Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Quy hoạch thủy lợi vùng đồng bằng sông Hồng : nhìn nhận lịch sử về vai trò của nhà nước phong kiến và nhà nước thuộc địa (thế kỷ XII đến nửa đầu thế kỷ XX)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.9 MB, 45 trang )

1.1. Quy hoạch thủy lợi vùng
đồng bằng sông Hồng : nhìn
nhận lịch sử về vai trò của nhà
nước phong kiến và nhà nước
thuộc địa (thế kỷ XII đến nửa
đầu thế kỷ XX)
Olivier Tessier, ÉFEO
Lịch sử khai thác đồng bằng sông Hồng và
quá trình lập cư ở khu vực này gắn bó chặt
chẽ với lịch sử trị thủy và hình thành hệ thống
thủy văn tạo nên địa mạo của khu vực qua
một quá trình bồi đắp phù sa lâu dài. Xây
dựng hệ thống đê bao ngăn những cơn lũ
hung dữ là mối bận tâm chủ đạo và thường
trực trong lịch sử trước đây cũng như hiện nay
của Việt Nam, mối bận tâm này cũng tham
gia vào việc hình thành nên cấu trúc trong
các quan hệ giữa nhà nước và nông dân, điều
đó có lẽ là bởi ở một đất nước gần như 100%
nông thôn, sản xuất nông nghiệp là nguồn
thu chính của nhà nước phong kiến thông
qua việc đánh thuế nông dân (có đăng ký) và
đất đai. Điều này bắt buộc nhà nước phải có
các biện pháp, từ hàng thế kỷ nay, để đảm
bảo an toàn cho nguồn thu từ nông nghiệp
cần thiết để duy trì bản thân sự tồn tại của
chính nhà nước, và nhất là trong điều kiện khí
hậu không ổn định, dẫn tới sự không ổn định
triền miên trong sản xuất nông nghiệp phải
đối mặt với tình trạng hạn hán vào vụ mùa
tháng năm hàng năm, tiếp đó là nguy cơ lũ



lụt phá hoại mùa màng vào vụ chiêm tháng
mười. Do vậy, đặc điểm chính của vùng đồng
bằng sông Hồng là  : một vùng đồng bằng
phù sa rộng lớn mà quá trình biến đổi từ lâu
đã bị chặn đứng bởi bàn tay con người. Việc
đắp đê ngăn trên hai hệ thống sông Thái Bình
và sông Hồng đã cố định tình trạng địa hình
không bằng phẳng vốn trước đây nếu không
có đê thì chỉ tồn tại tạm thời sau đó sẽ được
bồi đắp khi lũ về, nhưng với mạng lưới đê
điều ngày càng dày đặc, hai hệ thống sông
này bị bó buộc dòng chảy.
Bài trình bày này sẽ giới thiệu một số điểm
mốc lịch sử liên quan đến chính sách thủy lợi
được thực hiện tại khu vực đồng bằng sông
Hồng từ thời các triều vua tính từ thế kỷ XII,
trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu biên niên
còn lưu giữ từ thời phong kiến. Cách nhìn
từ « trên » như vậy, bởi vì đây là cách nhìn từ
quyền lực trung ương, sẽ được đối chiếu với
một nguồn tài liệu từ « dưới », đó là các tấm
văn bia còn lưu lại ở thôn làng.

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 37 ]


1.1.1. Tổng quan đặc điểm địa mạo

và thủy văn vùng đồng bằng châu
thổ sông Hồng
Một vài dữ liệu tổng quát về vùng đồng bằng
châu thổ sông Hồng sẽ giúp hiểu rõ hơn
thách thức này.
Đồng bằng châu thổ sông Hồng là một vùng
đồng bằng phù sa rộng lớn (14 700 km²) có

Bản đồ

2

hình tam giác với cạnh đáy lớn nhất nằm
giáp với biển Đông và đỉnh nằm ở Việt Trì, là
phần hợp lưu của sông Hồng và sông Lô, cách
không xa sông Đà. Mặc dù có cảm tưởng đây là
một vùng đồng bằng rất bằng phẳng nhưng
trên thực tế, đồng bằng châu thổ sông Hồng
có độ nghiêng rất lớn (bắc-tây/nam-đông), với
độ dốc lên tới 10-12 m và có nhiều chỗ lồi lõm.

Đồng bằng phù sa rộng lớn của châu thổ sông Hồng

Nguồn : Tác giả xây dựng dựa theo Google 2007 ( />
Châu thổ sông Hồng được hợp thành từ hai
hệ thống sông : sông Thái Bình và sông Hồng.
Sông Thái Bình chảy từ bắc sang đông, đây là
một con sông có chế độ nước mạnh nhưng
ổn định, ít thác ghềnh. Con sông này bắt
nguồn từ hợp lưu của ba dòng chảy từ vùng

trung du gồm sông Cầu, sông Thương và
sông Lục Nam. Tuy nhiên, vừa ra khỏi vùng

thượng nguồn, sông Thái Bình hợp ngay
với sông Đuống (thời thuộc địa được gọi là
canal des Rapides) bắt nguồn từ sông Hồng,
khiến cho dòng chảy ở khu vực này phình
ra. Không xa vùng cửa sông Thái Bình, lại có
thêm dòng chảy nữa từ sông Hồng nhập vào
là sông Luộc (tên gọi trước đây là canal des
Bambous). Mặc dù có nhiều dòng chính và
dòng nhánh như vậy nhưng hệ thống sông

[ 38 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


Thái Bình ít bị những trận lũ lớn, do có hệ
thống đê ngăn lũ rất vững chắc.

Biểu đồ

1

Chế độ mưa và lưu lượng nước châu thổ sông Hồng

Nguồn : Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước, Bản đồ tài nguyên nước Việt Nam, 2003

Hệ thống sông Hồng dường như trái ngược
hẳn với hệ thống sông Thái Bình. Với hai dòng
hợp lưu chính là sông Đà và sông Lô, sông

Hồng được cung cấp nước từ một vùng lưu
vực rộng lớn với diện tích 130 000 km² chạy
qua toàn bộ vùng Tây Bắc ở miền thượng và
một phần của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Lũ
sông Hồng thường rất lớn và gây lụt nghiêm
trọng cho toàn bộ khu vực. Tuy nhiên đây
cũng là con sông chính hình thành nên khu
đồng bằng châu thổ cũng như nguồn cung
cấp phù sa chính nhờ các lớp bồi lắng tích tụ
qua hàng thế kỷ, có nơi độ dày lên tới hàng
chục mét. Lượng phù sa từ nước sông Hồng
ước tính lên đến gần 130 triệu tấn/năm, nhờ
đó, đây là con sông đứng thứ tám trên thế
giới xét về lượng phù sa chuyên chở, trong khi
nếu tính lưu lượng dòng chảy thì đây không
phải là một con sông lớn (Béthemont, 2000).
Chính nhờ lượng phù sa lớn như vậy mà con
sông này có tên là sông Hồng, nhờ màu đỏ
phù sa từ đất sét được dẫn về vào mùa mưa

từ thượng nguồn tỉnh Vân Nam. Với chiều
dài 1200 km, sông Hồng chảy theo hướng
bắc-tây/nam-đông và chảy qua chính vùng
đồng bằng châu thổ, tức là từ Việt Trì tới cửa
Ba Lạt, với khoảng cách 220 km, nhưng nếu
tính theo đường chim bay thì khoảng cách
chỉ có 165 km : vì có ít đoạn quanh co nên
lưu lượng dòng chảy rất lớn – có thể lên tới
28 000 m3/giây – nếu so với quy mô lưu vực
thượng nguồn. Vào mùa lũ, nước sông Hồng

dâng lên rất cao, cao hơn hẳn so với toàn bộ
vùng đất bằng, thông thường vào mùa bình
thường thì nước không thể ngập qua các
bãi sông do có một hệ thống đê điều kiên
cố bảo vệ. Cụ thể, vào mùa nước ròng mùa
đông, mực nước sông Hồng chỉ vào khoảng
2,50 m, cao hơn mực nước biển. Ngay đầu
mùa nước lớn vào mùa hè (từ tháng sáu đến
tháng mười hàng năm), mực nước sông lên
nhanh và có thể dâng cao tới 10 m chỉ trong
vòng vài ngày.

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 39 ]


Ảnh

1,2 và 3

Mực nước sông Hồng lên nhanh do các trận lụt lớn
và khó lường

Nguồn : Olivier Tessier.

Do không mô tả chi tiết nên có thể chỉ ra sáu
vùng địa hình đơn lẻ :
- Vùng núi phía Tây Bắc có độ cao cao hơn
các vùng còn lại của đồng bằng châu thổ,

ngoài ra vùng này còn có nhiều chỗ bãi
cao (13-15 m) rải rác nằm trên dòng chảy
của sông Hồng và nhiều vùng trũng thấp
với độ cao khoảng 5 m, thường có các ao
vũng ;
- Vùng trung du, nằm về phía đông của vùng
Tây Bắc, có độ cao thấp hơn, nhưng vẫn
còn tương đối cao (5-6 m), ngoài ra cũng
có nhiều vùng bãi cao có độ cao thấp hơn ;
- Vùng đất thấp phía Đông Bắc, có sông Thái
Bình và các hợp lưu của con sông này chảy
qua, độ cao của vùng này rất thấp (50 cm

đến 2  m) và gần như không có bãi sông.
Đây là một vùng trũng, đặc điểm này được
thể hiện rõ nhất ở khu vực tỉnh Hải Dương
với hệ thống kênh mương chiếm diện tích
lớn hơn cả diện tích đất bằng ;
- Vùng đất thấp phía nam có đặc điểm tương
đối giống với vùng Đông Bắc (độ cao thấp,
có các vùng chiêm trũng), nhưng ngăn
cách bởi các bãi sông của sông Hồng chạy
dài tới tận vùng cửa sông;
- Dải đồng bằng duyên hải, có bề rộng
khoảng 10-35 km, trải dài từ phía nam đồng
bằng châu thổ đến Hải Phòng. Vùng này có
nhiều chỗ nhấp nhô với độ cao khoảng
2m ngăn cách bởi các vùng trũng có độ
cao thấp, khoảng 50 cm;


