Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận luật hợp đồng chủ đề các biện pháp đảm bảo trong luật hợp đồng UEL 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.39 KB, 38 trang )

[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

Môn: Luật hợp đồng

CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG
BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

1
1


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

MỤC LỤC

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

2
2



[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

I. Khái ni ệm và đặ c đi ểm c ủa các bi ện pháp đả m b ảo
1.1 Khái niệm
Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp trong đó một bên sử dụng
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình hoặc sử dụng uy tín của mình (gọi là bên bảo đảm) để
bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể mình hoặc của chủ thể khác (gọi là
bên bảo đảm).

1.2 Đặc điểm
Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cho phép các chủ thể trong giao dịch dân sự đặt ra
các biện pháp để đảm bảo cho một nghĩa vụ dân sự chính được thực hiện, đồng thời xác
định và bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên trong các biện pháp đó.
Hiểu theo một cách khác, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là việc thỏa thuận giữa các
bên nhằm qua đó đặt ra các biện pháp tác động mang tính chất dự phòng để bảo đảm cho
việc thực hiện nghĩa vụ, đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.
Phụ thuộc vào nội dung, tính chất của từng quan hệ nghĩa vụ mà mỗi biện pháp bảo đảm
mang một đặc điểm riêng biệt. Tuy nhiên, tất cả các biện pháp bảo đảm đều có các đặc điểm
chung sau đây:


Các biện pháp bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính.

Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ: khi có quan hệ nghĩa vụ chính thì các bên mới cùng nhau
thiết lập một biện pháp bảo đảm. Nghĩa là việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không tồn tại
một cách độc lập.



Các biện pháp bảo đảm đều có mục đích nâng cao trách nhiệm của các bên
trong quan hệ nghĩa vụ dân sự.
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

3
3


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

Thông thường, khi đặt ra biện pháp bảo đảm, các bên hướng tới mục đích nâng cao
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp,
các bên còn hướng tới mục đích nâng cao trách nhiệm trong giao kết hợp đồng của cả hai
bên.


Đối tượng của các biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất

Lợi ích vật chất là đối tượng của các biện pháp bảo đảm thường là một tài sản. Các đối
tượng này phải có đủ các yếu tố mà pháp luật đã yêu cầu đối với một đối tượng của nghĩa
vụ dân sự nói chung.


Phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm không được vượt quá phạm vi
nghĩa vụ đã được xác định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ chính.


Khoản 1, điều 293 BLDS 2015 quy định: “Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần
hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận và
pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể
cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại.”


Các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa vụ

Cho dù các bên đã đặt lại ra một biện pháp bảo đảm bên cạnh một nghĩa vụ chính nhưng
vẫn không cần phải áp dụng biện pháp bảo đảm đó nếu nghĩa vụ chính đã được thực hiện
một cách đầy đủ.


Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được xác lập từ sự thỏa thuận giữa
các bên.

Các bên tự thỏa thuận về việc lựa chọn biện pháp bảo đảm nào để bảo đảm việc thực
hiện nghĩa vụ, đồng thời cách thức và toàn bộ nội dung của một biện pháp bảo đảm đều là
kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên.

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

4
4


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG


II. Các bi ện pháp đả m b ảo trong B ộ lu ật Dân s ự Vi ệt Nam
2.1 Các biện pháp đảm bảo trog Bộ lu ật Dân s ự
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được sử dụng từ khá lâu trong đời sống
thực tiễn nhưng chủ yếu phát huy tác dụng trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng. Từ thực tiễn
này, hiện tại ở Việt Nam tồn tại song song hai hệ thống các quy định về giao dịch bảo đảm,
hệ thống các quy định về giao dịch bảo đảm nói chung áp dụng với tất cả các giao dịch dân
sự và hệ thống các biện pháp bảo đảm áp dụng tại các tổ chức tín dụng. Trong đó tập hợp
các quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) về giao dịch bảo đảm giữ vai trò làm nền tảng cơ
bản, trên cơ sở này, với những đặc thù riêng của lĩnh vực ngân hàng, có các quy định riêng
cho lĩnh vực này.
Các quan điểm cơ bản khi xây dựng BLDS 2015 cũng được cụ thể hóa rõ nét trong
các quy định về các BPBĐ, trong đó nổi bật quan điểm: “Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của các cá nhân, pháp nhân, đặc biệt
là trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của bên yếu thế, bên thiện chí trong quan hệ dân sự; hạn
chế đến mức tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm
dứt các quan hệ dân sự, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự thông thoáng, ổn định trong giao dịch dân sự”.
BLDS 2015 là luật chung của hệ thống pháp luật dân sự. Vì vậy, các quy định về các BPBĐ
trong BLDS 2015 cũng là những quy định chung của pháp luật về các BPBĐ. Pháp luật về
các BPBĐ được hiểu là bao gồm tất cả các quy định về BPBĐ trong hệ thống pháp luật, có
thể được quy định trong rất nhiều lĩnh vực như pháp luật về đất đai (thế chấp quyền sử dụng
đất), trong pháp luật về nhà ở (thế chấp nhà ở), trong pháp luật về hàng không (thế chấp tàu
bay), pháp luật về hàng hải (thế chấp tàu biển) v.v…, trong đó các quy định về BPBĐ trong
BLDS 2015 là các quy định chung và trong mỗi lĩnh vực pháp luật chuyên ngành có thể có
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

