Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Ưu thế và khuyết tật của sản xuất hàng hóa và liên hệ với nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.06 KB, 16 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM
MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MAC – LÊNIN
ĐỀ BÀI: 01

“Hãy phân tích những ưu thế và khuyết tật của
sản xuất hàng hóa và liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay ”

NHÓM:

02

LỚP:

4302/ TL1


Hà Nội,2019
MỤC LỤC

PHẦN I: SẢN XUẤT HÀNG HÒA VÀ NHỮNG ƯU THẾ CỦA
SẢN XUẤT HÀNG HÓA.
1, Sản xuất hàng hóa
2, Những ưu thế của sản xuất hàng hóa
PHẦN II: NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA
PHẦN III: LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1, Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam về mặt ưu thế của sản


xuất hàng hóa.
2, Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam về mặt khuyết tật của
sản xuất hàng hóa
2.1, Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
2.2, Đưa ra một số biện pháp khắc phục khuyết tật của sản
xuất hàng hóa
PHẦN IV: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN I: SẢN XUẤT HÀNG HÒA VÀ NHỮNG ƯU THẾ CỦA
SẢN XUẤT HÀNG HÓA.
1, Sản xuất hàng hóa:
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua
hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất
hàng hóa.
Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do
lao động Tạo ra là nhằm để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của
người sản xuất.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm
được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử
phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình
trạng "mông muội", xóa bó nền kinh tế tự nhiên, phát triển
nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế
của xã hội.
2, Những ưu thế của sản xuất hàng hóa:
So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hóa mang
nhiều ưu thế vượt trội hơn :
Một là, sự phát triển sản xuất hàng hóa làm cho phân công lao
động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hóa, hợp tác hóa

ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày
càng chặt chẽ. Từ đó, nó xóa bỏ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ, trì
trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất và


lao động. Ví dụ như muốn sản xuất một chiếc xe máy, cụ thể
gồm các chi tiết như lốp xe, khung xe, máy móc , đèn, ... thì
mỗi chi tiết phải qua từng công ty chuyên sản xuất từng chi tiết
đó cung cấp, sau đó mới lắp ráp thành chiếc xe máy. Qua đó thể
hiện đây là sự chuyên môn hóa, hợp tác hóa giữa các ngành,
các công ty với nhau.
Hai là, tính tách biệt về kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng
hóa phải năng động trong sản xuất - kinh doanh để sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa. Muốn vậy, họ phải ra sức cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến quy trình,
mẫu mã hàng hóa, tổ chức tốt quá trình tiêu thụ... Từ đó làm
tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất như
phát triển. Vào năm 1989, Việt Nam là một trong các nước thiếu
lương thực trầm trọng, nhưng đến năm 2012, nhờ những cải
tiến cả về quy trình kĩ thuật cùng với nâng cao chất lượng, kể cả
về mẫu mã bắt mắt ( như việc quản lý tổ chức nắm giữ toàn bộ
đất đai, cơ sở vật chất, máy móc, trâu bò của các hợp tác xã
được chuyển về các hộ nông dân) làm cho năng suất lao động
tăng, từ đó lực lượng sản xuất cũng tăng lên và đạt được kết
quả đáng kinh ngạc là hơn 8 triệu tấn.
Ba là, sản xuất hàng hóa quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất
tự cấp tự túc về quy mô, trình độ kỹ thuật, Công nghệ, về khả
năng thỏa mãn nhu cầu... Vì vậy, sản xuất hàng hóa quy mô lớn
là hình thức tổ chức kinh tế xã hội hiện đại phù hợp với xu thế
thời đại ngày nay. Trước đây, ở những vùng nông thôn các hộ

dân thường nuôi trâu bò với quy mô nhỏ lẻ, thả rông nhưng hiện
nay nhiều hộ gia đình đã nuôi với quy mô lớn hơn cả về số
lượng và chất lượng với hình thức trang trại áp dụng khoa học


kỹ thuật: hệ thống chuồng trại, máy băm cỏ, hệ thống uống
nước vệ sinh tự động,... Việc nuôi dưỡng gia súc ngày càng
chuyên nghiệp, phát triển và cũng đảm bảo được chất lượng gia
súc phù hợp nhu cầu của thị trường.

