đó, cần hoàn thiện phương án tổ
chức thị trường trái phiếu doanh nghiệp sớm đưa thị trường giao dịch trái phiếu doanh
nghiệp vào hoạt động; Rà soát lại điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ theo
nguyên tắc gắn với công bố thông tin công khai và thực hiện đăng ký, lưu ký tập trung;
Khuyến khích các công ty đưa trái phiếu lên niêm yết; Xây dựng cổng thông tin trái phiếu
doanh nghiệp.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa trong lĩnh vực tài chính, trọng
tâm là lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh,
khuyến khích khởi nghiệp; Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc tổ chức
thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ về cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh
doanh, phát triển doanh nghiệp theo hướng: mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại
hóa phương thức quản lý, mở rộng phạm vi hoàn thuế điện tử, hóa đơn điện tử và hệ thống
hải quan điện tử…
Thứ tư, Nhanh chóng thành lập các Quỹ hỗ trợ đặc biệt của Nhà nước dành riêng cho
doanh nghiệp khởi nghiệp như: Quỹ Đầu tư tác động, Quỹ Sáng kiến giai đoạn đầu, Quỹ đầu
tư mạo hiểm theo ngành nghề và các quỹ đầu tư rủi ro. Hoạt động về gọi vốn của các Quỹ
cũng cần đa dạng hóa dưới nhiều hình thức, không dừng lại ở những phương thức truyền
thống như tín dụng ưu đãi, mà mở rộng ra các phương thức mới như phát hành trái phiếu
doanh nghiệp, gọi vốn cộng đồng, Quỹ đầu tư mạo hiểm.

Thứ năm, xây dựng Quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp theo mô hình hợp tác công
- tư thuộc Chính phủ nhằm mục đích kêu gọi vốn đầu tư, tài trợ từ các thành phần xã hội cho
các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiềm năng. Quỹ đầu tư này sẽ được đăng ký hoạt
động theo mô hình Công ty đầu tư tài chính và ủy thác đầu tư. Phần lợi nhuận tạo ra từ
nguồn đầu tư của Nhà nước và các nhà tài trợ sẽ được sử dụng để tái đầu tư cho hoạt động
ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khởi nghiệp cũng như đầu tư trực tiếp cho doanh
nghiệp khởi nghiệp tiềm năng.
10


Về nguồn vốn, Nhà nước góp vốn dưới dạng tài sản trí tuệ là thông tin về các kết quả
nghiên cứu có tiềm năng thương mại hóa cao, mạng lưới các chuyên gia công nghệ và
chuyên gia tư vấn khởi nghiệp trong nước, quốc tế; đồng thời, dưới dạng kinh phí dành cho
hoạt động ươm tạo công nghệ từ các quỹ do Chính phủ quản lý. Nguồn vốn tư nhân đến từ
các đơn vị tư nhân quản lý quỹ và từ nguồn vốn huy động từ các nhà đầu tư tư nhân khác.
Quỹ đầu tư hay Chương trình khởi nghiệp quốc gia thực hiện lựa chọn và đối ứng với
những cơ sở ươm tạo, quỹ đầu tư mạo hiểm hiệu quả nhất nhằm phục vụ hoạt động ươm tạo,
đầu tư cho giai đoạn đầu của doanh nghiệp khởi nghiệp, đặc biệt trong những lĩnh vực ưu
tiên như: nông nghiệp công nghệ cao, vật liệu mới, cơ khí chế tạo.

KẾT LUẬN
Qua những vấn đề nêu trên ta có thể thấy rằng Việt Nam được nhận định là một đất nước
có một hệ sinh thái khởi nghiệp vô cùng sinh động với các cơ cấu dân số vàng, chỉ số tăng
trưởng kinh tế ổn định, lĩnh vực Internet và di động phát triển tương đối nhanh... Vai trò định
hướng của nhà nước đối với hệ sinh thái khởi nghiệp là hết sức quan trọng. Tuy còn một số
hạn chế nhất định, nhưng chính phủ Việt Nam đã có những chính sách tạo điều kiện thuận
lợi cho cộng đồng khởi nghiệp cất cánh, củng cố hệ thống cơ sở hạ tầng đồng thời tăng
cường đào tạo nguồn nhân lực. Môi trường khởi nghiệp đã có, việc hiện thực hóa tinh thần
khởi nghiệp rất cần nỗ lực của mỗi tổ chức, cá nhân.


11


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Kết luận số 64 - KL/TW ngày 9/12/2010 của Ban Bí thư về kết quả thực hiện Nghị quyết
số 14-NQ/TW (khóa IX) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;
2. Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò
của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế;
3. Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) về việc
phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp;
4. Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017;
5. Báo cáo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2017;
6. Báo cáo tình hình chứng khoán năm 2017 của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước;
7. Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 9/2016; kỳ I tháng 12/2017.

12



×