5

5


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

các quy định riêng khác với các quy định chung, nhưng không được trái với các nguyên tắc
cơ bản trong BLDS 2015.
Có thể khẳng định, BLDS 2015 đã thể hiện sâu sắc quyền tự do thỏa thuận của các
bên trong việc xác lập, thực hiện, sửa đổi, bổ sung và chấm dứt BPBĐ, kể cả khi xác định
thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp xử lý tài sản bảo đảm. Các bên được thỏa thuận
lựa chọn BPBĐ phù hợp, thỏa thuận về loại tài sản hiện có hoặc hình thành trong tương lai
dùng để bảo đảm, phạm vi bảo đảm lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được
bảo đảm; thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm ...
2.1.1 Ký quỹ
Ký quỹ là một trong những biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự, bồi
thường thiệt hại cho bên có quyền khi bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Được quy định tại điều 360 Bộ luật dân sự 2005 về ký quỹ như sau: “1. Ký
quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc giấy tờ có giá
khác vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân
sự.”
Với biện pháp ký quỹ 2 bên có thể mở một tài khoản tại ngân hàng nhưng không
được dùng tài khoản khi chưa chấm dứt hợp đồng. Mặc dù vẫn là chủ của tài khoản đó
nhưng bên có nghĩa vụ không được thực hiện bất kỳ một giao dịch rút tiền nào từ tài khoản
đó bởi số tài khoản ký quỹ đó được xác định để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trước bên
có quyền.
Tài sản dùng để ký quỹ cũng tương tự như tài sản dùng để đặt cọc, ký cược đó là
tiền, kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá được bằng tiền. Khác với cầm cố tài sản đối với ký
quỹ, quyền tài sản không thể được dùng để ký quỹ.


[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

6
6


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

Trong khi đặt cọc và ký cược thì tài sản bảo đảm được giao cho bên nhận bảo đảm
còn đối với ký quỹ, tài sản không được giao cho bên nhận bảo đảm. Việc ký quỹ có thể
được thực hiện trước khi xác định được bên có quyền. Hướng dẫn về giao dịch bảo đảm ký
quỹ, Điều 34 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định: Tài sản ký quỹ theo quy định tại khoản
1 Điều 360 Bộ luật Dân sự được gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng thương mại để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bên ký quỹ có thể thực hiện việc ký quỹ tài sản một lần
hoặc nhiều lần tùy theo thỏa thuận của các bên hoặc pháp luật quy định.
Theo Nghị định 83/2010/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm, điều 3 liệt kê các
giao dịch bảo đảm yêu cầu phải đăng ký không liệt kê biện pháp bảo đảm ký quỹ, vì vậy ký
quỹ là giao dịch bảo đảm không bắt buộc phải đăng ký nếu không có yêu cầu của các bên,
vẫn có hiệu lực nếu các bên tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.
Mục đích: Trong ký quỹ bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ cam kết bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự, bên nhận bảo đảm là bên có quyền được ngân hàng thanh toán bồi thường
thiệt hại khi bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.
Hậu quả pháp lý : Điều 37 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định về nghĩa vụ của
bên ký quỹ như sau:
“Nghĩa vụ của bên ký quỹ
1. Thực hiện ký quỹ tại ngân hàng mà bên có quyền được ngân hàng thanh toán, bồi
thường thiệt hại chỉ định hoặc chấp nhận.

2. Nộp đủ tài sản ký quỹ theo đúng thoả thuận với bên có quyền được ngân hàng
thanh toán, bồi thường thiệt hại.
3. Thoả thuận với ngân hàng nơi ký quỹ về điều kiện thanh toán theo đúng cam kết
với bên có quyền được ngân hàng thanh toán, bồi thường thiệt hại.”
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