Bốn là, sản xuất hàng hóa là mô hình kinh tế mở, thúc đẩy
giao lưu kinh tế, giao lưu văn hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Như giao lưu
văn hóa Asean-Venezuela: Sự kiện có nhiều hoạt động trưng bày
các sản phẩm văn hóa, biểu diễn nghệ thuật, ẩm thực của 3
nước ASEAN (Việt Nam, Indonesia, Malaysia) và Venezuela.
Tham gia Ngày giao lưu văn hóa ASEAN-Venezuela, Đại sứ quán
Việt Nam trưng bày các sản phẩm như nhạc cụ, trang phục
truyền thống, tranh đá quý hình ảnh các danh lam thắng cảnh,
văn hóa vật thể và phi vật thể đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa
học, Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận, cũng như
giới thiệu một số món ăn Việt Nam.
PHẦN II: NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA
Bên cạnh những mặt tích cực , sản xuất hàng hóa cũng có
những mặt trái của nó như phân hóa giàu nghèo giữa những
người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng
kinh tế- xã hội, phá hoại môi trường sinh thái...
Thứ nhất, sản xuất ra hàng hóa và khả năng tiêu thụ của thị
trường không bao giờ cân bằng, điều chỉnh để gần sự cân bằng
nhất thì rất khó. Chính vì thế xảy ra các hiện tượng như cung

vượt quá cầu hay cầu vượt quá cung gây ra các đợt khủng
hoảng thừa, thiếu ở các nền kinh tế.
Thứ hai, sản xuất phát triển khiến cho người chủ càng ngày
càng giàu, người lao động không được trả công xứng đáng; sản


xuất hàng hóa ra đời dẫn đến sự phân phối thu nhập không
công bằng giữa những người sản xuất tốt – những người sản
xuất kém, người sản xuất – người không sản xuất, có những
mục tiêu xã hội dù cơ chế thị trường hoạt động trôi chảy cũng
không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường sản xuất
hàng hóa dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, sự phân cực của cải,
tác động xấu đến đạo đức xã hội và tình người. Sự tác động của
sản xuất hàng hóa sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao nhưng đồng
thời cũng để lại nhiều hệ lụy liên quan, không tự động mang lại
giá trị “ chân –thiện – mĩ” mà xã hội vươn tới.
Thứ ba, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp hướng tới
là lợi nhuận tối đa. Vì vậy, họ có thể lạm dụng tài nguyên thiên
nhiên, khai thác tài nguyên hết mức có thể mà không lường
trước hậu quả, chỉ vì lợi ích trước mắt mà không hề suy tính cho
tương lai, cho thế hệ sau này.
Thứ tư, sản xuất hàng hóa còn gây tác động xấu tới môi
trường sinh thái. Hoạt động sản xuất hàng hóa ngày càng phát
triển kéo theo đó lượng chất khí thải cũng tăng theo, dẫn đến
việc môi trường sống của con người cũng bị ô nhiêm. Như tại Mỹ
và Trung Quốc, hai nước đang có nền công nghiệp rất giàu có và
đầy tiềm năng, thì tại đó cũng là hai nơi thải ra lượng khí thải
lớn nhất, bằng ½ lượng khí thải cả toàn thế giới, gây hậu quả
nguy hại cho bầu khi quyển. Ngoài ra cũng chỉ vì hai chữ “lợi
nhuận”, các doanh nghiệp tìm mọi cách cắt giảm các chi phí,

trong đó có phần chi phí cho công tác xử lý chất thải, thải ra
môi trường mà không qua các bước theo quy trình xử lý chất
thải theo quy định.
PHẦN III: LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY


1, Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam về mặt ưu thế của sản
xuất hàng hóa.
Việt Nam từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời phong kiến
tới nền kinh tế hàng hóa sau này không ngừng biến đổi và phát
triển. Hiện nay, với một nền kinh tế có tốc độ phát triển cao,
Việt Nam có giá nhân công rẻ, trình độ dân trí khá cao, thị
trường lớn với dân số đông, một đất nước ổn định về chính trị và
một quyết tâm đổi mới mạnh mẽ của chính phủ, tài nguyên
thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi với hơn 3000km
đường biển... mặt khác, từ tháng 11/2006 nước ta đã chính thức
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) tạo được niềm tin với các nhà đầu tư và bạn bè quốc tế.
Vị trí địa lý của Việt Nam tạo ra một lợi thế cho các sản
phẩm Việt Nam. Là một nước trung tâm ASEAN, lại nằm bên
cạnh một thị trường rộng lớn Trung Quốc, lợi thế địa lý này cần
được các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chú trọng. Trung
tâm của ASEAN còn giúp Việt Nam thuận tiện trong lưu thông
hàng hóa, có được các nguồn nguyên liệu phong phú từ các
nước trong khu vực. Theo số liệu tổng cục thống kê năm 2016
xuất khẩu, điện thoại và linh kiện sang thị trường Asean đạt gần
2,27 tỷ USD tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó
việc tham gia nhiều hơn vào các khu vực thương mại tự do cả
đa phương và song phương (Hiệp định TPP, FTA Việt Nam với

Hàn Quốc, EU, liên minh kinh tế Á-Âu cũng chứng tỏ sự hội nhập
ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu, với
các rào cản thương mại dần dần được xóa bỏ (sau khi các FTA
hầu hết mức thuế về 0% còn lại là dưới 5%) quan hệ thương mại
của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ
ngày được cải thiện và nâng cao. Xuất khẩu hàng hoá Việt Nam
nhờ đó có thể trở nên quen thuộc, gần gũi và rộng rãi, đặc biệt


là với các mặt hàng mà nước ta đã gây dựng được thương hiệu
với thế giới như nông sản, thủy sản, may mặc,...

Khí hậu Việt Nam là nhiệt đới ẩm, phân hóa theo địa hình,
nhiều mưa phù hợp với nhiều loại như nông sản, đặc biệt có thể
trồng được nhiều loại cây thuộc nhiều loại khí hậu khác nhau, từ
đó làm phong phú thị trường nông sản nước ta. Nhờ vậy nguyên
liệu đồi dao, giá rẻ (nhất là nguyên liệu cho các ngành sản xuất
thực phẩm, vật liệu xây dựng…) như vậy, nếu biết tận dụng sẽ
tiết kiệm được chi phí mua nguyên liệu. Giảm chi phí sản xuất
sẽ làm giảm giá cả của hàng hóa, sẽ làm cho hàng hóa tăng
thêm sức cạnh tranh về giá.
Cùng với sự hình thành mạng lưới cảng biển, các tuyến
đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong
nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên Á) cho phép vùng
biển và ven biển Việt Nam có khả năng chuyển tải hàng hóa
nhập khẩu tới mọi miền đất nước một cách nhanh chóng và
thuận lợi. Hàng hóa xuất và nhập khẩu của Việt Nam sẽ không
cần phải quá cảnh qua những nước láng giềng. Ngược lại, hàng
hóa của vùng Đông Bắc Thái Lan, Lào, Campuchia và tỉnh Vân
Nam (Trung Quốc) xuất khẩu sang những nước khác có tiềm

năng quá cảnh và tạm thời lưu kho trên lãnh thổ VN, Thái Lan,
Myanmar và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
Dân số Việt Nam đã đạt tới con số trên 90 triệu người-đứng
thứ 14 trên thế giới và đứng thứ 8 ở Châu Á. Theo thống kê của
Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình (Bộ y tế), bắt đầu từ
năm 2007, với tỷ số phụ thuộc chung (nhóm dân số 14 tuổi và
nhóm dân số 65 tuổi tính trên nhóm dân số 15 – 60) dưới 50%


Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”.
Giai đoạn này chỉ xuất hiện 1 lần và kéo dài trong khoảng 30
đến 40 năm. Cơ cấu “dân số vàng” là cơ hội sử dụng nguồn lao
động trẻ dồi dào cho việc tăng trưởng và phát triển kinh tế, tạo
nên giá trị tích lũy lớn cho tương lai. Với mức tăng nguồn lao
động hiện nay, mỗi năm nước ta có thêm hơn một triệu lao
động. Người lao động nước ta cần cù, sáng tạo, có kinh nghiệm
sản xuất phong phú, gắn liền với truyền thống dân tộc được tích
lũy qua nhiều thế hệ. Giá nhân công nhân của nước ta lại rẻ.
Đây chính là điều kiện thuận lợi làm cho giá thành sản phẩm
của doanh nghiệp Việt Nam rẻ hơn so với các nước khác.
Sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố không thể
thiếu, góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát
triển kinh tế cũng như phát triển sản xuất hàng hóa. Nền chính
trị ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hoà bình và thịnh
vượng.Nếu nhìn sang một số quốc gia trong khu vực, dễ thấy
rằng, trừ Singapore, thì từ năm 1990 trở lại đây, hầu hết các
nước khu vực đều trải qua các cuộc đảo chính hay khủng hoảng
chính trị. Trong khi đó, nền chính trị của Việt Nam luôn ổn định,
đây là một đảm bảo cho sự gắn kết để thực hiện chính sách
kinh tế nhất quán cũng như sự thành công trong sự nghiệp đổi

mới của Việt Nam.
2, Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam về mặt khuyết tật của
sản xuất hàng hóa
2.1, Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
Nguồn nhân lực nước ta dồi dào về số lượng tuy nhiên
nhưng lại kém về chất lượng, chủ yếu là lao động thủ công,
công nghiệp máy móc còn hạn chế. Ở Việt Nam có rất nhiều
công nhân tìm kiếm đến những việc không đòi hỏi tính chuyên


môn cao và phần lớn các doanh nghiệp sẽ đào tạo chuyên môn
cho các công nhân. Việc này dẫn đến năng suất lao động không
cao, không thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong 1
đơn vị thời gian.
Sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay đang thiếu đi khả
năng tự chủ trong sản xuất. Nhiều mặt hàng đang phải đi nhập
nguyên liệu, bộ phận từ nơi khác về lắp ráp chế biến như điện
thoại, chế biến dầu… Đó là yếu điểm lớn nhất dẫn đến giá cả
hàng hóa bấp bênh vì nguồn nhập khẩu không cố định.
Các thiết bị máy móc trong sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
còn lạc hậu, chưa cải tiến hay cải tiến chậm tạo ra sản phẩm có
chất lượng không ổn định khó để cạnh tranh về giá đối với các
thị trường nước ngoài khác. Phần lớn các doanh nghiệp của
nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với các nước trên
thế giới từ 2-3 thế hệ, 80-90% công nghệ nước ta đang sử dụng
là công nghệ nhập khẩu, 76% máy móc, dây chuyền công nghệ
nhập khẩu thuộc thập niên 50-60, 50% là đồ tân trang. Từ đó
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm tạo ra sẽ thấp và
không ổn định
Cập nhật công nghệ còn kém, sáng tạo trong sản xuất lẫn

khoa học kĩ thuật trong nước còn hạn chế dẫn đến nước ta đang
tụt hậu công nghệ so với các nước khác, làm cho hiệu quả sản
xuất không được tối đa hóa, chất lượng kém, thiếu ổn định.
Sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là sự
tư duy sáng tạo còn kém và công nghệ trong sản phẩm không
cao, điều đó làm giảm đi chất lượng của sản phẩm.
Chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên
vật liệu cho sản xuất. Ngay cả các sản phẩm là thế mạnh của


