Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Nguyên tắc giá gốc trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam một số vấn đề đặt ra nhằm tăng cường tính minh bạch của thông tin trình bày trên BCTC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.95 KB, 52 trang )

[Type text]
Mục lục
Lời nói đầu…………………………………………………………………....2
Chương 1: Cơ sở lý luận về định giá và nguyên tắc định giá trong trình bày
thông tin trên BCTC………………………………………………………..…4
1.1. Các cơ sở tính giá để đo lường và ghi nhận các yếu tố của BCTC……....4
1.1.1. Giá trị hợp lý………………………………………………………..… 4
1.1.2. Giá gốc………………………………………………………………....5
1.1.3. Giá hiện hành…………………………………………………………..5
1.1.4. Giá trị thuần có thể thực hiện được…………………………………….6
1.3. Quy định về trình bày thông tin trên BCTC trong Chuẩn mực kế toán Việt
Nam……………………………………………………………………...9
1.3.1. Khái niệm, mục đích và tác dụng của BCTC………………………….9
1.3.2. Nguyên tắc trình bày thông tin trên BCTC theo CMKT Việt Nam…..12
Chương 2: Nguyên tắc giá gốc trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam và việc
trình bày thông tin trên BCTC……………………………………………....17
2.1. Khái quát chung Chuẩn mực kế toán Việt Nam……………………...…17
2.2. Nguyên tắc giá gốc trong chuẩn mực kế toán và ảnh hưởng của nguyên
tắc này trong trình bày thông tin trên BCTC………………………………...19
2.3. Phương pháp giá gốc trong trình bày thông tin trên BCTC………….....24
2.4. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc giá gốc trong trình bày BCTC…………..27
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường tính minh bạch của thông tin kế toán
trình bày trong BCTC…………………………………………………..33
3.1. Tính minh bạch của thông tin trình bày trên BCTC………………….....33
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường tính minh bạch của thông tin kế toán trình
bày trong BCTC……………………………………………………………..38
3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường tính minh bạch của thông tin trình bày
trong BCTC……………………………………………………………….…49
Kết luận………………………………………………………………..…….50

1




[Type text]

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung cũng như xu hướng
cổ phần hóa nói riêng, báo cáo tài chính (BCTC) đóng vai trò rất quan trọng.
Thông tin trình bày trong các BCTC là phương tiện giúp cho các đối tượng sử
dụng thông tin như: các nhà quản trị doanh nghiệp, nhà đầu tư, chính phủ và
các ban ngành chức năng như cơ quan thuế, cơ quan thống kê nắm bắt một
cách sát thực nhất về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các
quyết định quản trị, quản lý và đầu tư một cách phù hợp. Tuy nhiên, có thể
thấy việc trình bày thông tin trên BCTC của các doanh nghiệp hiện nay còn
tồn tại nhiều bất cập. Để khắc phục thực trạng này cũng như để tăng cường
tính minh bạch của thông tin kế toán trình bày trong BCTC đã có nhiều công
trình nghiên cứu ra đời, nhiều giải pháp được đặt ra. Đứng trên góc độ xem
xét từ khía cạnh nguyên tắc giá gốc trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam,
nhóm tác giả đã mạnh dạn lựa chọn và hoàn thành đề tài: “Nguyên tắc giá gốc
trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam- một số vấn đề đặt ra nhằm tăng cường
tính minh bạch của thông tin trình bày trên BCTC”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận về định giá
và nguyên tắc định giá trong trình bày thông tin trên BCTC; nguyên tắc giá
gốc trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam và việc trình bày thông tin trên
BCTC; từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường tính minh bạch của thông
tin kế toán trình bày trong BCTC.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Nguyên tắc giá gốc trong Chuẩn mực kế toán
Việt Nam và tính minh bạch thông tin trình bày trong BCTC.

- Phạm vi nghiên cứu: Chuẩn mực kế toán Việt Nam và các loại BCTC.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin là cơ sở phương
pháp luận
2


[Type text]
- Kết hợp nghiên cứu lý luận với khảo sát thực tế vận dụng nguyên tắc
giá gốc trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam về BCTC.
- Phương pháp kỹ thuật: kết hợp với các phương pháp khảo sát, so sánh,
phân tích đánh giá, tổng hợp, quy nạp, diễn giải…
- Tham khảo ý kiến các chuyên gia, kế thừa các kết quả đã nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về định giá và nguyên tắc định giá trong trình
bày thông tin trên BCTC.
Chương 2: Nguyên tắc giá gốc trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam và
việc trình bày thông tin trên BCTC.
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường tính minh bạch của thông tin kế
toán trình bày trong BCTC.

3


[Type text]

Chương 1: Cơ sở lý luận về định giá và nguyên tắc định giá trong
trình bày thông tin trên BCTC.

1.1. Các cơ sở tính giá để đo lường và ghi nhận các yếu tố của BCTC
1.1.1. Giá trị hợp lý
Cơ sở tính giá hợp lý bắt đầu được sử dụng rộng rãi từ cuối những năm
1990 khi Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) nghiên cứu ban hành
mới và sửa đổi các chuẩn mực kế toán như: Nông nghiệp, Bất động sản đầu
tư, thanh toán trên cơ sở cổ phiếu, công cụ tài chính… Các chuẩn mực kế toán
(IAS) và chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) đều sử dụng định
nghĩa “Giá trị hợp lý là mức giá mà một tài sản có thể được trao đổi giữa các
bên có đầy đủ hiểu biết trong một giao dịch ngang giá.”.
Ưu điểm của giá trị hợp lý:
- Tiếp cận dựa trên thị trường : Giá trị hợp lý là cơ sở tính giá phản ánh
được mức giá kỳ vọng của thị trường hiện tại và tương lai đối với một tài sản
hoặc một khoản nợ phải trả. Do vậy, trong mối quan hệ với các cơ sở định giá
khác thay thế, giá trị hợp lý được coi là cơ sở định giá giúp thông tin tài chính
phản ánh tốt nhất dòng tiền tương lai của đơn vị cũng như khả năng thanh
khoản và linh hoạt tài chính của đơn vị.
- Cung cấp thông tin hữu ích hơn : Gắn với các mục tiêu và yêu cầu của
thông tin tài chính, có thể nhận thấy giá trị hợp lý sẽ góp phần làm cho thông
tin tài chính thích hợp hơn với nhu cầu sử dụng thông tin trong điều kiện nền
kinh tế thị trường phát triển.
Nhược điểm của giá trị hợp lý: Tính khách quan và tin cậy của giá hợp
lý còn nhiều điểm chưa được đảm bảo:
- BCTC theo cách tiếp cận giá trị hợp lý luôn tồn tại những mâu thuẫn
về logic kinh tế nếu giá trị hợp lý được sử dụng triệt để đối với mọi khoản
mục. Chẳng hạn, người sử dụng thông tin tài chính sẽ khó có thể hiểu ý nghĩa
kinh tế của các khoản thu nhập phát sinh do biến động tăng giá trị hợp lý của
một số tài sản trong khi mục đích nắm giữ tài sản này của doanh nghiệp là để
có doanh thu trong dài hạn, chứ không phải bán tài sản trong ngắn hạn.