7
7


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

2.1.2 Ký cược
Ký cược là một trong những biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự. khoản 1 Điều 359,
Bộ luật dân sự 2005 quy định: “ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên
thuê một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản
ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê”.
Nội dung: Biện pháp này được áp dụng để đảm bảo cho việc trả lại tài sản trong hợp
đồng thuê tài sản. Tài sản thuê có tính chất của động sản, có sự chuyển giao từ bên cho thuê
sang bên thuê. Ký cược cũng mang đặc tính có khả năng thanh khoản cao như: tiền, kim khí
quý, đá quý, các tài sản có giá trị khác. Giá trị của tài sản ký cược ít nhất phải tương đương
với giá trị tài sản thuê, vì nó bao gồm cả giá trị tài sản thuê và khoản tiền thuê để bồi thường
cho bên thuê nếu tài sản thuê không được trả lại. Do vậy, những biện pháp này cũng chủ yếu
được áp dụng đối với những hợp đồng thuê tài sản có giá trị nhỏ, hay việc sử dụng tài sản dễ
bị hư hỏng.
Mục đích: Ký cược có mục đích nhằm đảm bảo




Bên nhận ký cược lấy tiền thuê tài sản;
Bên ký cược lấy lại toàn bộ tài sản hay một phần giá trị tài sản cho thuê trong trường
hợp tài sản cho thuê không còn hoặc trong trường hợp bên thuê không trả lại tài sản
thuê.
Vì vậy khi ký cược, hai bên phải thoả thuận về thời hạn khi nào bên thuê phải giao

lại tài sản. Thời hạn ký cược là thời hạn cho thuê tài sản. Về hình thức ký cược, Bộ luật dân
sự 2005 không quy định phải được thành lập văn bản, do đó việc ký cược không nhất thiết
phải được thành lập văn bản mà có thể thoả thuận bằng miệng cũng có giá trị pháp lý. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng, đối với trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì văn bản ký

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

8
8


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

cược là chứng cứ để bên cho thuê tài sản thực hiện đăng ký chuyển quyền sở hữu tài sản ký
cược từ bên thuê sang bên cho thuê.
Hậu quả pháp lý đối với ký cược: Nếu đến hạn bên thuê trả lại tài sản thuê theo đúng
thoả thuận thì tài sản kí cược được trả lại cho bên thuê sau khi trừ tiền thuê; nếu đến hạn bên
thuê không trả lại tải sản thuê thì tài sản ký cược thuộc sở hữu của bên cho thuê. Khi đó bên
thuê phải có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để sang tên, chuyển quyền sở

hữu tài sản ký cược. Với hậu quả pháp lý như trên ta sẽ thấy rằng trong việc xử lý tài sản ký
cược có các trường hợp sau:


Bên thuê trả lại tài sản thuê. Khi bên thuê trả lại tài sản thì bên cho thuê phải trả lại
tài sản ký cược, nhưng được trừ tiền thuê chưa trả. Để thực hiện được việc trả lại tài
sản ký cược và tài sản thuê thì bên thuê phải có nghĩa vụ giữ gìn tài sản thuê và sử
dụng đúng mục đích đã thuê, đúng công dụng của tài sản đã thuê, và bên cho thuê
(bên nhận ký cược) có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản ký cược; không được khai
thác, sử dụng tài sản đó, không được xác lập giao dịch đối với tài sản ký cược, trừ
trường hợp bên ký cược đồng ý. Nếu bên ký cược không đồng ý cho bên nhận ký
cược sử dụng tài sản ký cược thì bên ký cược có quyền yêu cầu bên nhận ký cược
ngừng việc sử dụng tài sản ký cược, nêu do sử dụng tài sản ký cược có nguy cơ bị



mất giá trị hoặc giảm sút giá trị.
Bên thuê cố tình không trả lại tài sản thuê. Trường hợp bên thuê cố tình không trả lại
tài sản thuê thì bên cho thuê có thể yêu cầu toà án buộc bên thuê phải trả lại tài sản



thuê và việc trả tài sản thuê và tài sản ký cược được thực hiện cùng lúc.
Tài sản thuê không còn để trả lại vì lý do mất mát hay tiêu huỷ hoặc bị mất không
phải do lỗi cố ý của bên thuê. Trường hợp này tài sản ký cược thuộc về bên cho thuê
và khi đó chấm dứt nghĩa vụ của bên thuê đối với bên cho thuê. Nếu tài sản thuê hoặc
tài sản ký cược có sự thay đổi về giá trị theo bất cứ hướng nào thì các bên không có
yêu cầu thanh toán chênh lệnh.
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT

NAM

9
9


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

2.1.3 Cầm giữ tài sản
Theo quy định tại Điều 346 BLDS 2015 “Cầm giữ tài sản là việc bên có quyền (sau
đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ
được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ”. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, tài sản cầm giữ phải có mối “liên
quan mật thiết” với nghĩa vụ cần được bảo đảm bằng việc cầm giữ. Cầm giữ tài sản về bản
chất là một biện pháp gây sức ép với mục đích tự bảo vệ.
Tính chất bảo đảm của biện pháp này nằm ở việc nắm giữ tài sản (là nắm giữ tài sản
chứ không phải là nắm giữ quyền sở hữu tài sản). Do đó, việc xác lập biện pháp cầm giữ
được tiến hành một cách hết sức đơn giản cả trong luật Việt Nam lẫn ở trong luật Pháp, chỉ
bằng việc nắm giữ tài sản (không giao tài sản cho bên có nghĩa vụ). Đây là trường hợp duy
nhất theo quy định của luật Việt Nam hiện hành mà biện pháp bảo đảm không được xác lập
trên cơ sở thoả thuận của các bên (hay hợp đồng) mà được xác lập bằng các quy định của
pháp luật.
Việc cầm giữ tài sản tạo ra cho bên có quyền một số quyền đi kèm với các nghĩa vụ
nhất định. Ví dụ như các quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng song vụ, yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán chi phí cần thiết
cho việc bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ…. Tuy nhiên, bên cầm giữ không có quyền yêu
cầu xử lý tài sản cầm giữ để thực hiện quyền của mình. Đây chính là điểm làm nên sự khác
biệt của cầm giữ so với các biện pháp bảo đảm khác. Bên cầm giữ chỉ có quyền nắm giữ tài
sản (không giao tài sản), cũng cần nhấn mạng lần nữa rằng cầm giữ về mặt vật chất đối với

tài sản. Điều này cũng có nghĩa rằng tính chất bảo đảm còn tồn tại chừng nào tài sản còn
nằm trong tay của bên cầm giữ.

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

10
10


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

Có ý kiến cho rằng cầm giữ tài sản không phải là biện pháp bảo đảm. mà là hậu quả
pháp lý do pháp luật quy định khi xảy ra vi phạm trong một số hợp đồng nhất định, ví dụ:
hợp đồng gửi giữ tài sản, dịch vụ. Do đó, chế định này không xuất hiện ở điều 318 BLDS
2005 tại phần các biện pháp bảo đảm, mà chuyển vào phần thực hiện hợp đồng để áp dụng
cho các trường hợp pháp luật có quy định về cầm giữ tài sản.
Đây là các biện pháp còn có ý kiến khác nhau, do đó, cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ
hơn các nội dung cần điều chỉnh. Tuy nhiên, Cầm giữ có thể được coi là một biện pháp đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự vì: Mục đích của cầm giữ tài sản nhằm để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ (gây thiệt hại cho bên có quyền, một trong những biện pháp có thể góp phần hạn
chế thiệt hại, ngăn chặn rủi ro cho bên có quyền, tạo điều kiện cho bên có quyền bảo vệ
quyền lợi của mình):



Đối tượng của cầm giữ là là những lợi ích vật chất
Phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã được xác định trong nội dung




của quan hệ nghĩa vụ chính
Chỉ áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa vụ

2.1.4 Cầm cố tài sản
Cầm cố tài sản là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, cụ thể là biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay vốn.
Theo quy định tại điều 326 của Bộ luật dân sự 2005 thì: “Cầm cố tài sản là việc một
bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau
đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
Như vậy cầm cố tài sản là một giao dịch dân sự, theo đó bên cầm cố là bên có nghĩa
vụ hoặc là người thứ ba, phải giao cho bên nhận cầm cố là bên có quyền một hoặc một số tài
sản để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ với bên có quyền.
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

11
11


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

Cầm cố tài sản để bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay vốn là giao dịch dân sự
được giao kết giữa một bên là tổ chức tín dụng cho vay với chủ thể khác. Trong đó, bên
nhận cầm cố chính là tổ chức tín dụng cho vay. Bên cầm cố tài sản bảo đảm tiền vay thông
thường là bên vay, trong trường hợp này thì bên cầm cố đồng thời là bên có nghĩa vụ. Ngoài

ra, có nhiều trường hợp, bên cầm cố tài sản bảo đảm tiền vay là bên thứ ba, trong trường
hợp này thì bên cầm cố là người giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để đảm
bảo việc trả nợ của người khác cho bên cho vay.
Bất kể tài sản nào cũng có thể dùng để bảo đảm tiền vay nhưng phải thuộc sở hữu
của bên cầm cố. Như vậy, tài sản cầm cố là tài sản của bên vay nếu bên vay đồng thời là bên
cầm cố hoặc thuộc sở hữu của bên thứ ba nếu người thứ ba là người cầm cố để bảo đảm việc
thực hiện nghĩa vụ của người khác. Ngoài ra, tài sản cầm cố còn có thể là vận đơn, thẻ tiết
kiệm, giấy tờ có giá.
Theo điều 327 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Việc cầm cố tài sản phải được lập
thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng ghi trong hợp đồng chính”.
Theo quy định trên thì mọi trường hợp về cầm cố tài sản đều phải xác lập bằng hình
thức văn bản, việc cầm cố có thể lập thành một văn bản riêng hoặc được xác định trực tiếp
trong nội dung của hợp đồng tín dụng.Cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển
giao tài sản cho bên nhận cầm cố. Thời hạn cầm cố tài sản thường được các bên thỏa thuận
căn cứ vào thời hạn vay của hợp đồng tín dụng được đảm bảo bằng biện pháp cầm cố đó.
Trong trường hợp không có thỏa thuận thì thời hạn cầm cố tính từ thời điểm tài sản cầm cố
được chuyển giao cho bên nhận cầm cố cho đến khi nghĩa vụ trả nợ vay được hoàn thành
hoặc biện pháp cầm cố được chấm dứt theo các căn cứ khác.
2.1.5 Thế chấp tài sản