[ 40 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


- Vùng bãi bồi ven biển là kết quả do tác
động của con người trong công cuộc lấn
biển, đây là vùng đất rất thấp và bằng
phẳng được hình thành từ lượng phù sa
bồi đắp của sông Hồng. Đây là lý do giải
thích vì sao các vùng bãi bồi ven biển chỉ
có ở phía nam đồng bằng châu thổ. Ở các
nơi khác, phía bắc hoặc miền trung, các dải
đồng bằng duyên hải tạo thành vành đai
bảo vệ trước biển.
Việc đắp đê trên khắp khu vực đồng bằng
châu thổ đã hình thành nên các đơn vị thủy
lợi, được gọi là các khu tứ giác, hoặc bán kính
thủy lợi độc lập, các hệ thống thủy lợi phân
khu này được hình thành để dẫn nước từ
sông và thoát nước mưa ra sông. Hiện nay,
toàn bộ vùng đồng bằng châu thổ được chia
thành 30 phân khu thủy lợi với diện tích dao
động từ 5000 đến 180 000 ha, tương đương
với 30 hệ thống thủy lợi độc lập, riêng rẽ và
đều cần phải thoát nước vào mùa mưa.
Một vài số liệu về đồng bằng châu thổ
sông Hồng
Đầu những năm 1930, nhà nông học René
Dumont và nhà địa lý học Pierre Gourou lần
lượt đưa ra, cách nhau một năm, dự báo
về một tương lai đen tối đối với nông dân

vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Lý do
chính hai nhà nghiên cứu đưa ra là vùng này
có mật độ dân cư quá lớn, do tỷ lệ gia tăng
dân số cao : 12 000 km² trên tổng diện tích
14 700 km² được khai thác bởi 6  500  000
nông dân, tương đương với mật độ trung
bình 430 người/km². René  Dumont thấy
đấy là một « mối nguy lớn » đe dọa đến sự
sống còn của các vùng nông thôn, còn Pierre
Gourou cho rằng đó là một «  căn bệnh vô
phương cứu chữa » : «  […] mật độ dân số quá
đông là một căn bệnh vô phương cứu chữa. [...]
Nông dân đang khai thác kiệt cùng đất đai ; các

công trình thủy lợi và tác động kỹ thuật chỉ có
thể giúp tăng sản lượng nhưng với đánh đổi
là đảo lộn toàn bộ điều kiện sống [nghèo đói
kinh niên]. » Ngoài mật độ dân số cao, thêm
một đặc điểm của vùng là dân cư nông thôn
chiếm tỷ lệ lớn : năm 1931, thủ đô Hà Nội có
128 000 dân, cao hơn một chút so với dân số
của Hải Phòng (124 000 dân). Phát triển đô thị
ở miền Bắc mới chỉ diễn ra gần đây, đặc biệt
nhanh dưới thời thuộc địa nhằm đáp ứng yêu
cầu tập trung quyền lực cũng như thỏa mãn
nhu cầu của bộ máy thuộc địa.
Trong hoàn cảnh như vậy, vấn đề quá tải dân
số ở đồng bằng sông Hồng được đặt ra, có
liên quan đến tiềm năng nông nghiệp của cả
vùng. Lúa gạo chiếm vị trí cốt yếu trong hệ

thống sản xuất lương thực, là cột trụ trong tổ
chức kinh tế và xã hội tập trung vào đơn vị
hộ gia đình, nằm trong mạng lưới làng xã có
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi năm, nông
dân sản xuất một đến hai vụ tùy theo vị trí
ruộng. Địa hình quyết định khả năng tưới tiêu
nước của mỗi thửa ruộng. Các khu ruộng cao
khó lấy nước vào mùa đông nhưng lại không
bị úng nước vào mùa hè, có thể cấy vụ mùa,
thu hoạch vào tháng mười âm lịch, sau đó có
thể cấy tiếp các loại hoa màu cần ít nước (đậu
tương, khoai lang, v.v.). Các khu ruộng thấp,
dễ lấy nước vào mùa đông nhưng thường bị
ngập úng vào mùa hè, có thể trồng vụ chiêm,
thu hoạch vào tháng năm âm lịch. Các khu
ruộng nằm ở vị trí có độ cao trung bình có
thể trồng hai vụ một năm, năng suất mỗi vụ
phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết (khô
hạn vào mùa đông) (ngập úng, bão và thậm
chí có cả khô hạn vào mùa hè). Đầu những
năm 1930, vùng đồng bằng châu thổ sông
Hồng có thể được chia ra như sau : 500 000 ha
trồng lúa hai vụ, 350 000 ha trồng lúa vụ mùa
và 250 000 ha trồng lúa vụ chiêm, tổng cộng
vào khoảng 1,1 triệu ha.

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 41 ]



Nếu tính theo tỷ lệ năng suất/dân số và dựa
theo năng suất trung bình theo tính toán mà
Y. Henri đưa ra năm 1932, sản lượng năm của
đồng bằng châu thổ sông Hồng vào thời
điểm đó là 17 200 000 tạ lúa, với dân số nông
nghiệp là 6 500 000 người, ta có mức trung
bình là 2,6 tạ/miệng ăn. Tuy nhiên, tính thành
gạo, sản lượng này giảm đi khoảng 30 đến
35 %, vì còn phải xay xát lúa, như vậy, con số
cuối cùng còn là 180-200 kg gạo/người/năm,
khẩu phần tạm đủ để nuôi một người lớn[1].
Bảy mươi năm sau, dân số vùng đồng bằng
châu thổ sông Hồng đã tăng gấp gần ba lần.
Hiện nay, cả vùng có 18,5 triệu người, trong
đó chiếm 13 triệu là dân nông thôn (70 %), với
mật độ trung bình là 1000 người/km². Một số
nơi có mật độ trung bình lên tới 1500 người/
km², điển hình là tỉnh Thái Bình, có thể nói

đây là một trong những nơi có mật độ cư dân
nông thôn cao nhất thế giới. Mặc dù trong
những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa tăng
nhanh nhưng đa phần người dân vẫn sống
ở nông thôn, tập trung tại 2000 xã trên toàn
bộ khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng,
thuộc hơn 80 huyện, chia thành 12 tỉnh.
Mặc dù áp lực về đất đai gia tăng chưa dẫn
đến khủng hoảng kinh tế xã hội rõ rệt song
cũng phải nhận thấy những tác động của

hai định hướng lớn mà các nhà lãnh đạo của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ
đưa ra ngay từ đầu những năm 1960 nhằm
cải cách nền sản xuất nông nghiệp truyền
thống : hiện đại hóa hệ thống thủy nông và
áp dụng nguyên tắc cuộc « cách mạng xanh»
(đưa vào sản xuất các giống lúa mới năng
suất cao).

[1] Nhìn chung, khẩu phần lương thực trung bình đủ nuôi một người lớn là 300-350 kg tương đương lúa, khoảng
210-250 kg gạo/người/năm.

[ 42 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


Ảnh

4,5,6 và 7 Sự định cư ở đông bằng châu thổ sông Hồng :
các làng xã

Nguồn : Quỹ lưu trữ ảnh – Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (Paris).

Trong những bức ảnh này, các bạn có thể
thấy nơi con người cư ngụ giống như một
ruộng mạ, các ngôi làng tựa như những cây
mạ được một bàn tay vô hình cấy xuống,
nhưng ưu tiên nhiều hơn cho phần có địa
hình cao. «  Lũy tre làng » truyền thống mà
hiện ít nhiều đã vắng bóng, cũng khiến ta có
cảm giác làng xã có sự tách biệt rất rõ rệt.


Ngày nay cũng vậy, ta có thể thấy trên bức
ảnh tỉnh Bắc Ninh chụp từ vệ tinh Spot này
tầm quan trọng của địa hình trong việc hình
thành các ngôi làng. Ngược lại, sự tách biệt
của mỗi ngôi làng cũng dần giảm bớt nhờ sự
kết nối thành mạng lưới cũng như việc dần
hình thành các khu dân cư kiểu đô thị nông
thôn dọc theo các trục đường giao thông.

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 43 ]


Ảnh

8

Trích lược Bắc Ninh (Spot, 2003)

Nguồn : Tác giả dựa theo Google 2007 ( />
1.1.2. Trị thủy : mối quan tâm từ
ngàn đời (thế kỷ XII - XVIII)

mình, và các thần dân đó được đặt dưới sự
bảo vệ của đấng tối cao.

Quá trình hình thành hệ thống đê điều 


Khía cạnh chính trị và biểu trưng quyền lực
của nhà vua được khẳng định ba năm một
lần qua lễ tế đàn Nam Giao. Đây là lễ tế Trời
« Hoàng đế là người đại diện của thần dân : thay
mặt thần dân, hoàng đế lễ lạy, dâng cúng phẩm
vật, tạ ơn, khẩn cầu ». Là sứ giả của trời, nhà
vua cũng có thể phải chịu trách nhiệm nếu
đê vỡ, gây lụt, vì nhân dân sẽ thấy đó là dấu
hiệu Trời quở. Bên cạnh việc cúng tế trời đất
mỗi năm nhân lễ tịch điền hoặc lễ hạ điền, bắt
đầu một vụ mùa mới, để bảo vệ dân chúng
và mùa màng, triều đình cũng phải quan

Quá trình lập cư và phát triển nông nghiệp ở
đồng bằng châu thổ sông Hồng thực sự bắt
đầu kể từ khi Nhà nước trung ương cùng bộ
máy hành chính tổ chức công tác xây dựng
hệ thống đê điều.
Ở Việt Nam cũng như Trung Quốc, việc xây
dựng và tu bổ đê điều nằm trong quyền lực
của các hoàng đế. Thiên mệnh của trời trao
cho một người «  quyền lực tối cao  », tức là
quyền được ra lệnh cho các thần dân của

[ 44 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


tâm trực tiếp đến hệ thống đê điều, thủy lợi,
phòng lũ lụt cho các vùng nông thôn.
Bằng chứng đầu tiên cho thấy có các công

trình đê điều sau thời gian dài bị Trung Quốc
đô hộ được ghi trong Cương mục vào cuối

Ảnh

9,10,11 và 12

thế kỷ XI : « Năm Mậu Tí, năm Hội Phong thứ
tám, dưới thời vua Lý Nhân Tông, triều Lý (1099)
… tháng hai âm lịch, người ta đắp một con đê
ở bờ sông làng Cơ Xá » (trước đây là tỉnh Hà
Đông, nay là Hà Tây). Phải nói là những cơn
giận dữ của sông Hồng vô cùng khốc liệt.