nước ta thì vẫn phải nhập nguyên liệu như dệt may, da giầy,
thực phẩm… Nhiều sản phẩm có giá thành không ổn định cũng
là do phụ thuộc vào tính chất bấp bênh của nguyên liệu.
Hiện nay, tình trạng tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp
vẫn còn tồn tại gây ảnh hưởng đến đất nước và hình thành tệ
nạn xấu trong xã hội.
2.2, Đưa ra một số biện pháp khắc phục khuyết tật của sản
xuất hàng hóa
Phát triển nền sản xuất hàng hóa cho xuất nhập khẩu nhằm
mở rộng thị trường: Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi cho việc
giao thương, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ. Điều này cho thấy
lực lượng lao động của nước ta có đủ điều kiện để sản xuất
hàng hóa xuất nhập khẩu. Hiện nay, nhiều mặt hàng xuất khẩu
như gạo, cá tra, cá basa… đã đóng góp một phần không nhỏ
cho GDP nước ta.
Phát triền nền kinh tế nhiều thành phần sở hữu trên nền
tảng công hữu: Là một quốc gia đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa nên việc coi trọng công hữu là không thể bỏ qua. Nhưng
với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần sở hữu trên nền
tảng công hữu giúp chúng ta vừa phát triển được nền kinh tế thị

trường vừa phát triển được chính trị theo hướng xã hội chủ
nghĩa.
Hoàn thiện thể chế thị trường chặt chẽ và phù hợp: Chúng
ta cần đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
chặt chẽ và phù hợp hơn với nền kinh tế trong nước để giúp
nước ta dễ dàng kiểm soát được tình hình, nhanh chóng nắm
bắt được thời cơ giúp nước ta kịp thời đưa ra các cách giải quyết


phù hợp để phát triển kinh tế. Đây là việc rất quan trọng trong
quá trình phát triển nền sản xuất hàng hóa.
Tập trung đào tạo lực lượng lao động có trình độ cao: Tỷ lệ
lao động thất nghiệp ở Việt Nam rất cao nhưng lại không đủ số
lao động có trình độ lao động nên không đáp ứng được nhu cầu
của nền kinh tế. Nước ta nên ở rộng đào tạo lực lượng lao động
có trình độ cao, chuyên môn sâu.
Phát triển vùng kinh tế trọng điểm: Việc xây dựng các vùng
kinh tế trọng điểm giúp ta tận dụng lợi thế từng vùng đẻ phát
triển hợp lý. Hiện nay nước ta có 24 vùng kinh tế trọng điểm với
các cách phát triên kinh tế khác nhau. Đây là cách nhanh chóng
để giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta.
Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên: Cần phải có sự quản
lý chặt chẽ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp khai thác
các tài nguyên thiên nhiên của đất nước, đặc biệt là nguồn tài
nguyên thiên nhiên mà hiện nay đang xếp vào hàng quý hiếm.
Hạn chế, mức tối thiểu việc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Các doanh nghiệp cần phải tìm kiếm, nghiên cứu, tái tạo các
nguồn tài nguyên khác để thay thế trong sản xuất hàng hóa.
Vấn đề nhập khẩu những máy móc từ nước ngoài, Việt Nam
cần làm gì để hạn chế việc nhập khẩu đó, thay vào đó là tự sản

xuất , tái tạo từ máy móc cũ, nghiên cứu học tập việc sản xuất
máy móc của các nước, sử dụng những nguyên vật liệu tốt để
đảm bảo được tuổi thọ máy móc được lâu dài, tiết kiệm chi phí
cho các doanh nghiệp sản xuất khác
Đổi mới công nghệ phải căn cứ vào chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp và xu thế phát triển của công nghệ thế giới
để lựa chọn công nghệ thích hợp, sản xuất đáp ứng nhu cầu thị