4



[Type text]
- Hạn chế của cơ sở tính giá này càng thể hiện rõ khi nó được áp dụng
để đánh giá các tài sản mà doanh nghiệp không có ý định bán, thanh toán
trong ngắn hạn hoặc trong điều kiện không có thị trường hoạt động hiệu quả
cho tài sản và nợ phải trả. ở các nước đang hình thành và phát triển nền kinh
tế thì việc áp dụng cơ sở tính giá này cần phải xem xét kỹ càng hơn.
1.1.2. Giá gốc
Giá gốc của tài sản là số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải
trả hoặc tính theo giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi
nhận.
Một cách tổng quát , cơ sở giá gốc đòi hỏi kế toán phải ghi chép giá trị
một tài sản được mua theo phí tổn được tính bằng tiền trên cơ sở trao đổi
ngang giá tại thời điểm hoàn tất việc mua và giá trị này được giữ nguyên kể
cả trong trường hợp sau đó giá cả của những tài sản tương tự có thể thay đổi
trên thị trường.
Ưu điểm của giá gốc:
Trong hầu hết các trường hợp xác định giá gốc của tài sản và nợ phải
trả đều dựa trên các bằng chứng khách quan có thể thẩm định nên có thể
khẳng định giá gốc có độ tin cậy cao nhất trong các cơ sở tính giá mà kế toán
có thể sử dụng.
Giá gốc là thông tin thích hợp cho các quyết định kinh tế thông qua
phân tích mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận, định giá bán sản phẩm,
tiếp tục sản xuất và ngừng một bộ phận nào đó và một loạt các quyết định
khác trên cơ sở căn cứ vào các hệ số tính toán dựa trên thông tin trình bày
trong báo cáo tài chính.
Nhược điểm của giá gốc:
Cơ sở tính giá này chủ yếu phản ánh các dòng tiền trong quá khứ mà ít
có sự liên hệ rõ ràng với khả năng tạo ra dòng tiền tương lai của doanh

nghiệp. Gắn với mục tiêu cung cấp thông tin tài chính và nhu cầu của đối
tượng sử dụng thông tin hiện nay, giá gốc bộc lộ một số hạn chế về tính thích
hợp
1.1.3. Giá hiện hành

5


[Type text]
Giá hiện hành là mức giá kinh tế nhất mà doanh nghiệp phải trả hoặc
chi phí hợp lý nhất phải bỏ ra để có được tài sản thay thế với công suất và
năng lực hoạt động tương đương với tài sản hiện có. Giá hiện hành có thể xác
định theo cách tiếp cận từ bên trong doanh nghiệp (còn gọi là giá thành sản
xuất thay thế) hoặc với cách tiếp cận bên ngoài doanh nghiệp (được gọi là giá
mua thay thế).
Ưu điểm của giá hiện hành:
Trong điều kiện không tồn tại thị trường hoạt động cho tài sản và nợ
phải trả hoàn toàn giống nhau tại thời điểm ghi nhận ban đầu thì giá hiện hành
nếu đảm bảo được tính tin cậy được ưu tiên sử dụng để phản ánh đúng bản
chất của đối tượng kinh tế tài chính.
Nhược điểm của giá hiện hành:
Giá hiện hành phản ánh mặt bằng giá thị trường hiện tại trong điều
kiện hiện tại của thị trường nên cũng ít có sự liên hệ trực tiếp đến khả năng
tạo ra dòng tiền trong tương lai. Chính vì thế thông tin mà nó mang lại không
đáp ứng tốt các mục tiêu cung cấp thông tin mà kế toán hướng tới.
Mặt khác, giá hiện hành cũng được xác định trên cơ sở thông tin thu
thập từ thị trường với giả định các điều khoản trong giao dịch là kinh tế nhất
đối với doanh nghiệp. Nên đứng trên góc độ của các đối tượng khác sử dụng
thông tin tính tin cậy chưa được đảm bảo.
1.1.4. Giá trị thuần có thể thực hiện được

Giá trị thuần có thể thực hiện được của tài sản là giá bán ước tính trong
điều kiện hoạt động bình thường của doanh nghiệp trừ chi phí ước tính để
hoàn thiện và để bán tài sản. Giá trị thuần có thể thực hiện được của nợ phải
trả được hiểu là khoản doanh nghiệp sẽ phải thanh toán trong điều kiện hoạt
động bình thường liên quan đến khoản nợ phải trả cộng các chi phí phát sinh
để thực hiện nghiệp vụ thanh toán nợ.
Xuất phát từ khái niệm trên, có 3 yếu tố cần thiết để tính được giá trị
thuần

thể
thực
hiện
được.
1. Giá bán ước tính là giá có thể bán được các mục hàng đó trên thị trường.
Có thể tham chiếu giá cả thị trường tại thời điểm lập BCTC.
2. Chi phí ước tính để hoàn thành là các chi phí ước tính sẽ phát sinh để
hoàn thiện cái sản phẩm (trong trường hợp là sản phẩm chưa hoàn thành, hoăc
6


[Type text]
sản phẩm cần sửa chữa, hay gia công thêm trước khi có thể đem bán)
3. Chi phí ước tính cho việc tiêu thụ là các chi phí liên quan đến việc bán các
sản phẩm đó chẳng hạn như là chi phí đóng gói lại, chi phí cho nhân viên bán
hàng, đại lý bán hàng.
Ưu điểm của giá trị thuần có thể thực hiện được:
Việc định giá trên nguyên tắc giá này đảm bảo tuân thủ tốt nhất
nguyên tắc thận trọng - “Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các
khoản thu nhập”. Và một khi nguyên tắc thận trọng được đảm bảo, tức là
thông tin kế toán được cung cấp sẽ mang tính tin cậy cao. Hay nói cách khác

các nhà đầu tư cũng như các đối tượng khác sử dụng thông tin sẽ đánh giá
đúng giá trị những tài sản có xu hướng giảm giá, mất giá hoặc không bán
được hay cũng chính là nắm bắt tình hình kinh doanh của doanh nghiệp một
cách chính xác nhất, điều mà giá gốc không thực hiện được, từ đó đưa ra các
quyết định phù hợp.
Nhược điểm của giá trị thuần có thể thực hiện được:
Xét về tính thích hợp của thông tin giá trị thuần có thể thực hiện có
những hạn chế nhất định do cơ sở tính giá này đặt trọng tâm vào giao dịch
bán (Trong khi các tài sản của doanh nghiệp nắm giữ không phải để bán).
Ngoài ra, cơ sở tính giá này thiên về phản ánh giá trị mong đợi của riêng
doanh nghiệp mà không phản ánh kì vọng chung về giá của thị trường. Với
mục tiêu là Báo cáo tài chính cung cấp các thông tin chung nhất cho các đối
tượng khác nhau thì thông tin ghi nhận ban đầu trên cơ sở giá trị thuần có thể
thực hiện được sẽ khó đảm bảo tính thích hợp.
Xét về tính tin cậy, giá trị thuần có thể thực hiện cũng dựa trên các ước
tính kế toán trong có có ước tính trên cơ sở thị trường (giá bán) và ước tính
chi phí của doanh nghiệp (chi phí hoàn thiện và chi phí bán). Do vậy, trong
nhiều tình huống tính tin cậy của thông tin tài chính cũng khó được đảm bảo.
Để có thể được sử dụng trong đánh giá tài sản và nợ phải trả khi ghi
nhận ban đầu, giá trị thuần có thể thực hiện được cần được điều chỉnh nhằm
giảm sự phụ thuộc vào giao dịch bán tài sản và sự kì vọng của chính doanh
nghiệp.
Vậy, vì sao Việt Nam lại áp dụng giá gốc mà không phải giá khác
trong ghi nhận thông tin trình bày trên BCTC?
7