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

12
12


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG


Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở
hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi
là bên nhận thế chấp). Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao
cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Hiệu lực của thế chấp tài sản khi hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời điểm
giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác, thế chấp tài sản phát
sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
Nghĩa vụ của bên thế chấp về việc giao giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong
trường hợp các bên có thỏa thuận, trừ trường hợp luật có quy định khác. Bảo quản, giữ gìn
tài sản thế chấp. Áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục, kể cả phải ngừng việc khai
thác công dụng tài sản thế chấp nếu do việc khai thác đó mà tài sản thế chấp có nguy cơ mất
giá trị hoặc giảm sút giá trị. Khi tài sản thế chấp bị hư hỏng thì trong một thời gian hợp lý
bên thế chấp phải sửa chữa hoặc thay thế bằng tài sản khác có giá trị tương đương, trừ
trường hợp có thoả thuận khác. Cung cấp thông tin về thực trạng tài sản thế chấp cho bên
nhận thế chấp. Giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp để xử lý khi thuộc một trong các
trường hợp xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự. Thông báo
cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp, nếu có;
trường hợp không thông báo thì bên nhận thế chấp có quyền huỷ hợp đồng thế chấp tài sản
và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba
đối với tài sản thế chấp. Không được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, trừ
trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 321 của Bộ luật Dân sự.
Quyền của bên thế chấp được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản
thế chấp, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng là tài sản thế chấp theo thoả thuận. Đầu tư để
làm tăng giá trị của tài sản thế chấp. Nhận lại tài sản thế chấp do người thứ ba giữ và giấy tờ
liên quan đến tài sản thế chấp do bên nhận thế chấp giữ khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM


13
13


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. Được bán, thay thế, trao
đổi tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh
doanh. Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển
trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý hoặc theo quy định
của luật. Được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên
mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông
báo cho bên nhận thế chấp biết.
2.1.6 Đặt cọc
Đặt cọc là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một bên giao cho bên kia một khoản
tiền hoặc một tài sản có giá trị khác trong một thời hạn nhất định để bảo đảm cho việc giao
kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.
Tài sản mà một bên giao cho bên kia chỉ được coi là tài sản đặt cọc nếu trong văn bản
đặt cọc đã xác định là tài sản đặt cọc. Các trường hợp khác đều được coi là tiền trả trước,
ứng trước.
Mục đích nói chung của đặt cọc là “đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân
sự”. Tuy nhiên, trong từng trường hợp, cần phải xác định rõ mục đích của việc đặt cọc đó là
để đảm bảo việc giao kết hợp đồng hay đảm bảo việc thực hiện hợp đồng hay đảm bảo cho
cả hai.
Trong trường hợp việc đặt cọc có mục đích là đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng,
bên đặt cọc từ chối việc giao kết hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt
cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc
tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.


[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

14
14


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

Trong trường hợp việc đặt cọc có mục đích vừa đảm bảo việc giao kết hợp đồng, vừa
đảm bảo việc thực hiện hợp đồng thì khi hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài
sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu
bên đặt cọc từ chối việc giao kết hoặc không thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc
thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết hoặc không thực hiện
hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương
giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Khác với quy định của Bộ luật dân sự 2015 về đặt cọc, Bộ luật dân sự 2005 đã quy
định thỏa thuận đặt cọc phải được lập thành văn bản. Thỏa thuận đặt cọc có thể được thể
hiện bằng một văn bản riêng nhưng cũng có thể được thể hiện bằng một điều khoản trong
hợp đồng chính thức. Đối với đặt cọc nhằm giao kết hợp đồng thì việc đặt cọc phải được thể
hiện bằng văn bản riêng vì tại thời điểm giao kết thỏa thuận đặt cọc thì hợp đồng chưa được
hình thành. Bên cạnh đó, pháp luật cũng không quy định thỏa thuận đặt cọc bắt buộc phải
công chứng, chứng thực mà tùy vào sự thỏa thuận của các bên.
Như vậy, nếu hai bên chủ thể thỏa thuận đặt cọc vào thời điểm Bộ luật dân sự năm
2005 điều chỉnh thì thỏa thuận phải được lập thành văn bản, đối với thỏa thuận bằng miệng
thì sẽ không có giá trị pháp lý. Còn tại thời điểm Bộ luật dân sự năm 2015 điều chỉnh thì
thỏa thuận đặt cọc có thể xác lập bằng bất cứ hình thức nào, đây cũng là điểm mới mang