trường trên cơ sở tiết kiệm chi phí. Doanh nghiệp cần phải đầu
tư đổi mới đồng bộ dứt điểm từng dây chuyền công nghệ những
sản phẩm quan trọng, mũi nhọn, tránh đầu tư lan man. Dây
chuyền máy móc hiện đại sẽ làm ra nhiều sản phẩm hơn, đồng
đều hơn, giảm bớt sức lao động chân tay trong mỗi sản phẩm.
Như vậy, giá thành của sản phẩm cũng có thể hạ.
Nhà nước cần phải tuyên truyền, ủng hộ, giúp đỡ cho sự
phát triển sản xuất hàng hóa. Khuyến khích người lao động tích
cực tham gia lao động, tránh tình trạng thất nghiệp nảy sinh
các tệ nạn xã hội, giúp đỡ lệ phí cho người lao động có thể học
tập chế tạo máy móc. Công nhận, khen thưởng, tuyên dương
các cá nhân có thành tựu đặc biệt đối với sự phát triển của sản
xuất hàng hóa ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, Nhà nước vẫn cần duy trì kiểm tra thường
xuyên, liên tục và cần xử phạt nghiêm khắc đối với các trường
hợp sản xuất hàng hóa phi pháp, buôn lậu, …
Thực hiện phương châm “ Dân biết, Dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” là vô cùng quan trọng trong thúc đẩy và quản lý kinh
tế - xã hội của dất nước
Những ngành kinh tế mới phát triển , những thị trường mới
hoạt động đều được định hướng, nhà nước ban hành những bộ

luật mới để đảm bảo việc hoạt động của những thị trường, lĩnh
vực đó như: luật kinh doanh, luật doanh nghiệp. luật đầu tư bất
động sản, luật đầu tư chứng khoán, luật bảo vệ môi trường…..
Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại, phải đa dạng hóa
hình thức, đa phương hóa đối tác ; phải quán triệt nguyên tác
đôi bên cùng có lợi , không can thiệp vào nội bộ của nhau và
không phân biệt chế độ chính trị xã hội, cải cách cơ chế quản lý


xuất nhập khẩu , thu hút mạnh vốn và đầu tư nước ngoài , thu
hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý của các nước
phát triển.
Nhà nước cần tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội đầu tư
vào trong sản xuất hàng hóa để tăng thu nhập giảm bớt đi tình
trạng phân hóa giàu nghèo, cụ thể như: nhà nước cung cấp vốn
và tín dụng với mức lãi suất thấp

Các trường học ngay từ cấp phổ thông cần hướng dẫn cho
những học sinh có học lực yếu và không có ý định học đại học,
cao đẳng, việc đi học ở các trung tâm đào tạo nghề nghiệp đảm
bảo đầu ra có công việc ổn định để giảm thiểu việc thất nghịệp
và hạn chế việc xảy ra các tệ nạn xã hội do các học sinh gây ra.
Tóm lại, muốn khắc phục các khuyết tật của sản xuất hàng
hóa cần có sự chung tay của Nhà nước , Đảng lãnh đạo cùng với
người dân. Để có thể cùng nhau xây dựng và phát triển kinh tế
đất nước ngày càng vững mạnh, và thực hiện theo lời dạy của
Bác đưa Việt Nam ta “ sánh vai” cùng càng cường quốc năm
châu.



PHẦN IV: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lê
nin , Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
2. />3. />4. tuoitre.vn/vu-vedan-giet-song-thi-vai-thanh-cong-suot-14-nam-278743.htm
5. Bài viết “ Doanh nghiệp với vấn đề bảo vệ môi trường”
/>6. Phân tích ưu nhược điểm của sản xuất hàng hóa
/>7. Đề tài Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu người nghèo


/>8. />9. />10. />11. />12. />


×