Những cơn giận dữ của sông Hồng

Ảnh : Quỹ lưu trữ ảnh – Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (Paris).

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là trước
đấy chưa có đê : người ta thấy dấu vết của các
công trình phòng hộ ở tỉnh Sơn Tây và tỉnh
Hưng Hóa cũ ngay từ đầu kỷ nguyên Thiên
chúa giáo, có sự vay mượn kỹ thuật của Trung
Quốc. Theo Pierre Gourou, «  Ngay khi người
dân vùng châu thổ [sông Hồng] không còn làm
nghề đánh bắt cá nữa, khi dân số tăng lên và
không có đủ diện tích ở các khu đất cao và các

dải đất bãi, họ buộc phải đắp đê » (1936). Nhìn
chung, giả thuyết mà các tác giả đặt ra đối với

nguồn gốc của các công trình đê điều là từ
nội lực của địa phương: để tránh lũ hè muộn
hoặc xuân sớm, nông dân và dân làng đắp
bờ bao bên các dòng nước để bao quanh các
khoảnh đất có thể trồng cấy được. Dần dần,
hệ thống này được phổ biến, hệ thống bờ
bao được đắp nhiều lên và dần thành hình

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 45 ]


một mạng lưới được mở rộng không ngừng
(Rouen, 1915).
Một câu hỏi còn bỏ ngỏ liên quan tới giả
thuyết cho rằng nguồn gốc của hệ thống đê
điều là để phục vụ canh tác chính là câu hỏi
liên quan đến vai trò và các biện pháp của
nhà nước. Ở điểm này, mặc dù quan điểm
mà Karl Wittfogel đưa ra trong cuốn sách gây
nhiều tranh cãi Chủ nghĩa chuyên chế phương
Đông đã bị chỉ trích rất nhiều, nhưng tác giả
cũng đã nhấn mạnh rằng công việc quản lý
nước và trị thủy tất nhiên sẽ làm hình thành
nên các tương quan lực lượng giữa chính
quyền trung ương và các xã hội nông dân.
Và hiển nhiên, phải đến thế kỷ XIII, tức dưới
thời nhà Trần với việc xây dựng nền tảng cho
một triều đại đậm chất quý tộc và mạnh về

quân sự, các cuốn biên niên mới nhắc đến
các công trình thủy lợi lớn và tiết lộ từng
phần dấu ấn sơ khai của tổ chức hành chính
và quân sự chuyên nghiệp trong quản lý đê
điều. Sau trận lụt do một cơn lũ lớn gây ra làm
vỡ đê Long Đàm hay Thanh Đăm (Đàm) (nay
thuộc Hà Nội) tháng 10 năm 1245, sự việc
này cho thấy rõ ràng ít nhất một phần các
công trình đê điều đã được thực hiện, Đại việt
sử ký có nêu : « Dưới triều vua Trần Thái Tông
(1225-1258). – Niên hiệu Thiên ứng chính bình.
[…] năm thứ 17 niên hiệu Thiên ứng chính bình,
tháng ba, năm Mậu Thân (tháng 4 năm 1248) :
người ta bắt đầu đắp đê Đỉnh Nhĩ. Tất cả các
tỉnh đều được chỉ dụ hỗ trợ cho việc đắp đê từ
đầu nguồn (sông Hồng) ra tới biển. Mục đích là
để ngăn lũ. Nhà vua chỉ định một quan hà đê sứ
và một phó quan để đặc trách trông coi việc đê.
Nơi nào có đê đi qua, người ta đo diện tích phần
ruộng bị mất và đền bù cho nông dân. Con đê
này có tên là đê Đỉnh Nhĩ ». 
Đắp đê bao dọc sông Hồng là một việc lớn,
vua giao quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào –

« Năm thứ năm niên hiệu Nguyên Phong dưới
triều vua Trần Thái Tông […] tháng tư âm lịch
(tháng 5 năm 1255)  : ở mỗi tỉnh, vua cử một
quan võ làm chức hà đê sứ để trong coi việc đê
điều trong tỉnh. Mỗi năm, khi hết việc đồng áng,
quân sĩ được huy động để đắp đê và giúp dân

đào lạch, hào, vừa ngăn lụt vừa chống hạn ».
Mặc dù đã bắt đầu có tổ chức và quản lý các
công trình thủy lợi, việc đê điều ở các thế kỷ
XIII và XIV không được đưa vào trong một kế
hoạch quy hoạch tổng thể cho khu vực đồng
bằng châu thổ, kỹ thuật đắp đê chủ yếu là
trăm hay tay quen, chất lượng đê cũng không
đồng đều giữa các tỉnh. Do vậy, có nhiều
đoạn đê không vững, kết nối kém nên không
thể ngăn được các cơn lũ vừa từ sông Hồng
cũng như từ các sông nhánh, nhiều trận lụt
đã xảy ra, vỡ đê, dẫn đến nhiều lần phải đắp
lại đê và tu bổ gia cố đê.
Đại Việt sử ký toàn thư viết năm 1697 cho ta
có một cái nhìn rõ nét về những mối đe dọa
thường trực từ thiên tai đối với người dân
trong vùng. Theo bản khắc trên một văn bia
cho biết vào tháng bảy âm lịch năm 1164
và năm 1199, một trận lụt lớn nhấn chìm
toàn bộ các cánh đồng lúa  ; tháng tám âm
lịch năm 1359, nước nhấn chìm nhà dân và
gây mất mùa ; v.v. Có vài năm, lụt xảy ra suốt
mùa mưa, như năm 1586, biên niên có nhắc
đến một trận lụt lớn xảy ra vào ngày mùng 5
tháng tư âm lịch, tiếp theo đó là một cơn lũ
lớn trên sông Mã, tỉnh Thanh Hóa vào ngày
25 cùng tháng, trận lũ lớn tới mức cuốn trôi
hết nhà cửa ra tận biển, sau đó còn hai trận
lụt nữa vào ngày mùng 2 và ngày 25 tháng
bảy âm lịch, tổng cộng, có tới bảy trận lụt

lớn trong vòng một năm. Nhưng những giai
đoạn khốn khổ đó không chỉ ảnh hưởng tới
các miền quê : tháng bảy âm lịch năm 1270,
phố phường kinh thành Thăng Long chìm
trong nước lụt, người người phải đi lại bằng

[ 46 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


thuyền  ; tháng sáu âm lịch năm 1630, sông
Nhị Hà (sông Hồng) tràn bờ và làm ngập
nhiều phố phường, nước tràn vào như thác
ở cổng kinh thành phía nam, rất nhiều người
bị chết đuối ; v.v.
Sang thế kỷ XV, khi nhà Lê lên ngôi, đất nước
trải qua một giai đoạn thanh bình trong quan
hệ với Trung Hoa và nước Chămpa với việc
áp đặt quyền lực của mình lên nước này. Có
thể nói, dưới triều Lê, việc xây dựng một nhà
nước tập quyền trị vì đất nước bằng một hệ
thống quan lại tới tận làng xã chính là một
yếu tố quyết định tới công tác quy hoạch
thủy lợi và phòng chống lũ lụt.
Chính sách nông nghiệp thực thi dưới thời
vua Lê Thái Tổ vẫn được tiếp nối dưới triều
đại vua Lê Thánh Tông : sau khi vỡ đê sông Tô
Lịch, vua Lê Thánh Tông đã ra chỉ dụ sửa chữa
gia cố đê điều và đường xá trên cả nước và

Khung


1

lập ra các chức quan khuyến nông và quan
hà đê. Chủ trương này còn tiếp tục được thực
hiện tới tận những năm đầu thế kỷ XVI và
không chỉ cho việc xây dựng và gia cố đê mà
còn là đường hướng thực hiện các biện pháp
thủy lợi. Vì vậy, vào năm 1503, dưới triều vua
Lê Hiển Tông, Dương Trực Nguyên (tả thị lang
bộ Lễ) đã xin phép « đắp các con đê dọc sông
Tô Lịch từ cầu Trát đến sông Cống để bảo vệ các
ruộng lúa khỏi bị ngập nước, và đào một con
kênh từ làng Yên Phúc đến xã Thượng Phúc để
đảm bảo tưới tiêu cho các cánh đồng. Nhà vua
đã chấp thuận ».
Chủ trương hợp lý hóa và hệ thống hóa việc
tu bổ và gia cố hệ thống đê điều được thể
hiện trong bộ luật nhà Lê, theo đó các quan
thuộc cấp hành chính là những người chịu
trách nhiệm duy nhất đảm bảo việc thực thi
các chỉ dụ của nhà vua.

Một hệ thống đê điều hợp lý và có hệ thống

« Điều 181 : Các công trình sửa chữa đê phải được bắt đầu vào ngày mùng 10 tháng
giêng, là ngày mà tất cả dân chúng các làng nằm trong đê phải tham gia sửa chữa
phần đê mà họ được giao. Thời hạn sửa chữa này là hai tháng ; ngày 10 tháng ba, mọi
công việc sửa chữa phải hoàn tất. Trong trường hợp xây mới một con đê, thời hạn xây
sẽ là ba tháng. Quan lộ được giao phó theo dõi thường xuyên công việc xây dựng, các

giám sát và quan hà đê phải theo dõi sát sao để công trình được thực hiện ổn định và
nhanh chóng […] ».

Sau này, cho đến thời nhà Nguyễn với sự
lên ngôi của hoàng đế Gia Long năm 1802,
nguồn lực dành cho việc quy hoạch thủy lợi
là khiêm tốn nhất. Thực tế đất nước đã trải
qua một thời kỳ thực sự loạn lạc và bất ổn
chính trị kéo dài được đánh dấu bởi sự nổi
dậy của nhà Mạc và một loạt các cuộc chiến
tranh đẫm máu giữa các chúa Trịnh và chúa
Nguyễn.