[Type text]
Trước tiên, căn cứ vào các tiêu chí đánh giá và lựa chọn các cơ sở tính
giá trong kế toán.Trên cả phương diện lý thuyết và thực tế, có nhiều cơ sở

định giá để các nhà soạn thảo chuẩn mực, chế độ kế toán lựa chọn. Để đánh
giá và sử dụng phù hợp các cơ sở tính giá này cần xác định các tiêu chuẩn lựa
chọn nhất định. Theo chúng tôi cơ sở định giá được lựa chọn phải đáp ứng
được mục tiêu và các yêu cầu cơ bản của thông tin tài chính:
Mục tiêu cung cấp thông tin tài chính được diễn giải một cách ngắn gọn
là giúp những người sử dụng thông tin ra được các quyết định kinh tế phù hợp
với lợi ích của họ.
Các yêu cầu cơ bản của thông tin tài chính dược đặt ra gồm: Tính tin
cậy, tính thích hợp, tính dễ hiểu, tính có thể so sánh. Trong đó, hai yêu cầu
được nhấn mạnh hơn cả là tính thích hợp và tính tin cậy.
Thực tế cho thấy các quan điểm về giá cả, giá trị và phương pháp tính
giá đã có nhiều thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau trên các phương
diện kinh tế- chính trị học- quản lý kinh doanh và hạch toán nghiệp vụ. Tuy
nhiên do nhiều lý do khác nhau , việc ghi nhận, xử lý và trình bày các đối
tượng kế toán trên cơ sở giá gốc vẫn được chấp nhận là nền tảng đo lường
trong kế toán trong mấy chục năm qua. Trong đó một số lý do có thể kể đến
là:
- Kế toán trên cơ sở giá gốc đảm bảo được yêu cầu khách quan: Thông
tin kế toán hữu ích là thông tin phải đảm bảo mức độ tin cậy cao, các thông
tin và các số liệu kế toán phải đảm ghi chép và báo cáo đúng với thực tế,
không bị xuyên tạc, không bị bóp méo. Mặt khác, giá gốc lại được hình thành
trên cơ sở sự thương lượng với đầy đủ sự hiểu biết và thỏa mãn về lợi ích giữa
người mua và người bán, việc ghi chép các giao dịch này có thể kiểm tra
được, nên giá gốc đảm bảo được yêu cầu khách quan.
- Kế toán trên cơ sở giá gốc đảm bảo được nguyên tắc thận trọng: Như
đã trình bày ở trên, nguyên tắc thận trọng là nguyên tắc rất quan trọng trong
các nguyên tắc kế toán , đó là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để
lập các ước tính kế toán trong điều kiện không chắc chắn. Điều này đòi hỏi
người làm kế toán phải cố gắng đảm bảo rằng thực trạng tài chính và mức độ
thành công không được phóng đại. Bên cạnh đó kế toán trên cơ sở giá gốc đã

tăng cường củng cố sự tin cậy về các chỉ tiêu được ghi nhận trong các báo cáo
ở thời điểm hiện tại từ đó làm tăng sự tin cậy của các lợi ích (thu nhập, tài
8


[Type text]
sản) trong tương lai. Do đó nguyên tắc giá gốc đã phù hợp với yêu cầu của
nguyên tắc thận trọng.
- Kế toán trên cơ sở giá gốc phù hợp với nguyên tắc hoạt động liên tục:
Việc điều chỉnh giá trị các tài sản đang sử dụng theo giá thị trường là không
phù hợp với mục đích hình thành tài sản, hơn nữa do không có quan hệ mua
bán xảy ra thì giá thị trường không thể được xác lập một cách khách quan, do
đó sử dụng giá gốc để ghi nhận giá trị tài sản là hoàn toàn hợp lý với điều
kiện doanh nghiệp hoạt động liên tục. Tuy nhiên nếu có dấu hiệu về sự vi
phạm nguyên tắc hoạt động liên tục hoặc doanh nghiệp có dự định bán tài sản
thì giá thị trường thay thế giá gốc sẽ phù hợp hơn.
- Kế toán trên cơ sở giá gốc đảm bảo tuân thủ nguyên tắc nhất quán:
Xét về tổng thể thì sử dụng giá gốc sẽ thuận lợi hơn các phương pháp tính giá
khác để đảm bảo tính chất so sánh được của thông tin do đòi hỏi các chính
sách, phương pháp kế toán phải được sử dụng thống nhất và kiên định.
Sử dụng nguyên tắc giá gốc trong ghi nhận thông tin kế toán đảm bảo
được yêu cầu quản lý nội bộ của doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế đang
phát triển ví dụ như nền kinh tế Việt Nam những năm đầu đổi mới. Tuy nhiên
khi đối tượng kế toán trở nên đa dạng, thường xuyên biến động thì thông tin
kế toán giá gốc trở nên phức tạp, thiếu tính kịp thời, không đáp ứng yêu cầu
quản lý trong việc kiểm soát, ra quyết định…Khi đó việc áp dụng cơ sở giá
khác thay thế giá cố định là phù hợp.
Như vậy, trong giai đoạn đầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường,
mục tiêu cung cấp thông tin kế toán tập trung vào việc đảm bảo tuân thủ pháp
luật thuế, các chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước. Mục tiêu

cung cấp thông tin kế toán cho các chủ thể khác trong nền kinh tế như: Các
nhà đầu tư, chủ nợ hiện tại và tương lai không phải là mục tiêu chủ yếu. Yêu
cầu quan trọng nhất đặt ra đối với thông tin kế toán là tính tin cậy và tuân thủ,
do đó kế toán trên cơ sở giá gốc được lựa chọn là cơ sở phù hợp ghi nhận
thông tin kế toán một cách hữu hiệu ở Việt Nam trong mấy chục năm qua.
Vậy Việt Nam đã áp dụng nguyên tắc giá gốc như thế nào trong trình
bày thông tin trên BCTC? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vấn đề này ở mục tiếp
theo.
1.3. Quy định về trình bày thông tin trên BCTC trong Chuẩn mực
kế toán Việt Nam
9


[Type text]
1.3.1. Khái niệm, mục đích và tác dụng của BCTC
Báo cáo tài chính là phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán
theo các chỉ tiêu kinh tế tài chính tổng hợp, phản ánh có hệ thống tình hình tài
sản, nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp, tình hình và hiệu quả SXKD,
tình hình lưu chuyển tiền tệ và tình hình quản lý, sử dụng vốn... của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định vào một hệ thống mẫu biểu quy định
thống nhất.
Báo cáo tài chính bao gồm một hệ thống số liệu kinh tế tài chính được
tổng hợp, được rút ra từ các sổ kế toán tổng hợp, các sổ kế toán chi tiết và
những thuyết minh cần thiết bằng văn bản về những số liệu đó. Báo cáo tài
chính là phương pháp quan trọng để chuyển tải thông tin kế toán tài chính đến
người ra quyết định, đó là những thông tin công khai về sản nghiệp, kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp... phục vụ cho các đối tượng bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp. Điều này khác biệt với các báo cáo kế toán
nội bộ (báo cáo quản trị) chỉ cung cấp thông tin kế toán phụ vụ cho yêu cầu
quản lý nội bộ doanh nghiệp.