tính chất tích cực đối với pháp luật Việt Nam. Giao dịch dân sự được hình thành dựa trên sự
thỏa thuận, thiện chí, tin tưởng lẫn nhau nên pháp luật ngày càng hướng tới sự tự do trong
các cơ chế thỏa thuận, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội.
2.1.7 Bảo lưu quyền sở hữu

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

15
15


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

Bảo lưu quyền sở hữu là một trong số 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo
quy định của BLDS 2015 (Điều 292) và được mô tả cụ thể tại khoản 1 Điều 331 BLDS
2015:
“Trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến
khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ”. Bảo lưu quyền sở hữu không phải là một
vấn đề mới trong BLDS 2015, nội dung pháp lý này đã được quy định trong BLDS 2005
nhưng với tư cách là một điều khoản trong hợp đồng mua bán tài sản và tính chất “bảo đảm”
của biện pháp này gần như rất ít được biết đến trong thực tiễn, có lẽ vì thế nên việc sử dụng
điều khoản này để dự phòng cho việc không thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ khá hạn
chế trên thực tế. Nguyên nhân của tình trạng này một phần có lẽ là do vị trí được thiết kế
của quy định này trong BLDS 2005, bảo lưu quyền sở hữu được quy định với tư cách là một
nội dung của hợp đồng mua bán tài sản (Điều 461 BLDS 2005). Như vậy, trong bối cảnh áp
dụng BLDS 2005, bảo lưu quyền sở hữu mặc dù được quy định như một điều khoản đặc

biệt của hợp đồng mua bán tài sản, tuy nhiên trên thực tế lại có bản chất của một biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, cách thiết kế này giống như cách thiết kế của BLDS Pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của các bên:
Điều 332 BLDS 2015 có quy định về quyền đòi lại tài sản của bên bán. Bên bán
cũng đồng thời là bên bảo lưu quyền sở hữu. Do đó, trong trường hợp bên mua không hoàn
thành nghĩa vụ trả tiền thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Tức là hết thời hạn trả chậm, trả
dần mà bên mua không trả được hết hoặc cố tình không trả nốt tiền thì bên bán có quyền đòi
lại tài sản và hoàn trả số tiền mà bên mua đã trả trước đó tuy nhiên ác khoản hao mòn giá trị
tài sản do đã sử dụng bên mua phải chịu. Trong trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài
sản thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua bồi thường thiệt hại.
Tương ứng với quyền đòi lại của bên bán thì bên mua có nghĩa vụ chị rủi ro về tài
sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu (trừ trường hợp có thỏa thuận khác). Tức là trên
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

16
16


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

thực tế tài sản đã nằm trong tay bên mua nên bên mua có quyền sử dụng tài sản theo ý chí
của họ mà không cần thông báo cho bên bán, vì vậy khi có rủi ro xảy ra thì bên mua phải
chịu rủi ro khi mất hoặc hư hỏng tài sản và vẫn phải trả hết số tiền còn lại cho bên bán.
Ngoài ra, bên mua cũng có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn
bảo lưu quyền sở hữu. Cac quy định về quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản có biện pháp
bảo lưu quyền sở hữu được quy định tại Điều 333.
Các căn cứ chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu được quy định tại Điều 334 BLDS:



Thông thường khi bên mua thanh toán đầy đủ tiền mua thì có quyền sở hữu đối với

tài sản mua, khi đó biện pháp bảo lưu quyền sở hữu cũng chấm dứt.
• Trong trường hợp bên mua không hoàn thành hoặc cố tình không thực hiện nghĩa vụ
trả chậm thì bên bán sẽ xử lí tài sản bảo đảm và khi đó bảo lưu quyền sở hữu cũng
chấm dứt.
• Ngoài ra nếu các bên có thỏa thuận chấm dứt nghĩa vụ trả nợ như bên bán xóa nợ cho
bên mua số tiền chưa thanh toán còn lại thì biện pháp bảo đảm cũng chấm dứt.
2.1.8 Bảo lãnh
Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dự phòng do các bên tự thỏa thuận
trên cơ sở bình đẳng để bảo đảm lợi ích của bên có quyền. Khác với bảo đảm cầm cố, thế
chấp, ở đây biện pháp bảo lãnh xuất hiện thêm một chủ thể mới đó là chủ thể thứ ba có
quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Theo quy định tại điều 335 BLDS 2015
“…Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