Vào đầu thế kỷ XVIII, tháng tám năm 1708,
sách Cương mục ghi « chỉ dụ sửa chữa đê sông
Nhị Hà [sông Hồng]  : Hàng năm nước sông
Nhị Hà đều tràn bờ, nhiều điểm bị vỡ. Vì vậy
hai bộ phận Quản lý và Hành chính (trấn thừ)
có nhiệm vụ điều hành quân sĩ thực hiện sửa
chữa đê theo nhu cầu của nông dân. » (Langlet,
1978). Ba năm sau (1711), năm thứ bảy triều
Vĩnh Thịnh, nhà vua quyết định thay đổi hệ

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 47 ]


thống tổ chức công trình sửa chữa đê bằng
việc cử các quan từ kinh đô theo dõi việc thực

hiện.
Tuy nhiên, tác giả nhận thấy « Sau đó, số lượng
công việc tăng lên nhưng thiệt hại do lũ lụt gây
ra vẫn không thể tránh khỏi » (Langlet, 1978 :
516). Cuối cùng, chỉ có bốn đoạn từ chương
33 đến 35 trong Cương mục (1663 đến 1721)
đề cập vấn đề ngăn lũ và cho biết chỉ có sửa
chữa đê chứ không có công trình đắp đê mới.
Thông tin này hoàn toàn trái ngược với những
thông tin về thiên tai hạn hán và lũ lụt, đồng
nghĩa với nghèo đói kéo dài trong suốt thời
kỳ này (17 tài liệu tham khảo), cho thấy một
Nhà nước yếu kém và bất lực mà các nguồn
tài liệu lịch sử chính thức vẫn đưa ra. : « (Tháng
tám âm lịch năm 1684, dưới triều chúa Trịnh
Tạc) – Nước dâng cao do bão, sông Nhị Hà tràn
bờ [còn được gọi là sông Phú Lương, có nghĩa là
sông Hồng] ; nhiều ruộng lúa bị thiệt hại hoặc
mất trắng tại các huyện vùng Tây Bắc ».
Đây là một trong những sai lầm nghiêm
trọng nhất của nhà Trịnh vì đã không chú
trọng quan tâm đúng mực đến nông nghiệp
nói chung và công tác trị thủy nói riêng mà
đã giao công việc này cho riêng các quan địa
phương cấp tỉnh. Chắc chắn là sau nhiều lần
vỡ đê, vào năm 1723, Nhà nước đã phải lấy
lại quyền điều hành các công trình ngăn lũ,
nhưng từ năm 1767, nó lại thuộc về thẩm
quyền của các quan chức vùng, chính phủ
hoàn toàn hỗn loạn (Lê Thành Khôi, 1992).

Hệ thống tưới tiêu : sự bất lực của triều
đình
Các nguồn tài liệu liên quan đến một mặt
khác của vấn đề trị thủy là hệ thống cung cấp
nước phục vụ nông nghiệp ít hơn so với tài
liệu về chống lũ, nhưng các nguồn này đều
xác nhận mối quan tâm thường xuyên của

các triều đại nối tiếp nhau đến các vấn đề
hạn hán và những hậu quả nặng nề mà dân
chúng phải gánh chịu. Tuy nhiên, nếu như từ
thế kỷ XV, triều đình có ý định cải thiện tình
hình trong lĩnh vực này thì trên thực tế các
sáng kiến thực hiện lại không mang lại kết
quả đáng kể : trước thế kỷ XIX, không có bất
cứ sự quy hoạch trực tiếp nào được thực hiện
trên các con sông. Cần phải nhấn mạnh là
vào thời kỳ này các vấn đề cần giải quyết là
những vấn đề tầm cỡ.
Việc dự trữ nước cho cánh đồng được thực
hiện nhờ vào các vùng thấp ở gần tạo thành
hệ thống ao và rạch. Các vùng này thường
ngập nước trong mùa mưa, tạo thành các
bể chứa nước cung cấp cho đồng ruộng vào
những thời điểm hanh khô của mùa đông,
lượng nước dự trữ tùy thuộc vào nhịp độ khi
thủy triều lên, mức nước cao nhất là 4 m, khi
đó mức ảnh hưởng tại phần lớn các khu vực
của đồng bằng là đáng kể. « Chúng ta ở trong
một đồng bằng, vùng châu thổ phù sa bồi đắp,

có độ dốc và độ cao thấp. Lưu lượng dòng chảy
yếu của các con sông vào mùa khô khiến cho
nước biển dâng lên khi thủy triều lên, nước biển
chặn dòng chảy của nước ngọt và như vậy làm
tăng lượng nước trên các con sông. » (Gourou,
1936).
Tại các vùng duyên hải, từ nhiều thế kỷ nay,
người nông dân luôn biết tranh thủ tận dụng
hiện tượng tự nhiên này  : họ làm rất nhiều
cửa xả nước bằng gỗ lim chắc không bị mủn
và điều khiển những cửa này dẫn nước vào
các kênh khi gió biển thổi vào phía trong cửa
sông và thổi ngược dòng chảy của sông làm
mặt nước sông dâng cao.
Tại các vùng khác, việc quy hoạch tưới nước
chủ yếu tập trung vào hệ thống ao và rạch
nhằm duy trì sự tồn tại ngắn ngủi của các bể
chứa nước tự nhiên này. Vì vậy, trên một tấm

[ 48 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


bia làng khắc năm 1764 có ghi lại việc có hai
xã đã cùng nhau tiến hành đào một kênh dẫn
nước vào giữa thế kỷ XVIII :

Khung

2


Sáng kiến của địa phương

« Hai xã Thời Ủng và Chu Lũng đã thực hiện các công trình quy hoạch nhằm ổn định đời
sống người dân. Năm Đinh Mão (1747), thành lũy được xây dựng và nhiều mương nước
được đào, năm Quý Dậu (1753), một kênh tưới nước cũng được đào và năm Mậu Dần
(1758), các khoảng đất canh tác đã được cung tiến để tu tạo khu đền thờ. Vào thời kỳ này,
quan lại hai xã đã tiến hành đo đạc, 99 trượng [1 trượng = 4 m] thành lũy và mương nước,
581 trượng [khoảng : 2,32 km] kênh đào đã ra đời, đền thờ nằm trên một chu vi 61 trượng
và 6 thước (đơn vị đo lường của Việt Nam thời xưa). […] Tổng cộng, tổng số tiền đóng góp
là 1010 quan tiền sử, 148 người đã hiến đất để đào kênh. Để ghi nhận tấm lòng của những
người đã hiến đất và đóng góp tiền, hai xã đã cho lập một tấm bia có khắc tên của những
người này và thờ phụng họ lâu dài ».

Song song với những sáng kiến cấp địa
phương, từ thế kỷ XV, triều đình ban hành
một loạt các chỉ dụ khuyến khích nhân dân
đắp các con đê nhỏ, đào các hồ chứa nước và
khơi thông kênh đào, rạch nhằm tăng nguồn
dự trữ nước tự nhiên, tạo điều kiện thuận lợi
cho vụ mùa tháng năm và nếu có thể, để
trồng giống lúa ngắn ngày thay thế giống lúa
thông thường trồng vào vụ chiêm bị phá hủy
do vỡ đê (Pouyanne, 1931). Vì vậy, vào cuối
thế kỷ XV, kênh Sông Đào đã được đào. Con
kênh này cho phép cung cấp nước cho các
cánh đồng lúa vào mùa khô đồng thời tiêu
nước cho các khu vực trũng trong mùa mưa.
Do không thể cắt đê và do cấu tạo đất tại
những nơi cùng có các gờ bờ sông và lòng
chảo đòi hỏi phải sử dụng những trang thiết

bị cơ khí để lấy nước từ các dòng sông vào
mùa khô. Về điểm này, trong tài liệu nghiên
cứu việc cung cấp nước, E. Chassigneux ghi
lại rằng nếu như một số văn bản và chỉ dụ

yêu cầu các quan lại và người dân «phải chế
tạo các máy móc để vận chuyển nước», nhưng
không có bất cứ chi tiết nào cho biết tính chất
của « những chiếc máy » này cũng như nói
rõ liệu chúng có tồn tại thực sự. Phải chăng
đây chính là những guồng đạp nước cỡ nhỏ
thường thấy vào thời kỳ này tại một số tỉnh
của đồng bằng sông Hồng ?
Cũng vậy, vào thời kỳ hạn hán, biện pháp cứu
cánh chủ yếu là cầu viện chúa Trời. Nhiều
đoạn trong sách Cương mục ghi lại, một mặt,
các biện pháp ân xá hàng loạt được coi như
các hành vi phục hồi đạo đức trước sự hà
khắc thái quá của triều đình bắt nguồn từ
thiên tai (Langlet, 1970) và mặt khác, cầu khấn
và cúng lễ vật cho thần núi và thần sông để
làm giảm cơn thịnh nộ của trời đất, thỉnh cầu
các vị thần ban cho mưa mà hạ giới bấy lâu
trông ngóng. Vì vậy, sử sách có ghi vào năm
Quý Hợi, năm thứ 4 [1143] : « Hạn hán kéo dài,
từ mùa xuân đến mùa hạ. Nhà vua thân hành

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 49 ]



cầu đảo để xin trời ban mưa. Vào tháng sáu, trời
mưa » ; hay như vào năm Mậu Thìn, năm thứ
6 [1448] : « Vào tháng tư, là mùa hè. Hạn hán.
Nhà vua dâng lễ vật tế thần để cầu mưa. Nhà
vua cũng đã trả tự do cho các tù nhân ».

Ảnh

Cuối cùng, do thiếu kỹ thuật hiệu quả trong
quá trình cấp nước, nhà vua ban lệnh miễn
một phần hay toàn bộ thuế cho dân và lấy
gạo từ kho của triều đình để cấp cho những
người dân nghèo khổ nhất để xoa dịu phần
nào những nỗi đau mà người dân phải gánh
chịu trong thời kỳ hạn hán.

13 Dụng cụ tát nước truyền thống

Nguồn : Olivier Tessier và Philippe Le Failler (2009) Kỹ thuật của người dân An Nam, tác giả Henri OGER, tái xuất bản, ba ngôn ngữ,), nxb Thế
giới, Hà Nội, 2 tập (nội dung : 700 trang ; lời mở đầu : 271 trang).

[ 50 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


Ảnh

14,15 và 16


Dụng cụ tát nước truyền thống (tiếp)

Nguồn : Quỹ lưu trữ ảnh – Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (Paris).