Đối tượng sử dụng thông tin báo cáo tài chính là những người bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp đó là những đối tượng có lợi ích trực tiếp
hoặc gián tiếp . Các quyết định của các đối tượng sử dụng thông tin trong báo
cáo tài chính đòi hỏi việc đánh giá về năng lực của doanh nghiệp để tạo ra
nguồn lực tài chính cho doanh nghiệp. Các đối tượng sử dụng thông tin trên
báo cáo tài chính gồm:
- Các nhà quản lý doanh nghiệp.
- Các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước.
- Các đối tượng khác (các chủ nợ hiện tại và tương lai, các nhà đầu tư,
người cung cấp...).
Mục đích của các báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính dùng để cung cấp thông tin về tình hình tài chính,
tình hình kinh doanh và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng yêu
cầu quản lý của chủ doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước và nhu cầu hữu ích của
những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Báo cáo tài
chính phải cung cấp những thông tin của một doanh nghiệp về:
a/ Tài sản;
10


[Type text]
b/ Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu;
c/ Doanh thu, thu nhập khác, chi phí kinh doanh và chi phí khác;
d/ Lãi, lỗ và phân chia kết quả kinh doanh;
đ/ Thuế và các khoản nộp Nhà nước;
e/ Tài sản khác có liên quan đến đơn vị kế toán;
g/ Các luồng tiền.
Ngoài các thông tin này, doanh nghiệp còn phải cung cấp các thông tin
khác trong “Bản thuyết minh báo cáo tài chính” nhằm giải trình thêm về các
chỉ tiêu đã phản ánh trên các báo cáo tài chính tổng hợp và các chính sách kế

toán đã áp dụng để ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, lập và trình bày
báo cáo tài chính.
Tác dụng của báo cáo tài chính:
- Cung cấp thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp:
Tình hình tài chính của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các nguồn
lực kinh tế do doanh nghiệp kiểm soát của cơ cấu tài chính, khả năng thanh
toán và khả năng tương thích với môi trường kinh doanh. Nhờ có thông tin về
các nguồn lực kinh tế do doanh nghiệp kiểm soát và năng lực của doanh
nghiệp trong quá khứ đã tác động đến nguồn lực kinh tế này mà có thể dự
toán năng lực của doanh nghiệp có thể tạo ra các khoản tiền và tương đương
tiền trong tương lai.
Thông tin về cơ cấu tài chính có tác dụng lớn để dự đoán nhu cầu đi
vay, phương thức phân phối lợi nhuận, tìên lưu chuyển...và cũng là những
thông tin cần thiết để dự đoán khả năng huy động các nguồn lực tài chính của
doanh nghiệp.
- Thông tin về tình hình doanh nghiệp:
Trên các báo cáo tài chính trình bày những thông tin về tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là thông tin về tính sinh lợi, thông tin về
tình hình biến động trong SXKD sẽ giúp cho đối tượng sử dụng đánh giá
những thay đổi tiềm tàng của các nguồn lực tài chính mà doanh nghiệp có thể
kiểm soát trong tương lai, để dự đoán khả năng tạo ra các nguồn tiền cho
doanh nghiệp trên cơ sở hiện có và việc đánh giá hiệu quả các nguồn lực bổ
sung mà doanh nghiệp có thể sử dụng.
11


[Type text]
- Thông tin về sự biến động tình hình tài chính của doanh nghiệp:
Trong các báo cáo tài chính, các chỉ tiêu báo cáo là tình hình tài sản,
nguồn vốn, tình hình kết quả hoạt động SXKD, tình hình lưu chuyển tiền tệ

của doanh nghiệp tại một thời điểm hoặc của một thời kỳ, tuy nhiên các chỉ
tiêu vẫn cho phép người sử dụng thông tin đánh giá được tình hình biến động
tài chính của doanh nghiệp qua một thời kỳ (kỳ này so với kỳ trước, kỳ này so
với đầu năm...) vì vậy các thông tin trên báo tài chính rất hữu ích trong việc
đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo.
Từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy thông tin trong các báo cáo tài
chính có tác dụng quan trọng trong công tác quản lý, cung cấp thông tin cho
các đối tượng để ra các quyết định kinh tế phù hợp và kịp thời.

Tính hữu ích của BCTC thể hiện qua các điểm chính yếu sau:
- Tính hữu ích của BCTC thể hiện qua những lợi ích mang lại cho người sử
dụng thông tin trên BCTC, dựa trên nền tảng là các đặc tính sơ cấp có tính
nguyên tắc: phù hợp, đáng tin cậy, có thể so sánh và có thể hiểu; và các đặc
tính
thứ
cấp
khác;
- Tính hữu ích chịu ảnh hưởng bởi phương thức xác định (nhận diện), đo
lường, ghi nhận và trình bày các yếu tố của BCTC;
- Tính hữu ích có thể bị suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau như: áp
lực về cân đối lợi ích – chi phí, hệ thống BCTC chậm thích ứng với sự thay
đổi, rủi ro về sai sót, gian lận, ngưỡng nhận thức của các bên liên quan, và tác
động
khác
từ
môi
trường
kế
toán;
- Có thể nâng cao tính hữu ích của BCTC như ngăn chặn sự suy giảm tính

hữu ích và hoàn thiện cách thức mang lại lợi ích cho người sử dụng thông tin
trên
nền
tảng
kế
toán
hiện
có.

1.3.2. Nguyên tắc trình bày thông tin trên BCTC theo CMKT
Việt Nam
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính doanh nghiệp phải tuân thủ các
yêu cầu đã được qui định tại Chuẩn mực kế toán số 21 “Trình bày báo cáo tài
chính”, gồm:
12


[Type text]
+ Trung thực và hợp lý;
+ Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với qui định của
từng chuẩn mực kế toán nhằm đảm bảo cung cấp thông tin thích hợp với nhu
cầu ra các quyết định kinh tế của người sử dụng và cung cấp được các thông
tin đáng tin cậy, khi:
- Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp;
- Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không
chỉ đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng;
- Trình bày khách quan, không thiên vị;
- Tuân thủ nguyên tắc thận trọng;
- Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu.