17
17


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG


Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng.
Biện pháp bảo lãnh được phát sinh trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Trên thực tế thì
vấn đề bảo lãnh được nhắc đến nhiều trong bảo lãnh ngân hàng.
Hợp đồng bảo lãnh có thể được xem là hợp đồng phụ với mục đích để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ cho hợp đồng chính, thông thường thì hợp đồng phụ này sẽ được lập sau hợp
đồng chính. Ví dụ như: A vay tiền ngân hàng M hai tỷ đồng. A không có tài sản thế chấp. B
là người bảo lãnh cho A vay số tiền hai tỷ đồng đó. Nếu A không trả được nợ thì B sẽ trả nợ
cho ngân hàng thay cho A.
Đối với biện pháp bảo lãnh thì đối tượng chủ yếu là những lợi ích vật chất.
Bảo lãnh chỉ là biện pháp dự phòng nếu như hai bên ký kết hợp đồng hoặc thực hiện
giao dịch dân sự không thực hiện đúng nghĩa vụ, quyền trong hợp đồng mà hai bên đã thỏa
thuận.
Phạm vi bảo lãnh cũng giống như các biện pháp như cầm cố, thế chấp… là bảo lãnh
một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Bảo lãnh ở đây là một biện pháp mà người tiến hành bảo
lãnh không mong nhận được một khoản lợi ích nào cả mà chỉ dựa trên việc giúp lẫn đỡ
nhau. Biện pháp bảo lãnh nhằm giúp đỡ cho hai bên có thể ký kết hợp đồng mà khi đó một
trong hai bên chưa có đủ khả năng để trả nợ. Tuy nhiên vấn đề này tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì
vậy khi mà một bên nhận đứng ra bảo lãnh thì cần phải hiểu rõ bên mà mình sẽ bảo lãnh có
đủ năng lực tài chính để thanh toán sau khi vay không. Tránh trường hợp bên bảo lãnh bị
thiệt hại thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
2.1.9 Tín chấp

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

18
18



[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

Tín chấp là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy
định trong Bộ luật dân sự năm 2005. Sự góp mặt của các tổ chức chính trị – xã hội, sự tham
gia của các tổ chức tín dụng mà cụ thể là Ngân hàng chính sách xã hội và những hộ gia đình
nghèo là dấu hiệu rõ nhất để nhận biết biện pháp bảo đảm này. Ngày nay, tín chấp là biện
pháp bảo đảm được dùng khá phổ biến bởi lợi ích kinh tế – chính trị – xã hội mà nó mang
lại. Bài làm sau đây sẽ phân tích, làm rõ một số vấn đề về quy định bảo đảm bằng tín chấp
của tổ chức chính trị – xã hội trong Bộ luật dân sự năm 2005.
Việc cho vay có bảo đảm bằng tín chấp phải được lập thành văn bản có ghi rõ số tiền
vay, mục đích vay, thời hạn vay, lãi suất, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người vay,
ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay và tổ chức bảo đảm.
Hình thức của việc cho vay có bảo đảm bằng tín chấp phải được lập thành văn bản có
ghi rõ số tiền vay, mục đích, thời hạn vay, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Hợp đồng cho vay phải có xác nhận của tổ chức chính trị - xã hội về điều kiện, hoàn cảnh
của cá nhân, hộ gia điình nghèo khi vay vốn tại tổ chức tín dụng đó:
Theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ - CP được sửa đổi bổ sung bởi Nghị
định số 11/2012/NĐ- CP, trong hợp đồng này, tổ chức chính trị - xã hội có nghĩa vụ sau:


Xác nhận về điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân, hộ gia đình nghèo khi vay vốn tại tổ



chức tín dụng đó
Chủ động hoặc phối hợp chặt chẽ với tổ chức tín dụng giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều
kiện cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn

Mục đích của việc cho vay vốn có sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tín chấp của tổ

chức chính trị - xã hội đã thể hiện bản chất của Nhà Nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân:

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

19
19


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG


Thứ nhất: Trên thực tế, nhiều địa phương thực hiện việc bảo đảm bằng tín chấp một
cách dàn trải, đại trà. Với số vốn mà Ngân hàng chính sách xã hội thông báo cho vay
được chia đều cho từng hộ gia đình nghèo tại địa phương mà không tính đến hiệu quả
cũng như mục đích tốt đẹp của việc cho vay có bảo đảm bằng tín chấp. Song đây
cũng là mặt trái của một chính sách xã hội được thực hiện theo phương pháp " Cào

bằng dân chủ", hình thức chủ nghĩa.
• Thứ hai: Số tiền cho vay được bảo đảm bằng tín chấp quá nhỏ. Chính vì thề, đối với
hộ gia đình thực sự cần vốn để mua tư liệu sản xuất, hoặc đầu tư vào sản xuất, kinh


doanh thì lại không đủ vốn để thực hiện. Vì vậy, hiệu quả sử dụng vốn vay thấp.
Thứ ba: Bộ luật dân sự mới chỉ quy định việc tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở bảo

đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn, chứ không quy định việc
bảo đảm bằng uy tín của một cá nhân cho một cá nhân khác, hoặc cho chính bản thân
mình vay vốn.