Cũng vậy, việc lấy nước theo phương pháp
truyền thống từ các rạch và ao với nước dự
trữ từ các nguồn nước tự nhiên của sông
ngòi vẫn là chuẩn mực cho đến khi hệ thống
mương tự chảy được xây dựng. Mỗi người
sử dụng hệ thống phải chịu trách nhiệm về
khoảnh ruộng của mình và tát nước từ một
nơi đặc biệt nằm dọc theo một con rạch hay
ao, được gọi là trạm tát nước, như hình ảnh
minh họa bên cạnh. Các trạm tát nước này là
sở hữu cá nhân, người chủ sở hữu hệ thống
này có quyền ưu tiên lấy nước so với những
người dân khác trong làng có mong muốn
lấy nước tưới cho ruộng của mình. Nước
được tát trực tiếp vào các khoảnh ruộng hoặc
tát vào một con kênh cấp nước cho đất đai

của người nông dân. Việc tát nước được thực
hiện chủ yếu bằng hai dụng cụ đơn giản, khá
rẻ và phụ thuộc vào cao độ mực nước được
tát lên. Phương pháp này vẫn được sử dụng
cho đến ngày nay vì một số lý do được giải
thích trong các phần sau.
Gầu sòng là gầu đan bằng tre, dài khoảng
70  cm và miệng rộng khoảng 25 cm, được
gắn với một cán dài từ 1,5 đến 2 m. Gầu được

treo bằng dây vào một cái chạc ba chân bằng
tre sao cho gầu ở vị trí nằm ngang cách mặt
nước khoảng 10 cm.
Vật dụng này do một người điều khiển và
chuyển động như một con lắc đồng hồ : lúc
đầu, gầu chìm xuống nước khoảng 15 cm

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 51 ]


theo hướng xiên, sau đó người điều khiển tác
động lên gầu gây ra một chuyển động giống
con lắc đồng hồ và gầu dừng lại khi đạt đến
điểm phải đổ nước. Nước khi đó được kéo
theo nhờ vào lực tác động mạnh và được đổ
vào khoảnh ruộng hay một con kênh dẫn.
Gầu sòng cho phép đẩy nước lên cao tối đa
40 cm. Một ngày tát nước vất vả và nhàm
chán tưới được 10 cm nước cho 1 ha lúa.
Vật dụng thứ hai, cái gầu giai, được sử dụng
khi muốn đưa nước lên cao hơn 40 cm nhưng
không vượt quá một mét. Gầu giai giống như
một cái xô được làm từ những tấm tre đan có
hình nón, mỗi bên nối với hai dây, một ở đáy
gầu, một ở miệng gầu.
Cần có hai người điều khiển gầu. Khi nghiêng
người về phía trước, hai tay căng ra để gầu
chìm xuống nước, sau đó thẳng người và

kéo mạnh dây phía trên để khi gầu đạt tới
điểm cuối hành trình, kéo dây phía dưới để
dốc ngược gầu và đổ nước ra. Với giả thuyết
cần đưa nước lên cao 90 cm và đạt tới 10 cm
nước cho một héc-ta lúa, hai người sẽ phải
lao động trong khoảng 30 ngày. Hơn nữa, đôi
khi phải thực hiện nhiều bước để có thể đưa
nước đến mảnh ruộng cần tưới.
Đứng trước một công việc khó khăn và đòi
hỏi nhiều thời gian, sẽ là dễ hiểu vì sao các
vụ lấy trộm nước thường xuyên xảy ra và là
nguyên nhân chính gây bất hòa giữa hàng
xóm láng giềng, nhất là vào mùa hạn hán.
Quả vậy, không có gì dễ hơn là bổ một nhát
cuốc vào bờ ngăn giữa hai khoảnh ruộng,
nước sẽ chảy vào ruộng bên cạnh ở vị trí thấp
hơn.
Ngoài ra, còn có hai nông cụ khác để đưa
nước lên cao nhưng ít được sử dụng hơn hai
nông cụ trước. Đầu tiên là cái gầu kèo. Đây
đơn giản là một cái gầu đựng bằng tre đan
gắn chặt với một cái can. Khi ngập trong

nước, gầu trượt theo chiều dài một thành
đất nhẵn và nghiêng : người điều khiển ở vị
trí ngồi, kéo gàu về phía mình, nước dâng
lên thành đất để tiếp sau đó đổ ra ngay khi
lên cao hơn mặt bờ ngăn. Hiệu quả tát nước
này rất cao nhưng chỉ cho phép đưa nước lên
cao từ 10 đến 20 cm vì vậy việc sử dụng gàu

kèo chỉ giới hạn ở một số huyện phía dưới
đồng bằng có độ dốc rất thấp. Vật dụng thứ
hai là guồng đạp nước (hay guồng nước),
cho phép đưa nước lên độ cao từ 10 cm đến
1,5 m. Loại gầu này trên thực tế dành cho
những nông dân có điều kiện vì chi phí và độ
phức tạp cao.
Khi so sánh các công cụ dẫn nước tưới cho
ruộng đồng tại đồng bằng sông Hồng vào
đầu thế kỷ XX với các công cụ được đề cập
trong một khảo luận của Trung Quốc vào
năm 1210, cuốn Keng tche t’ou, với 23 bức vẽ
mô tả nghề trồng lúa, E. Chassigneux đã thiết
lập được một mối liên hệ về mặt kỹ thuật và
mối liên hệ này hoàn toàn chắc chắn. Các
công cụ được nông dân đồng bằng sông
Hồng sử dụng dựa trên sự vay mượn kỹ thuật
của Trung Quốc : chỉ có vài chỉnh sửa cho phù
hợp và có cải tiến so với kỹ thuật Trung Quốc,
nhất là đối với công cụ đầu tiên được miêu tả
khi hệ thống đối trọng ban đầu được thay thế
bằng gạc tre ba chân.

1.1.3. Nhà Nguyễn : một tầm nhìn
bao quát và sáng tạo về quy hoạch
thủy lợi
Mặc dù kinh đô của nhà nước mới thống
nhất được rời về Huế, các hoàng đế đầu tiên
của triều Nguyễn đã chú trọng vào việc vực
dậy nền kinh tế-xã hội của miền Bắc đất nước

vốn hoang tàn sau nhiều thập kỷ chiến tranh
và tàn phá. Để thể hiện quyền lực của mình
ở khắp nơi trên đất nước, nhà Nguyễn khẳng
định mình như một nhà xây dựng vĩ đại khi

[ 52 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


cho tiến hành xây dựng đường xá, cầu, cảng
và cả các thành trì vững mạnh theo kiểu công
sự Vauban để phòng ngừa các cuộc nổi dậy
của nông dân. Đây là một trong những điểm
mập mờ nhất của nửa đầu thế kỷ XIX : nếu
như việc xây dựng một chế độ quân chủ
chuyên chế cho phép hiện đại hóa cơ sở hạ
tầng tại đồng bằng sông Hồng, việc tăng
cường giám sát người dân bằng một bộ máy
quan liêu của quan lại tham nhũng tràn lan
ngày càng gây bất bình cho nông dân và
nhiều lần sự phẫn nộ đã biến thành các cuộc
nổi dậy. Vì vậy, những thủ lĩnh nông dân như
Phan Bá Vành, các quan lại tiếc nuối triều Lê
trước kia đã tập hợp nông dân nghèo nổi dậy
trong sáu năm (1821-1827) chống lại các thế
lực triều đình ở vùng duyên hải Quang Yên
(Sơn Nam). Nếu những cải cách hành chính
do vua Minh Mạng thực hiện nhằm lập lại
kỷ cương đất nước đã đem lại yên bình thì
khủng hoảng lại ngày càng nghiêm trọng
dưới thời vua Tự Đức, đỉnh điểm là sự xâm

lược của các tàn quân Trung Hoa chạy trốn
khỏi sự truy sát liên tục sau cuộc nổi dậy Thái
Bình Thiên Quốc (Lê Thành Khôi, 1992).

Hướng tới việc đắp đê toàn diện ở đồng
bằng sông Hồng
Trong lĩnh vực thủy lợi, các hoàng đế, đầu
tiên là vua Gia Long, sau đó là vua Minh Mạng
và vua Tự Đức, tiến hành thực hiện các công
trình quy mô chủ yếu nhằm chế ngự lũ sông
Hồng. Vì vậy, theo số liệu điều tra năm 1829
do quan Đê chính Lê Đại Cương tiến hành,
tổng chiều dài đê chính ở đồng bằng sông
Hồng (số liệu tại 739 xã thuộc 38 huyện trên
5 tỉnh) là 952 km trong đó 144,5 km được đắp
trong vòng 26 năm dưới thời hai hoàng đế
đầu tiên của triều đại (Đỗ Đức Hùng, 1979).
Pierre Gourou đánh giá, vào thời điểm trước
khi có sự xuất hiện của chế độ thực dân, việc
đắp đê toàn diện tại đồng bằng sông Hồng
đã hoàn thành, tức là hệ thống đê điều dày
đặc gần với những gì quan sát được vào đầu
năm 1930. Hệ thống này trải dài trên gần
2000 km đê chính cũng như đê quai (Gourou,
1936). (Xem. Bản đồ hệ thống đê)

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 53 ]



Bản đồ

3

Bản đồ các tuyến đê (thời gian giả định : 1905)

Nguồn : Gauthier, J. (1931).

Năm 1809, hoàng đế Gia Long thực hiện
cải cách quản lý đê điều và thiết lập một cơ
quan trung ương chuyên biệt nằm dưới sự
phụ trách của một quan triều đình « quan Đê
chính ở Bắc Thành ». Nhà vua đồng thời ban
hành một quy định gồm tám điều liên quan
đến việc thực hiện và giám sát các công trình
xây dựng, bảo vệ các công trình và lập các kế
hoạch xây dựng trong tương lai có ước tính
chi phí thực hiện.

Quy định này thiết lập hệ thống các loại hình
đê điều theo ba cấp độ quan trọng (đê đại
giang, đê trung giang, đê tiểu giang) và xác
định với mỗi loại hình một bản mẫu chuẩn
mực các công trình – độ rộng chân đê và bề
mặt đê, độ cao và mật độ nén.
Cuối cùng, cũng như trong bộ luật nhà Lê, bộ
luật Gia Long quy định các hình phạt, có thể
là tử hình, cho bất cứ ai bị kết tội « Cắt đê sông
trái phép – Điều 395 » và « Không kịp thời sửa

chữa đê và không sửa chữa đê – Điều 396 » [2],

[2] Điều 395 : « Những người lén lút cắt đê sông (đê do Nhà nước đắp), sẽ bị phạt đánh 100 trượng ; những người lén lút cắt đê
hay tát ao (thuộc sở hữu cá nhân), sẽ bị phạt đánh 80 trượng […] ». Điều 396 : « Mỗi lần đê sông không được (đắp và) tu bổ
(trước khi xảy ra tai nạn), hay cho dù (cho dù đã tu bổ), đê đã được tu bổ nhưng không kịp thời, các quan viên lại chịu trách
nhiệm quản lý chung của bộ phận sẽ bị phạt đánh 50 trượng […] » (Philastre, 1876).