Những nguyên tắc cơ bản lập báo cáo tài chính
Để đảm bảo được những yêu cầu đối với báo cáo tài chính thì việc lập
hệ thống báo cáo tài chính cần phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau:
1- Kinh doanh liên tục:
Khi lập và trình bày báo cáo tài chính, Giám đốc (hoặc người
đứng đầu) doanh nghiệp cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của
doanh nghiệp. Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh
nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình
thường trong tương lai gần, trừ khi doanh nghiệp có ý định cũng như buộc
phải ngừng hoạt động, hoặc phải thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động của mình.
Khi đánh giá, nếu Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp biết được
có những điều không chắc chắn liên quan đến các sự kiện hoặc các điều kiện
có thể gây ra sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên tục của doanh
nghiệp thì những điều không chắc chắn đó cần được nêu rõ. Nếu báo cáo tài
chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục, thì sự kiện này cần được
nêu rõ, cùng với cơ sở dùng để lập báo cáo tài chính và lý do khiến cho doanh
nghiệp không được coi là đang hoạt động liên tục.
Để đánh giá khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp,
Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải xem xét đến mọi

13


[Type text]
thông tin có thể dự đoán được tối thiểu trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết
thúc niên độ kế toán.
2- Nguyên tắc cơ sở dồn tích:
Trừ các thông tin có liên quan đến lưu chuyển tiền, doanh nghiệp phải
lập báo cáo tài chính trên cơ sở nguyên tắc dồn tích.Theo cơ sở kế toán dồn
tích, các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không

căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán
và báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan. Các khoản chi phí được ghi
nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc phù hợp giữa
doanh thu và chi phí. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc phù hợp không cho
phép ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán những khoản mục không thoả mãn
định nghĩa về tài sản hoặc nợ phải trả.
3- Nguyên tắc nhất quán
Việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài
chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi:
a/ Có sự thay đổi đáng kể về bản chất các hoạt động của doanh
nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần
phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp lý hơn các giao dịch và các sự
kiện; hoặc
b/ Một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự thay đổi trong việc trình
bày.
4- Tính trọng yếu và sự hợp nhất:
Từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt
trong báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình
bày riêng rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc
chức năng.
Thông tin trọng yếu là thông tin nếu không được trình bày thì
có thể có ảnh hưởng tới việc ra quyết định kinh tế của các đối tượng sử dụng
thông tin dựa trên các báo cáo tài chính. Để xác định một khoản mục hay một
tập hợp các khoản mục là trọng yếu phải đánh giá tính chất và quy mô của
chúng. Tuỳ theo các tình huống cụ thể, tính chất hoặc quy mô của từng khoản
mục có thể là nhân tố quyết định tính trọng yếu. Ví dụ, các tài sản riêng lẻ có
cùng tính chất và chức năng được tập hợp vào một khoản mục, kể cả khi giá
14



[Type text]
trị của khoản mục là rất lớn.(Ví dụ hàng tồn kho) Tuy nhiên, các khoản mục
quan trọng có tính chất hoặc chức năng khác nhau phải được trình bày một
cách riêng rẽ.
5- Nguyên tắc bù trừ:
a/ Bù trừ tài sản và nợ phải trả:
Khi ghi nhận các giao dịch kinh tế và các sự kiện để lập và trình bày
BCTC không được bù trừ tài sản và công nợ, mà phải trình bày riêng biệt tất
cả các khoản mục tài sản và công nợ trên BCTC.
b/ Bù trừ doanh thu, thu nhập khác và chi phí:
+ Được bù trừ theo qui định tại một chuẩn mực kế toán khác;
+ Một số giao dịch ngoài hoạt động kinh doanh thông thường của
doanh nghiệp thì được bù trừ khi ghi nhận giao dịch và trình bày báo cáo tài
chính, ví dụ:

- Đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán ngắn hạn:
Lãi (lỗ) bán
chứng khoán

=

Thu bán
chứng khoán

-

Giá gốc
chứng khoán

- Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ:

Lãi (lỗ) mua,
bán ngoại tệ

=

Thu bán
Ngoại tệ

-

Giá mua
ngoại tệ

Các khoản mục được bù trừ được trình bày: Số lãi (hoặc lỗ thuần).

6. Nguyên tắc có thể so sánh
Theo nguyên tắc có thể so sánh giữa các kỳ kế toán, trong các BCTC
như: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo
lưu chuyển tiền tệ phải trình bày các số liệu để so sánh, cụ thể:.
- Đối với Bảng cân đối kế toán:
15


[Type text]
Bảng cân đối kế toán năm phải trình bày số liệu so sánh theo từng chỉ
tiêu tương ứng được lập vào cuối kỳ kế toán năm trước gần nhất (Số đầu
năm);
Bảng cân đối kế toán quý phải trình bày số liệu so sánh từng chỉ tiêu
tương ứng được lập vào cuối kỳ kế toán năm trước gần nhất (Số đầu năm).
- Đối với Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm phải trình bày số liệu so
sánh theo từng chỉ tiêu tương ứng được lập cho kỳ kế toán năm trước gần nhất
(Năm trước);
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lập theo kỳ kế toán quý phải
trình bày số liệu của quý báo cáo và số lũy kế từ đầu năm đến ngày lập báo
cáo tài chính quý và có thể có số liệu so sánh theo từng chỉ tiêu của Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh quý cùng kỳ năm trước (Quý này năm trước).
- Đối với Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ năm phải trình bày số liệu so sánh theo
từng chỉ tiêu tương ứng được lập cho kỳ kế toán năm trước gần nhất (Năm
trước);
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ quý phải trình bày số lũy kế từ đầu năm đến
ngày lập báo cáo tài chính quý và có thể có số liệu so sánh theo từng chỉ tiêu
của báo cáo lưu chuyển tiền tệ quý cùng kỳ năm trước (Quý này năm trước).
Để bảo đảm nguyên tắc so sánh, số liệu “Năm trước” trong Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Bản thuyết
minh báo cáo tài chính phải được điều chỉnh lại số liệu trong các trường hợp:
- Năm báo cáo áp dụng chính sách kế toán khác với năm trước;
- Năm báo cáo phân loại chỉ tiêu báo cáo khác với năm trước;
- Kỳ kế toán “Năm báo cáo” dài hoặc ngắn hơn kỳ kế toán năm trước.
Ngoài ra, trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính còn phải trình bày
rõ lý do của sự thay đổi trên để người sử dụng hiểu rõ được báo cáo tài chính.

16


[Type text]

Chương 2: Nguyên tắc giá gốc trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam
và việc trình bày thông tin trên BCTC


2.1. Khái quát chung Chuẩn mực kế toán Việt Nam
Trong tiến trình hội nhập WTO, Chính phủ Việt Nam cam kết với các
nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế là việc cải cách hệ thống kế toán Việt Nam
trong đó có cam kết về hoàn thiện một hệ thống Chuẩn mực kế toán (CMKT)
hoàn chỉnh phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế. Theo lộ trình đó, Bộ Tài
chính đã nghiên cứu soạn thảo và từng bước ban hành hệ thống CMKT Việt
Nam (VAS). Từ năm 2001 cho đến nay, chúng ta đã ban hành 5 đợt với 26
chuẩn mực. Hệ thống CMKT Việt Nam ra đời đã tạo dựng khuôn khổ pháp lý
trong lĩnh vực kế toán, tạo ra môi trường kinh tế bình đẳng, làm lành mạnh
hóa các quan hệ và các hoạt động tài chính và quan trọng hơn là tạo ra sự
công nhận của quốc tế đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Quyết định số: 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 (4CM)
Quyết định số: 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002 (6CM)
Quyết định số: 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003 (6CM)
Quyết định số: 12/2005/QĐ-BTC ngày 15/02/2005 (6 CM)
Quyết đinh số: 100/2005/QĐ-BTC ngày 28/12/2005 (4CM)
Các Chuẩn mực kế toán Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở phù
hợp với Chuẩn mực kế toán quốc tế và phù hợp với điều kiện kinh tế - chính
trị - xã hội - pháp luật của Việt Nam trong giai đoạn hiện tại và tương lai gần.
Thực tế cho thấy, kể từ khi hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam ra đời cho
đến nay đã góp phần đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập, mở cửa về dịch
vụ kế toán. Bên cạnh đó, nó còn thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng
17