[ 54 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


điều luật này lấy lại các điểm chính trong bộ
luật nhà Lê.
Cho dù toàn bộ những biện pháp này nhằm
hệ thống hóa việc quản lý kỹ thuật và nhân
lực hệ thống đê điều, các đợt vỡ đê và lũ lụt
vẫn liên tiếp xảy ra hàng năm dưới triều vua
Gia Long và Minh Mạng, với hàng loạt trận lũ
lụt chết người, nạn đói và các cuộc nổi dậy
của nông dân. Hàng năm hay gần như hàng
năm, kể từ tháng sáu âm lịch, Đại Nam Thực
Lục mô tả lại thực trạng các địa điểm bị thiên
tai nặng, nhẹ, do lũ hay ngược lại do hạn hán,
hoàng đế cấp gạo cứu trợ khẩn cấp hoặc cấp
tiền cho những người bị thiên tai và ban hành
lệnh miễn thuế một phần hay miễn thuế
toàn phần.
Trận lụt năm 1872 là một thảm họa  : «  Bắc
Thành bị lụt nặng, đê điều tại ba tỉnh Sơn Tây,
Sơn Nam, Nam Định bị vỡ, nhà cửa và ruộng
đồng chìm trong biển nước, nhiều người chết

đuối. Các vị chức sắc đã cử người xuống địa
phương để cứu trợ người bị nạn và báo cáo với
nhà vua. […] Tôi đã đọc bản báo cáo về tình
hình bi thảm của người dân bị nạn, cứu trợ
không đủ và còn quá ít ỏi. Tôi ra lệnh cho các
chức sắc tỉnh cứu trợ bổ sung, mỗi người, nam,
phụ, lão, ấu, hoặc đã chết đuối, được nhận 3
quan tiền, nếu như một người rất nghèo sẽ
được nhận 2 quan tiền, 1 phương gạo, nếu như
một người nghèo sẽ được cấp 1 quan tiền và 1
phương gạo. »
Vào năm trị vì thứ tám (1828), vua Minh Mạng
ban chỉ dụ tước quyền đắp đê và tu bổ đê
điều của quan lại cấp tỉnh bị kết tội là lơ là và
bất tài, để giao trách nhiệm này cho một bộ
phận quan viên lại chuyên biệt. Chỉ dụ ban
hành chính xác kích thước của các loại hình
đê điều khác nhau, các kích thước này được
nâng lên so với kích thước mẫu chuẩn ban
hành dưới thời vua Gia Long, và chỉ rõ cách

tiến hành  ; vua Minh Mạng cũng ra chỉ dụ
trồng tre ở chân đê và lập dự trữ mỗi năm
trước mùa lũ giỏ và tre để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc sửa chữa ; cuối cùng, nhà vua ra
chỉ dụ lập đền thờ thần nước ở hợp lưu sông
Hồng và sông Lô.
Tuy nhiên không gì được thực hiện. Bởi vậy
năm 1833, vua Minh Mạng quyết định cải
cách toàn bộ việc quản lý đê điều. Nhà vua

giải tán bộ phận chuyên biệt được lập ra sáu
năm trước và giao lại quyền cho quan lại tỉnh
(bộ Công) có trách nhiệm quản lý khúc sông
đi qua địa phận tỉnh mình. Việc phục hồi
toàn bộ quyền này được lý giải bằng nhận
định sau : kinh nghiệm cho thấy các quan lại
chuyên biệt chỉ tập trung vào các công trình
đắp và tu bổ đê điều mà không phải quan
tâm đến các hoạt động nông nghiệp, và nhất
là không phải lo về khả năng tạo kênh rạch
thoát nước hay cấp nước.
Năm 1862, bộ phận đê điều một lần nữa lại
bị giải tán và chính sách các công trình thủy
lợi lớn bị dừng lại. Vua giải thích là do vấn đề
tài chính nhưng nguyên nhân chủ yếu là do
những rối loạn nghiêm trọng mà các đạo
quân cướp bóc Trung Hoa gây ra ở miền Bắc
và do sự can thiệp của thực dân Pháp ở miền
Trung và miền Nam.
Tóm lại, cho dù có một kế hoạch tổng thể ấn
tượng, chính sách thủy lợi của nhà Nguyễn
vẫn là một chính sách không nhất quán và
thiếu tính liên tục, cho thấy độ quan trọng
của những quyết định đơn phương và sự bất
ổn nghiêm trọng của bộ máy quan lại.
Cuộc tranh luận vào năm 1803 về tính hữu
ích của việc duy trì hệ thống đê điều là một
minh chứng.

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


[ 55 ]


Thảo luận xung quanh tính hữu ích của
việc tu bổ và gia cố đê điều
Việc liên tiếp thực hiện tái tổ chức hành chính
và kỹ thuật này phải được đặt lại trong bối cảnh
một cuộc tranh luận về nội dung trong đó các
thuật ngữ được vua Gia Long đặt ra ngay vào
năm 1803 : bằng chỉ dụ, vua ra lệnh cho quan
lại và dân chúng phải tranh luận về tính hữu
ích của việc giữ lại hay san phẳng hệ thống
đê điều. Quả vậy, khi hệ thống đê chính và đê
quai ngày càng dày đặc, nông dân và quan lại
bắt đầu nhận thấy sự bất tiện khi tiến hành
tưới tiêu cho các cánh đồng lúa tại đồng bằng
sông Hồng. Họ đau lòng khi nhìn thấy sông
Hồng cuồn cuộn chảy trong khi lúa khô cong
trên các cánh đồng. Vì vậy, cuốn Mô tả Địa thế
của vua Đồng Khánh (1888) có ghi lại vấn đề
này tại tỉnh Sơn Tây : « Đất đai và nước của các
huyện ở vị trí thấp sạch hơn, giống với đất đai và
nước của các tỉnh miền Đông Nam. Các cơn mưa
lớn từ độ cao các tỉnh lân cận Hưng Hóa và Tuyên
Quang đến trong vài tuần đan xen giữa mùa hè
và mùa thu ; các con sông vì thế chảy nhanh và
mực nước có thể đạt 18 hay 19 thước, trong khi
đó những cánh đồng phía bên kia triền đê đang
phải gánh chịu hạn hán ».

Một câu hỏi được đặt ra là liệu có hợp lý khi
san bằng những công trình vốn đắt đỏ và
nguy hiểm này để nước của các dòng sông
lớn có thể tràn vào mọi diện tích trên đồng
bằng như một trận lũ chậm, từ từ chứ không
phải như một trận đại hồng thủy. Từ đó độ
ẩm sẽ tăng cao giúp giải quyết vấn đề tưới
nước cho các cánh đồng, đồng thời tăng độ
màu mỡ của đất nhờ có phù sa bồi đắp. Nói
cách khác, vấn đề là phải xác định liệu đê điều
không phải là một liều thuốc chữa bệnh mà
tệ hơn thế, đó là một căn bệnh cần loại bỏ. Vì
vậy, sau mỗi trận lụt, nhân dân các vùng bị lụt
lại yêu cầu loại bỏ đê điều, như vào các năm
1804, 1825, 1835, 1847, 1872 và 1879. Nguyên

nhân chính khiến người dân yêu cầu loại bỏ
đê điều là do trong một trận lụt do vỡ đê ở
thượng nguồn, các vùng ở hạ nguồn không
bị lụt phải đối mặt với nước rút khi mực nước
sông xuống thấp, lấy đi toàn bộ hy vọng mùa
màng của người dân (Pouyanne, 1931).
Tuy nhiên, may mắn thay, không một vị vua
nào dưới thời nhà Nguyễn đi đến quyết định
phá bỏ đê điều trên quy mô toàn vùng đồng
bằng. Các giải pháp thay thế bổ sung nhằm
khắc phục những thiếu sót của hệ thống đê
điều giúp giải quyết vấn đề nan giải này.
Trước tiên người ta tìm cách hạ độ cao mặt
nước sông Hồng bằng cách tăng khả năng

tiêu nước của các cửa sông và tạo ra các
nhánh sông nhân tạo. Chính vì vậy, song
song với việc cải cách quản lý đê điều vào
năm 1833, vua Minh Mạng quyết định thành
lập các hội đồng bao gồm hai quan đặc biệt
phụ trách đào và nạo vét sông Cửu An, là con
sông cùng lúc được sử dụng như nhánh thoát
nước của sông Hồng ở độ cao của Hưng Yên
và là kênh tưới nước. Từ năm 1835 đến năm
1836, 20 km sông đã được đào để thiết lập
điểm giao giữa sông Hồng và sông Cửu An có
lòng sông được nạo vét và mở rộng trên hơn
40 km. Song song với việc đào đê này, các con
đê nằm trong vùng trũng của tỉnh Hưng Yên
được san bằng, độ cao các con đê được hạ
thấp nhiều khi đê không đơn thuần và đơn
giản nằm trên mặt đất (Đỗ Đức Hùng, 1998).
Ảnh hưởng của việc quy hoạch trên quy mô
lớn này trái ngược với kết quả mong đợi. Bốn
tháng sau khi công trình hoàn tất, vào tháng
sáu âm lịch năm 1836, nhà thơ nổi tiếng,
quan văn Nguyễn Công Trứ khi đó là Tổng
đốc Hải Yên, đã thông báo cho vua Minh
Mạng cửa sông Cửu An trên sông Hồng bị
vỡ tại ba điểm : tỉnh Hưng Yên và Hải Dương
chìm trong nước ở độ sâu 2 m và thành phố

[ 56 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD



Hưng Yên hoàn toàn bị ngập. Đây là trận lụt
khủng khiếp nhất mà hai tỉnh này từng trải
qua (Đỗ Đức Hùng, 1998). Nguyễn Công Trứ
chịu sự khiển trách nặng nề từ nhà vua, bị coi
là người chịu trách nhiệm về thảm họa này và
phải có nghĩa vụ khắc phục hậu quả. Từ năm
1837, nhiều công trình lớn tu bổ sông Cửu An
đã được thực hiện. Trước sự khẩn nài của dân
chúng các tỉnh bị lũ lụt tàn phá liên tiếp hàng
năm, cửa sông thượng lưu sông Cửu An hoàn

Bản đồ

4

toàn bị đóng lại và con sông này không còn
chức năng là kênh thoát nước để tháo nước từ
các vùng trũng của tỉnh Hưng Yên về phía hạ
lưu của sông Luộc là sông Đuống (Pouyanne,
1931). Không còn lựa chọn nào khác ngoài
việc xây dựng lại và gia cố hệ thống đê điều ở
các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và Nam Định,
một nhiệm vụ mà vua Thiệu Trị phải thực hiện
trong sáu năm ông trị vì (1841-1847).

Những công trình tu bổ lớn vào thế kỷ XIX nhằm hạ
mực nước sông Hồng

Nguồn : tác giả.


Tuy vậy, dù đã trải qua kinh nghiệm đau
thương này, vấn đề lại được vua Tự Đức đưa
ra tranh luận vào năm 1852 và lấy ý kiến đóng
góp về những việc phải làm đối với hệ thống
đê điều. Chính sự thiếu tin tưởng vào hệ

thống đê điều đã cho nhà vua ý tưởng phải
tiếp tục các công việc ngăn lũ ở đồng bằng
sông Hồng, bằng chứng là những ghi chú
bằng tay của nhà vua trong cuốn Đại Việt sử
ký bên lề đoạn ghi chép về việc xây dựng đê

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 57 ]


Đỉnh Nhĩ (xem phần trên) : « Đây là hành động
không suy nghĩ khiến chúng ta phải gánh chịu
thiên tai liên tục  », Tuy nhiên, sau năm năm
trì hoãn, cuối cùng chính những người ủng
hộ việc duy trì và gia cố hệ thống đê điều là
những người thắng cuộc, phần lớn những
quan lại triều đình đều thừa nhận là việc loại
bỏ một số con đê đã gây ra các trận lũ lụt ở
quy mô lớn và với tần suất chưa từng thấy
trong thập kỷ đó.
Sau khi tranh luận đã ngã ngũ, bộ phận đê
điều một lần nữa được tái thiết lập vào năm
1857. Vị quan Đê chính mới lập một danh

sách gồm 10 đề nghị cụ thể cũng như các
điểm ưu tiên liên quan đến các công việc
thủy lợi và quy chế chống lũ (Đỗ Đức Hùng,
1979). Trên cơ sở này và song song với việc
xây dựng các đê chính và đê quai mới trên
dòng sông Hồng để nước sông không tràn
bờ, các công việc nạo vét cũng được tiến
hành bằng việc sử dụng bừa do tàu thủy kéo
để tăng độ sâu cửa sông và như vậy cho phép
dòng chảy đầy biến động của sông chảy
nhanh hơn. Người ta cũng tìm cách chuyển
hướng một phần dòng chảy sông Hồng sang
sông Thái Bình để hạ mức nước và hạn chế sự
hung dữ của các cơn lũ. Vì vậy, năm 1858 vua
Tự Đức cho đào một nhánh mới đổ vào sông
Đuống ở hạ nguồn nhánh cũ bị tắc do phù
sa (Chassigneux, 1914). Tuy nhiên, năm 1862,
khi các công việc quy hoạch sông Đuống còn
đang dang dở, bộ phận đê điều một lần nữa
lại bị giải tán và chính sách về các công trình
thủy lợi tầm cỡ bị dừng nửa chừng. Lý do nhà
vua đưa ra là do các vấn đề tài chính và nhất
là do các rối loạn nghiêm trọng mà thực dân
Pháp gây ra tại miền Trung và Nam đất nước.
Đê công, đê tư
Sự tồn tại hai loại hình đê điều là một thực tế
lịch sử nằm trong chính quá trình chống lũ ở

đồng bằng sông Hồng. Vì vậy, vào năm 1665,
tháng 11 âm lịch, sách Cương mục ấn định

thời hạn tu bổ đê và tổng kết tình hình các
công việc khác nhau theo thứ tự tầm quan
trọng : « Vào tháng 10 âm lịch hàng năm, các
Thửa ty của mỗi xứ phải yêu cầu các quan ở các
quận trực thuộc tiến hành điều tra xác định các
điểm đê điều cần tu bổ. Những tu bổ nhỏ do dân
chúng các xã nơi bị lũ đe dọa thực hiện dưới sự
giám sát của quan lại cấp xứ ; các công trình lớn
do một viên quan được chỉ định điều hành. »
Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên hai loại hình đê
điều này được tách biệt dưới triều đại nhà
Nguyễn. Vì thế, trong cuộc điều tra tiến hành
năm 1829 tại bốn xứ ở đồng bằng sông Hồng
(xem phần sau), song song với việc kiểm kê
các công trình công cộng, quan Đê chính
Lê Đại Cương thống kê được 698 km đê tư
nhân và 16 cống thuộc hệ thống tư nhân này
(Đỗ Đức Hùng, 1979). Vào thời kỳ này, tỉ lệ đê
tư chiếm hơn 40% trong tổng số 1650 km
đê quy hoạch được kiểm kê tại năm xứ. Việc
phân chia thành hai loại hình đê điều này dựa
trên những tiêu chí nào ?
Đê công  
Hệ thống đê công do nhà nước phong kiến
thực hiện dưới sự điều hành của bộ máy quan
lại tỉnh hay bộ phận quan lại chuyên biệt tùy
vào từng thời kỳ. Hệ thống này được coi là
mang tính chiến lược vì nó bảo vệ các công
trình và con người, vỡ đê có thể gây ra lũ lụt
tại các thị trấn cấp huyện, các thị xã cấp tỉnh

và trên quy mô toàn tỉnh. Đây là những công
trình quan trọng nhất bao quanh bãi sông
Hồng và các nhánh sông hỗn loạn nhất. Việc
xây dựng và tu bổ vì thế đòi hỏi phải tuân thủ
chặt chẽ các quy chuẩn về kích thước và đầm
đất do Nhà nước ấn hành. Để huy động theo
định kỳ một số lượng lớn nhân công cần thiết
cho việc xây dựng các công trình hạ tầng cơ

[ 58 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


sở này, Nhà nước có hai biện pháp. Thứ nhất,
huy động dân làng thông qua một trong ba
nghĩa vụ bắt buộc phải phục tùng, lao động
công ích (do bộ luật Gia Long quy định là 60
ngày mỗi năm bằng cách đăng ký), buộc mỗi
thần dân phải tham gia vào công việc tập thể
do bộ máy quan lại chỉ định mà không được
trả công. Đối với các công trình lớn, hàng
nghìn, thậm chí hàng chục nghìn nông dân
được huy động, và thông thường có sự trợ
giúp của quân lính và biền binh. Vì vậy, vào
năm 1835 (tháng 10 âm lịch), trong bản báo
cáo trình nhà vua về việc đào sông Cửu An,
Nguyễn Công Trứ đưa ra những con số đầy
ấn tượng : « đào sông và đắp đê là những công
việc khó nhọc, vì vậy xin được tuyển 20 000 cu li
(trong đó 6000 cu li từ Nam Định, 4000 từ Hải
Dương, 3000 từ Hưng Yên, 3500 từ mỗi tỉnh lân

cận Hà Nội và Bắc Ninh), công việc sẽ được khởi
động lại vào tháng giêng tới ». Việc tu bổ các
đoạn đê bị hỏng hay vỡ cũng đòi hỏi một số
lượng lớn lao động như trong bản báo cáo
của Tổng đốc Hà Nội – Ninh Bình, Đoàn Văn
Trường : « 4000 cu li đã được huy động để sửa
chữa các đoạn đê bị vỡ ở các huyện trong tỉnh là
Chương Đức, Hoài An, Thanh Liêm ».
Biện pháp thứ hai cho phép trả công cho
người lao động (bằng tiền và gạo) dưới hình
thức làm khoán. Trả công người lao động là
biện pháp cần thiết vì số lượng nhân công
huy động trong vài tháng mùa khô từ vụ gặt
tháng thứ mười trong năm đến những con
lũ đầu tiên vào mùa xuân là rất lớn. Vì vậy,
năm 1809, để đắp được những con đê mới
ở miền Bắc (Bắc Thành), các viên quan Đặng
Trần Thường và Nguyễn Khắc Thiệu xin vua
Gia Long : «Các con đê ở tỉnh Sơn Tây, Kinh Bắc,
Sơn Nam thượng bị sạt lở, cần cho đắp ba đoạn
đê mới và gia cố hai đoạn đê cũ bằng việc sử
dụng nhân công tuyển dụng. Với các đoạn đê
khác có dòng chảy không quá mạnh và đê vẫn

chịu được, nhân công địa phương sẽ được huy
động cho việc tu bổ đê. Nhà vua đồng ý ». Dễ
hiểu khi sự kết hợp hai cách thức huy động
nhân công này là nguyên nhân gây xung
đột giữa các nguồn tài chính nhà nước dành
cho việc đắp đê và tu bổ đê điều và thực tế

sử dụng những nguồn này. Một số bản báo
cáo trình lên nhà vua ngoài việc trình bày rõ
sự miễn cưỡng của nông dân khi phải tham
gia lao động cũng có đề cập việc các quan
lại địa phương biển thủ tiền Nhà nước cấp
để trả công cho người lao động bằng việc
bắt dân chúng tham gia đóng góp tiền bạc
hoặc tham gia lao động công ích. Vì vậy,
một mặt khen ngợi việc xây dựng và gia cố
nhanh chóng đê sông Cửu An, hoàn thành
năm 1837, bằng việc thưởng tiền cho quan
lại, thân hào và nhân dân, mặt khác, vua Minh
Mạng cũng nhắc không được nhầm lẫn giữa
hai nguồn nhân công, một nguồn nhân công
được trả công và một nguồn nhân công do
huy động lao động công ích. Tiền cấp cho
dân địa phương là tiền thưởng chứ không
phải là tiền công.
Nếu như nỗ lực tài chính huy động trong thế
kỷ XIX có sự khác nhau tùy vào mỗi triều vua
và chính sách liên quan đến các công trình
thủy lợi tầm cỡ, đầu tư trong lĩnh vực này
chưa bao giờ bị phản đối cho dù các công
trình đê điều thường xuyên bị phá hủy dẫn
đến các cuộc tranh luận về tính hữu ích của
chúng. Ở đoạn trích sau trong bộ sử biên niên
thời Minh Mạng, nhà vua nhắc lại tầm quan
trọng của việc đóng góp tài chính của Nhà
nước, và từ đó, chỉ trích gay gắt quan lại các
tỉnh Sơn Tây, Sơn Nam và Nam Định sau sự

cố vỡ đê hàng loạt và lũ lụt trầm trọng : « Đê
điều rất quan trọng đối với nhân dân trong tỉnh
của các khanh. Các khanh thấy rõ rằng triều
đình không hề hà tiện, bởi vì hàng năm triều
đình cấp cho các khanh 100 000 quan tiền, và