[Type text]
khoán. Tóm lại, hệ thống chuẩn mực kế toán có vai trò không nhỏ trong việc
quản lý tài chính tầm vĩ mô của Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan
chức năng như thuế, thanh tra tài chính…

Một số nét nhìn nhận, đánh giá khái quát hệ thống CMKT Việt Nam
Với mục tiêu đáp ứng yêu cầu hội nhập, từ năm 1996, Việt Nam đã
nghiên cứu toàn bộ hệ thống CMKT quốc tế (IAS) và CMKT của một số quốc
gia trong khu vực nhằm xác định điều kiện và khả năng áp dụng cho nền kinh
tế Việt Nam. Hệ thống các VAS được nghiên cứu, xây dựng dựa trên cơ sở
các IAS và chuẩn mực lập BCTC quốc tế (IFRS) được cập nhật mới nhất. Với
26
CMKT
đã
ban
hành
cho
đến
nay
cho
thấy:
Thứ nhất, sự hài hòa tương đồng:
- Hệ thống CMKT Việt Nam là khá hoàn chỉnh, hài hòa ở mức độ cao so
với hệ thống CMKT quốc tế. VAS cơ bản phù hợp với IAS và IFRS không chỉ
về nội dung, về cơ sở đánh giá, ghi nhận và trình bày trên BCTC mà còn cả về
hình
thức
trình
bày.
- Từng CMKT đã được dịch ra tiếng Anh tạo điều kiện cho các nhà đầu
tư nước ngoài, các nước thành viên trong khu vực và trên toàn thế giới có thể
tiếp cận dễ dàng với hệ thống CMKT Việt Nam. Điều này không chỉ góp phần
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kế toán của Việt Nam bắt nhịp
kịp thời với sự hội nhập kế toán ở các nước có nền kinh tế thị trường, mà
quan trọng hơn là tạo môi trường pháp lý cho hội nhập kinh tế quốc tế và khu

vực.
- Trong quá trình phát triển, từ việc chỉ chú trọng phát triển kế toán phục
vụ cho mục đích thu thuế,Việt Nam đã có những nỗ lực chuyển đổi phát triển
một hệ thống kế toán toàn diện hơn, được cộng đồng thế giới áp dụng IFRS
thừa
nhận.
Thứ hai, những điểm khác biệt: Nếu so sánh nội dung giữa các CMKT
Việt Nam đã ban hành với các CMKT quốc tế chúng ta sẽ thấy còn có sự khác
biệt
nhất
định:
- Một số điểm của chuẩn mực này trình bày cụ thể hơn chuẩn mực kia
và ngược lại, hoặc còn một vài khác biệt về cách dùng thuật ngữ, hoặc về các
phương
pháp
được
áp
dụng,
phạm
vi
trình
bày.
- Hiện nay số lượng các CMKT của Việt Nam so với CMKT quốc tế
18


[Type text]
cũng chưa tương đương (Quốc tế có 51 chuẩn mực, Việt Nam mới ban hành
26
chuẩn

mực)
- Đồng thời “tinh thần kế toán độc lập” của CMKT quốc tế vẫn còn giới
hạn
trong
các
CMKT
Việt
Nam.
- Hiện nay các quy tắc kế toán còn bị bó buộc trong một vài hệ thống
tài khoản đã định sẵn và các bước hạch toán đã vạch sẵn cho từng giao dịch
cụ thể là chưa phù hợp với tinh thần của IFRS. Những quy định kế toán cứng
nhắc này sẽ là một trở ngại trong việc phát triển kế toán chuyên nghiệp, hoặc
hạn chế những kế toán viên có trình độ chuyên môn cao phát huy năng lực
của
mình.
Sự khác biệt như trên thật dễ hiểu vì quan điểm xây dựng hệ thống
CMKT Việt Nam là phải phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, phù
hợp với đặc thù về trình độ phát triển kinh tế, cơ chế chính trị, hệ thống pháp
luật, văn hóa, xã hội của Việt Nam, phù hợp với trình độ nguồn nhân lực kế
toán của Việt Nam. Những khác biệt này cũng chỉ là tạm thời và ngày càng
thu hẹp khi nền kinh tế Việt Nam phát triển đến mức độ cao hơn, nguồn nhân
lực kế toán tốt hơn,… các CMKT Việt Nam sẽ được tiếp tục hoàn thiện ở mức
độ cao hơn, thống nhất cao hơn với các CMKT Việt Nam và IFRS.
2.2. Nguyên tắc giá gốc trong chuẩn mực kế toán và ảnh hưởng của
nguyên tắc này trong trình bày thông tin trên BCTC
Nguyên tắc giá gốc là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất
trong kế toán nói chung cũng như việc ghi nhận đánh giá tài sản nói riêng.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam lấy nguyên tắc giá gốc là nguyên tắc cơ sở và
chính yếu nhất trong công tác tổ chức ghi nhận thông tin cũng như hoạch toán
nghiệp vụ. Nguyên tắc giá gốc ảnh hưởng đến nhiều đối tượng kế toán khác

nhau được trình bày ở các chuẩn mực cụ thể, song trong khuôn khổ nghiên
cứu ở đây, chúng ta cùng phân tích sự vận dụng của nguyên tắc này trong các
chuẩn mực kế toán: CMKT 02 “ Hàng tồn kho”, CMKT 03 “ Tài sản cố định
hữu hình”, CMKT 04 “ Tài sản cố định vô hình”, CMKT 21 “ Trình bày báo
cáo tài chính”.
Thứ nhất, sự vận dụng của nguyên tắc giá gốc trong chuẩn mực kế
toán 02 “Hàng tồn kho”.
Hàng tồn kho là những tài sản được giữ để bán trong kỳ sản xuất kinh
doanh bình thường, đang trong quá trình sản xuất kinh doanh dở dang,
19


[Type text]
nguyên vật liệu , công cụ, dụng cụ được dùng trong qua trình sản xuất, kinh
doanh hoặc dịch vụ.
Theo đoạn 04 trong chuẩn mực này quy định: hàng tồn kho của doanh
nghiệp được đánh giá theo giá gốc( trị giá vốn thực tế) và trong trường hợp
giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì ghi nhận theo giá trị
thuần có thể thực hiện được. Giá trị thuần có thể thực hiện được của vật tư là
giá ước tính của vật tư trong kỳ SXKD bình thường trừ đi chi phí ước tính để
hoàn chỉnh sản phẩm và chi phí ước tính phục vụ cho việc tiêu thụ sản phẩm.
Khi ước tính giá trị thuần của hàng tồn kho phải chú ý đến 2 vấn đề sau:
Sự biến động giá cả hàng tồn kho trực tiếp liên quan đến các sự kiện diễn ra
sau ngày kết thúc năm tài chính, trong trường hợp những sự kiện này được
cung cấp những bằng chứng xác nhận về các sự kiện đã có ở thời điểm kết
thúc niên độ. Trường hợp này thuộc phạm vi điều chỉnh của VAS 23 “Các sự
kiện phát sinh sau ngày kết thúc kì kế toán năm”. Nghĩa là:
- Nếu hàng tồn kho được bán ra càng gần ngày sau ngày kết thúc kì kế
toán năm thì có thể căn cứ vào giá đã có thể bán được của hàng tồn kho để
xác định lại mức dự phòng đã lập. Vì điều này cung cấp bàng chứng tin cậy

về việc ước tính giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho vào cuối
năm
trước.
- Nếu hàng tồn kho được bán ra càng xa ngày sau ngày kết thúc kì kế
toán năm thì giá bán của hàng tồn kho không được sử dụng để xác định lại
mức dự phòng đã lập vì sự thay đổi giá cả chủ yếu là lí do thuộc về sự thay
đổi của thị trường chứ không phải là sự ước tính giá trị thuần của hàng tồn
kho vào cuối năm trước không phù hợp.
Việc sử dụng giá trị thuần để ghi nhận giá trị hàng tồn kho ở đây nhằm
mục đích đảm bảo nguyên tắc thận trọng của kế toán. Tuy nhiên về bản chất,
cơ sở chính được quy định để ghi nhận giá trị hàng tồn kho vẫn là nguyên tắc
giá gốc.
Giá gốc hàng tồn kho được xác định cụ thể cho từng loại, bao gồm
chi phí mua ; chi phí chế biến và các chi phí khác có liên quan đến việc sở
hữu các loại hàng tồn kho đó.