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 59 ]


các quyền lợi về vật chất để đảm bảo đê điều
được tu bổ tốt. […] Tại sao các khanh không có
các biện pháp dự phòng để phòng tránh những
thảm họa như vậy  ? Khi con nước ngày càng
hung dữ, tại sao các khanh không có các biện
pháp phòng bị mới ? […] Điều này cho thấy các
khanh rất lơi là chủ quan ».
Đê tư
Theo mặc định, đê tư được coi như là đê phụ
và kém tính chiến lược hơn, vì đê tư được
đắp trên các đoạn dòng chảy con nước ổn
định và đều đặn, lũ có thể xảy ra hay sự tràn
bờ sông chỉ ảnh hưởng đến nhà dân và các
vùng lãnh thổ hạn hẹp. Vì vậy dựa trên kinh
nghiệm, Nhà nước phân biệt giữa lĩnh vực
công và lĩnh vực tư, có nghĩa là có sự phân
bổ công việc và trách nhiệm theo khả năng
tài chính ở từng thời điểm và tùy thuộc các
ưu tiên trong chính sách cai trị của triều đình

nói chung và quản lý hệ thống thủy lợi nói
riêng. Các công trình tư được các cộng đồng
nông dân thực hiện và tự chi trả tài chính sau
khi họ nhận được sự đồng ý của nhà vua[3],
đây là điểm mấu chốt vì theo chế độ sở hữu
đất đai, Nhà nước là chủ sở hữu hợp pháp
duy nhất và vĩnh viễn, người nông dân chỉ là
những người được nhượng quyền với quyền
sử dụng có điều kiện tùy thuộc vào giá trị đất
và việc đóng thuế.
Mối liên hệ giữa hai hệ thống đê biến đổi
tùy thuộc sự thay đổi trong việc phân chia
trách nhiệm đê điều, và cuối cùng phản ánh
khá chính xác mối liên hệ mà các vị vua triều
Nguyễn kế tiếp nhau duy trì với lực lượng
chống lũ tại các con sông chính ở đồng bằng
sông Hồng. Vì vậy, việc giải tán bộ phận đê
điều năm 1833 và tìm kiếm các giải pháp
phòng lũ thay thế, chủ yếu thông qua các

công trình cho phép chuyển hướng nước
sông Hồng sang sông Cửu An, trùng hợp với
việc Nhà nước từ bỏ các đặc quyền tối cao
của mình về quản lý hệ thống thủy lợi và giao
phó tạm thời trách nhiệm này cho các cộng
đồng nông dân (Đỗ Đức Hùng, 1998).
Các công trình do địa phương thực hiện có
thể có quy mô khiêm tốn và chỉ liên quan đến
dân cư một làng riêng biệt hay một xã, đúng
như những gì mà một số tấm bia làng ghi lại.

Tấm bia phường Hồ Khẩu được lưu giữ trong
chùa Chúc Thánh, có niên đại năm 1858 (Tự
Đức thứ 11), giải thích rằng những công việc
tu bổ đê liên tiếp sau khi vỡ đê cần rất nhiều
tiền và phải cầu viện đến sự cung tiến của các
cá nhân.  « Đoạn đê nằm trong phường Quảng
Bố đã bị vỡ, nước xâm chiếm phường Hồ Khẩu,
người dân phải tu bổ đoạn đê, vì chi phí tu bổ
rất cao, phải cầu viện lòng hảo tâm của các cá
nhân. Bà Nguyễn Thị Vạn đã tặng 30 quan tiền
và xin sau này được tổ chức giỗ ở chùa Chúc
Thánh. Nhân dân trong phường đã lập một
tấm bia để ghi nhớ ơn bà và quy định tổ chức
giỗ bà. »
Nhưng các công trình do dân làng xây đắp
đôi khi có quy mô lớn nên phải có sự can
thiệp của Nhà nước. Sự tồn tại của những
công trình này gián tiếp cho thấy sự yếu kém
và khó khăn của Nhà nước trong việc quản lý
tổng thể hệ thống thủy lợi đồng bằng sông
Hồng, và cũng từ đó cho thấy khả năng tự
tổ chức theo địa phương của dân chúng để
xây dựng các công trình vì lợi ích tập thể. Đây
là một thực tế vào thời kỳ đầu triều đại nhà
Nguyễn, ví dụ là vùng Mĩ Lương - Yên Sơn
(nay là các huyện Chương Mỹ và Quốc Oai,
tỉnh Hà Tây) đắp đê Thập Cửu dài 50 km (chân
đê rộng 3,1 m, cao 2,30 m), để bảo vệ vùng

[3]Điều 389 (Mục I) của bộ luật Gia Long có tiêu đề « xây dựng không phép », giải thích rõ các công trình chỉ được phép

thực hiện sau khi có sự phê chuẩn của nhà vua là người quy định giá trị tiền trả cho người lao dịch – theo như tài liệu
đã dẫn.

[ 60 ] Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD


đất nông nghiệp rộng 8000 mẫu (2890 ha).
Ấn tượng là đê chỉ do người dân của một
nhóm gồm 19 xã đắp từ năm 1808 đến 1812,
và đã cho ra đời bản khoán ước quy định rất
chi tiết trách nhiệm của từng xã trong việc coi
đê, bảo vệ đê và tu bổ đê (chăn thả trâu, trồng
tre, ...). Do đê có quy mô lớn, ngay sau khi
hoàn thành, công trình được đặt dưới trách
nhiệm quản lý của Nhà nước thông qua chỉ
dụ triều đình, công trình hoàn toàn trở thành
công trình công mà Nhà nước không tốn lấy
một đồng trinh ! (Huy Vũ, 1978).
Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng tính
thụ động và sự chờ đợi hưởng lợi của chính
quyền Nhà nước trong trường hợp đê Thập
Cửu không phải là phổ biến, số lượng lớn các
đơn xin phép xây dựng công trình được ghi
lại trong biên niên sử được cho phép đều
có kèm theo hỗ trợ tài chính của Nhà nước :
«  một con đê mới được đắp ở xã Mai Xá, tỉnh
Nam Định (có chiều dài hơn 200 trượng). Tất cả
nhân dân trong xã đều thể hiện mong muốn
được đắp đê. Các quan lại cấp tỉnh đã tâu trình
lên nhà vua, nhà vua đã khen ngợi và cho phép

thực hiện. Sau khi hoàn thành, dân xã đã được
thưởng 5000 quan tiền ».
Nói cách khác, để khuyến khích các sáng kiến
từ địa phương, nhà vua có thể cho phép miễn
hoàn toàn hay miễn một phần thuế trong
vòng ba năm, huy động binh lính hỗ trợ nhân
dân, cấp thưởng và vinh danh các vị thân hào
và nông dân xứng đáng, và đền bù cho các
chủ có ruộng lúa nằm trong vùng xây dựng
công trình hoặc có đất phục vụ cho xây dựng.
Tưới nước và chinh phục bãi bồi ven biển :
những con đê đầu tiên có tính toán
Nếu như các vị vua triều Nguyễn kế vị nhau
luôn quan tâm trước nhất đến các công trình
ngăn lũ sông Hồng, thì họ cũng là những

người mang đến sáng kiến cải tiến kỹ thuật
trong thủy lợi phục vụ nông nghiệp.
Chinh phục các bãi bồi ven biển và mũi nhô
Công trình đầu tiên là cuộc chinh phục các
bãi bồi ven biển và mũi nhô. Đây không phải
là một canh tân của thế kỷ XIX vì các nguồn
tư liệu lịch sử đã từng ghi nhận cuộc chinh
phục bãi bồi ven biển từ thế kỷ XIII, thậm chí
đây có thể là nguồn gốc ra đời của những
công trình ngăn lũ đầu tiên được xây dựng ở
đồng bằng sông Hồng nếu dựa theo tư liệu
của một số tác giả. Cũng vậy, theo J. Gauthier
« những con đê đầu tiên ở Bắc Kỳ có thể là các bờ
kè ven biển, hỗ trợ cho vòng bảo vệ bên ngoài là

các cồn cát ven biển » nhằm phát huy giá trị
của các mảnh đất hoang sơ nhưng màu mỡ,
được hình thành khi đồng bằng sông Hồng
tiếp tục mở rộng ra biển.
Điều mới lạ nằm trong việc hợp lý hóa chinh
phục bãi bồi ven biển bằng cách đắp đê
ngăn các phần đất tạm thời nhô lên khỏi
mặt nước cho phép di dân trên quy mô lớn.
Kinh nghiệm đầu tiên và chính yếu trong
việc chinh phục bãi bồi ven biển chính là
các bãi bồi ven biển tỉnh Thái Bình và Ninh
Bình vào năm 1828. Công trình được thực
hiện dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Công Trứ
đã tạo ra hai huyện duyên hải mới là Tiền Hải
và Kim Sơn vào năm 1829 : « Huyện Kim Sơn
được tạo lập và nằm kề với huyện Yên Khánh,
Ninh Bình. Nguyễn Công Trứ được phong chức
Dinh điền sứ (vị quan chịu trách nhiệm phát
huy giá trị cho các vùng đất hoang sơ), ở phía
ngoài đê Hồng Lĩnh, diện tích những thửa đất
hoang sơ đo được tương đương 14 620 mẫu
(1mẫu=3600m2) được phân chia cho hơn 1260
dân nghèo. Trên diện tích này đã hình thành
3 ngôi làng, 22 ấp, 24 trại và 4 giáp, được chia
thành 5 tổng, người ta đã xin phép thành lập ở
đây một huyện lấy tên là Kim Sơn và một người

Tháng 07 năm 2013 / Khóa học Tam Đảo 2012 / © AFD

[ 61 ]



×