20


[Type text]
Chi phí mua của hàng tồn kho bao gồm giá mua, các loại thuế không
được hoàn lại, chi phí vận chuyển, bốc xếp, bảo quản trong quá trình mua
hàng tồn kho trừ ra các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá hàng
mua.Chi phí chế biến hàng tồn kho bao gồm các chi phí có liên quan trực tiếp
đến sản xuất chế biến ra các loại hàng tồn kho đó. Trường hợp sản xuất nhiều
loại hàng tồn kho trên một quy trình công nghệ trong cùng một thời gian mà
không thể tách được các chi phí chế biến thì phải phân bổ các chi phí này theo
tiêu chuẩn thích hợp. Trường hợp có sản phẩm phụ thì giá trị sản phẩm phụ
được tính theo giá trị thuần có thể thực hiện được, giá trị này đựoc loại trừ
khỏi chi phí chế biến đã tập hợp chung cho sản phẩm chính. Các khoản chi

phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công và các khoản chi phí khác phát sinh
trên mức bình thường, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp không
được tính vào giá gốc của hàng tồn kho.
Từ thời điểm ghi nhận ban đầu cho đến khi kết thúc vòng đời hàng tồn
kho, giá trị của chúng luôn được giữ nguyên tại thời điểm ghi nhận ban đầu kể
cả trường hợp sau đó giá cả của những tài sản tương tự có thể thay đổi trên thị
trường. Điều này làm giảm tính tin cậy của thông tin cung cấp, do đó, kế toán
cần thiết lập một chỉ tiêu nũa để phản ánh sự giảm giá của hàng tồn kho- chỉ
tiêu “ dự phòng giảm giá hàng tồn kho” nhằm giúp các đối tượng sử dụng
thông tin đánh giá đúng giá trị hàng tồn kho của doanh nghiệp.
Thứ hai, sự vận dụng nguyên tắc giá gốc trong chuẩn mực kế toán 03 “
Tài sản cố định hữu hình”.
TSCĐ hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể do doanh
nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất kinh doanh phù hợp với tiêu chuẩn
ghi nhận TSCĐ.
Theo chuẩn mực này việc xác định giá trị ban đầu theo nguyên giá của
TSCĐ hữu hình tùy vào từng trường hợp cụ thể:
Nếu TSCĐ hữu hình hình thành do mua sắm, nguyên giá bao gồm: giá
mua( trừ các khoản chiết khấu thương mại hoặc giảm giá), các khoản thuế
không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại và các chi phí trực tiếp liên
quan đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: Chi phí chuẩn
bị mặt bằng; Chi phí vận chuyển bốc xếp; Chi phí lắp đặt chạy thử (trừ các
khoản thu hồi về sản phẩm, phế liệu do chạy thử); Chi phí chuyên gia và các
chi phí liên quan trực tiếp khác.
21


[Type text]
Đối với TSCĐ hữu hình hình thành do đầu tư xây dựng cơ bản theo
phương thức giao thầu, nguyên giá là giá quyết toán công trình xây dựng, các

chi phí liên quan trực tiếp khác và lệ phí trước bạ (nếu có).
Trường hợp TSCĐ là nhà cửa, vật kiến trúc gắn liền với quyền sử dụng
đất thì giá trị quyền sử dụng đất phải được xác định riêng biệt và ghi nhận là
TSCĐ vô hình.
Trường hợp TSCĐ mua sắm được thanh toán theo phương thức trả
chậm, nguyên giá TSCĐ đó được phản ánh theo giá mua trả ngay tại thời
điểm mua. Khoản chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán và giá mua trả
ngay được hạch toán vào chi phí theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số chênh lêch
đó được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình (vốn hóa) theo quy định của
chuẩn mực kế toán 16 “Chi phí đi vay”.
Các khoản chi phí phát sinh như: Chi phí quản lý hành chính, chi phí
sản xuất chung, chi phí chạy thử và các chi phí khác… nếu không liên quan
trực tiếp đến việc mua sắm và đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng thì
không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình. Các khoản lỗ ban đầu do
máy móc không hoạt động đúng như dự tính được hạch toán vào chi phí sản
xuất kinh doanh trong kỳ.
Đối với TSCĐ hữu hình xây dựng hoặc tự chế, nguyên giá là giá thành
thực tế của tài sản cố định tự xây dựng, hoặc tự chế cộng với chi phí lắp đặt,
chạy thử. trường hợp doanh nghiệp dùng sản phẩm do mình sản xuất ra để
chuyển thành TSCĐ thì nguyên giá là chi phí sản xuất sản phẩm đó cộng với
các chi phí trực tiếp liên quan đến việc đưa tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng
sử dụng. Trong các trường hợp trên, mọi khoản lãi nội bộ không được tính
vào nguyên giá của các tài sản đó. Các chi phí không hợp lý, như chi phí
nguyên vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi phí khác sử dụng vượt
quá mức bình thường trong quá trình xây dựng hoặc tự chế không được tính
vào nguyên giá TSCĐ hữu hình.
Đối với TSCĐ hữu hình thuê tài chính, nguyên giá quy định trong
chuẩn mực kế toán 06 “Thuê tài sản”.
Đối với TSCĐ được mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ không
tương tự hoặc tài sản khác được xác định theo giá trị hợp lý của TSCĐ hữu

hình nhận về, hoặc giá trị của tài sản đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các
khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu về. Nếu trao đổi với một
22


[Type text]
TSCĐ tương tự, hoặc có thể hình thành do được bán để đổi lấy quyền sở hữu
một tài sản tương tự. Trong cả hai trường hợp không có bất kỳ một khoản lãi,
lỗ nào được ghi nhận trong quá trình trao đổi. Nguyên giá TSCĐ nhận về
được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ đem trao đổi
Đối với TSCĐ tăng từ nguồn khác: Nguyên giá TSCĐ hữu hình được
tài trợ, được biếu tặng, được ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý ban đầu.
trường hợp không ghi nhận theo giá trị hợp lý ban đầu thì doanh nghiệp ghi
nhận theo giá trị danh nghĩa cộng với các chi phí liên quan trực tiếp đến việc
đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng.
Bên cạnh đó giá gốc trong ghi nhận TSCĐ hữu hình thể hiện ở các chi
phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu. Chỉ được ghi tăng nguyên giá của TSCĐ
khi các chi phí này chắc chắn làm tăng lợi ích kinh tế trong tương lai do sử
dụng tài sản đó. Một số trường hợp được điều chỉnh nguyên giá TSCĐ hữu
hình là:


Nhà nước có quyết định đánh giá lại TSCĐ;



Cổ phần hóa doanh nghiệp;




Chia, tách, giải thể doanh nghiệp;



Góp vốn liên doanh …

Thứ ba, sự vận dụng nguyên tắc giá gốc trong Chuẩn mực kế toán Việt
Nam 04 “ Tài sản cố định vô hình”.
TSCĐ vô hình là những TCSĐ không có hình thái vật chất cụ thể do
doanh nghiệp nắm giữ sử dụng cho sản xuất kinh doanhphù hợp với tiêu
chuẩn ghi nhận TSCĐ
Chẩn mực này quy định tài sản cố định được ghi nhận ban đầu theo
nguyên giá cụ thể:
Nguyên giá TSCĐ vô hình từ việc sát nhập doanh nghiệp: Nguyên giá
của tài sản là giá hợp lý của tài sản đó vào ngày mua, ngáy sát nhập doanh
nghiệp, giá trị hợp lý có thể là: Giá niêm yết tại thị trường hoạt động, giá của
nghiệp vụ mua bán TSCĐ tương tự.
Nguyên giá tài sản cố định vô hình là quyền sử dụng đất có thời hạn:
Là giá của quyền sử dụng đất khi doanh nghiệp đi thuê dất dài hạn đã trả tiền
thuê một lần cho nhiều năm và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
23


[Type text]
hoặc số tiền đã trả khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp,
hoặc giá trị quyền sử dụng đất nhận góp vốn.
Nguyên giá tài sản cố định là quyền sử dụng đất không có thời hạn là
số tiền đã trả khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp( gồm các chi
phí đã trả cho tổ chức cá nhân chuyển nhượng hoặc đền bù, giải phóng mặt
bằng, san lấp, lệ phí trước bạ…)

Đối với TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp, chỉ tính
vào nguyên giá tài sản các chi phí trong giai đoạn triển khai nếu thỏa mãn các
điều kiện nhất định..
Thứ tư, sự vận dụng nguyên tắc giá gốc trong Chuẩn mực kế toán Việt
Nam 21 “ Trình bày báo cáo tài chính”.
Chuẩn mực chỉ rõ những nhóm, khoản mục chủ yếu được trình bày
trên bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bản thuyết
minh báo cáo tài chính trong đó có quy định cả việc sắp xếp các khoản mục
để đảm bảo nguyên tắc giá gốc, cụ thể:
Trong bảng cân đối kế toán các khoản mục phản ánh hàng tồn kho hay
tài sản cố định đều được ghi nhận theo giá gốc. Các khoản mục điều chỉnh
giảm được sắp xếp ngay kề sau các khoản mục được điều chỉnh( dự phòng
giảm giá hàng tồn kho được xếp ngay sau chỉ tiêu hang tồn kho).
Như vậy, qua phân tích trên ta có thể thấy, theo tinh thần của CMKT
Việt Nam, tài sản nói chung cũng như hàng tồn kho hay TSCĐ nói riêng đều
phải được ghi nhận và đánh giá theo giá gốc, và theo đó, giá trị hay nguyên
giá của chúng không được thay đổi trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của
tài sản dù giá trị thị trường của chúng thay đổi như thế nào đi nữa (trừ quy
định riêng cụ thể).

2.3. Phương pháp giá gốc trong trình bày thông tin trên BCTC
Thứ nhất, đối với các tài sản thuộc nhóm “ hàng tồn kho” CMKT Việt
Nam quy định:
Trong báo cáo tài chính, doanh nghiệp phải trình bày:
(a) Các chính sách kế toán áp dụng trong việc đánh giá hàng tồn
kho, gồm cả phương pháp tính giá trị hàng tồn kho;

24



[Type text]
(b) Giá gốc của tổng số hàng tồn kho và giá gốc của từng loại hàng
tồn kho được phân loại phù hợp với doanh nghiệp;
(c) Giá trị dự phòng giảm giá hàng tồn kho;
(d) Giá trị hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho;
(e) Những trường hợp hay sự kiện dẫn đến việc trích lập thêm hoặc
hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho;
(f) Giá trị ghi sổ của hàng tồn kho (Giá gốc trừ (-) dự phòng giảm
giá hàng tồn kho) đã dùng để thế chấp, cầm cố đảm bảo cho các khoản nợ
phải trả.
Trường hợp doanh nghiệp tính giá trị hàng tồn kho theo phương pháp
nhập sau, xuất trước thì báo cáo tài chính phải phản ánh số chênh lệch giữa
giá trị hàng tồn kho trình bày trong bảng cân đối kế toán với:
(a) Giá trị hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo phương pháp nhập
trước, xuất trước (nếu giá trị hàng tồn kho cuối kỳ tính theo phương pháp
nhập trước, xuất trước nhỏ hơn giá trị hàng tồn kho cuối kỳ tính theo phương
pháp bình quân gia quyền và giá trị thuần có thể thực hiện được); hoặc
Với giá trị hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo phương pháp bình
quân gia quyền (nếu giá trị hàng tồn kho cuối kỳ tính theo phương pháp bình
quân gia quyền nhỏ hơn giá trị hàng tồn kho cuối kỳ tính theo phương pháp
nhập trước, xuất trước và giá trị thuần có thể thực hiện được); hoặc
Với giá trị hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo giá trị thuần có thể
thực hiện được (nếu giá trị hàng tồn kho cuối kỳ tính theo giá trị thuần có thể
thực hiện được nhỏ hơn giá trị hàng tồn kho tính theo phương pháp nhập
trước, xuất trước và phương pháp bình quân gia quyền); hoặc
(b) Giá trị hiện hành của hàng tồn kho cuối kỳ tại ngày lập bảng cân
đối kế toán (nếu giá trị hiện hành của hàng tồn kho tại ngày lập bảng cân đối
kế toán nhỏ hơn giá trị thuần có thể thực hiện được); hoặc với giá trị thuần có
thể thực hiện được (nếu giá trị hàng tồn kho cuối kỳ tính theo giá trị thuần có
thể thực hiện được nhỏ hơn giá trị hàng tồn kho cuối kỳ tính theo giá trị hiện

hành tại ngày lập bảng cân đối kế toán).
Trình bày chi phí về hàng tồn kho trên báo cáo kết quả sản xuất, kinh
doanh được phân loại chi phí theo chức năng.
Phân loại chi phí theo chức năng là hàng tồn kho được trình bày trong khoản
mục “Giá vốn hàng bán” trong báo cáo kết quả kinh doanh, gồm giá gốc của
hàng tồn kho đã bán, khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, các khoản hao
hụt mất mát của hàng tồn kho sau khi trừ (-) phần bồi thường do trách nhiệm
cá nhân gây ra, chi phí sản xuất chung không được phân bổ.
Thứ hai, đối với các tài sản thuộc nhóm tài sản cố định CMKT Việt
Nam quy định:
Trong báo cáo tài chính, doanh nghiệp phải trình bày theo từng loại
TSCĐ về những thông tin sau:
(a) Phương pháp xác định nguyên giá TSCĐ;
25


×