2.2 Các chủ thể trong quan hệ bảo đảm
2.2.1 Bên bảo đảm
Bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba cam kết bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự, bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cược, bên ký quỹ, bên
bảo lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong trường hợp tín chấp.
2.2.2 Bên nhận bảo đảm
Bên nhận bảo đảm là Bên có quyền trong quan hệ dân sự mà việc thực hiện quyền đó
được bảo đảm bằng một hoặc nhiều giao dịch bảo đảm, bao gồm bên nhận cầm cố, bên nhận
thế chấp, bên nhận đặt cọc, bên nhận ký cược, bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng trong
trường hợp tín chấp và bên có quyền được ngân hàng thanh toán, bồi thường thiệt hại trong
trường hợp ký quỹ.

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

20
20


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

2.3 Hình thức bảo đảm trong B ộ Luật Dân S ự Vi ệt Nam
Hình thức của hợp đồng dân sự là cách thức biểu hiện ra bên ngoài của những nội
dung của nó dưới một dạng vật chất hữu hình nhất định. Theo đó, những điều khoản mà các

bên đã cam kết thỏa thuận phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định,
hay nói cách khác hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ
thể đã xác định. Tùy thuộc vào nội dung và tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy thuộc
vào uy tín, độ tin cậy lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định trong
việc giao kết hợp đồng tùy từng trường hợp cụ thể.
Điều 401 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 quy định về hình thức hợp đồng dân
sự như sau:
1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành
vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình
thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn
bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy
định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác".
Từ quy định trên có thể thấy hình thức của hợp đồng dân sự rất đa dạng, phong phú,
[4]

tựu trung lại thì hình thức của hợp đồng dân sự có mấy dạng sau đây:


Hình thức miệng (bằng lời nói): Thông qua hình thức này các bên chỉ cần thỏa
thuận miệng với nhau về những nội dung cơ bản của hợp đồng. Hình thức này
thường được áp dụng đối với những trường hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

21

21


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

hoặc các đối tác lâu năm hoặc là những hợp đồng mà sau khi giao kết, thực hiện sẽ
chấm dứt. Ví dụ bạn thân cho mượn tiền, hay đi mua đồ ở chợ….
• Hình thức viết (bằng văn bản): Các cam kết của các bên trong hợp đồng sẽ được
ghi nhận lại bằng một văn bản. Trong văn bản đó các bên phải ghi đầy đủ những nội
dung cơ bản của hợp đồng và cùng ký tên xác nhận vào văn bản, thông thường hợp
đồng được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản.
Căn cứ vào văn bản hợp đồng các bên dễ dàng thực hiện quyền của mình và thực
hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia vì vậy bản hợp đồng đó coi như là một bằng
chứng, chứng minh quyền dân sự của mình. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết
bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý vững chắc hơn so với hình thức miệng vì
vậy trong thực tế những giao dịch quan trọng, có giá trị lớn hoặc những giao dịch có tính
"nhạy cảm" đối với những đối tượng và người giao kết "nhạy cảm" thì nên thực hiện bằng
hình thức văn bản và tốt nhất là nên có công chứng nếu có điều kiện.


Hình thức có công chứng, chứng thực: Hình thức này áp dụng cho những hợp đồng
có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối tượng của hợp đồng là những tài
sản mà nhà nước quản lý, kiểm soát thì khi giao kết các bên phải lập thành văn bản
có Công chứng hoặc chứng thực của Cơ quan quản lý hành chính có thẩm quyền
trong lĩnh vực này. Hợp đồng được lập ra theo hình thức này có giá trị chứng cứ (để
chứng minh) cao nhất. Hợp đồng loại này có giá trị chứng cứ cao nhất chứ không
phải có giá trị cao nhất vì các hợp đồng được lập ra một cách hợp pháp thì đều có giá
trị pháp lý như nhau.


Ví dụ: Hợp đồng tặng cho bất động sản (Điều 467 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005) quy
định: "Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc
phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu. Hợp
đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao
tài sản".
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

22
22


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG


Hình thức khác: ngoài những hình thức nói trên, hợp đồng có thể thực hiện bằng các
hình thức khác như bằng các hành vi (ra hiệu, ra giấu bằng cử chỉ cơ thể…) miễn là
những hành vi đó phải chứa đựng thông tin cho bên kia hiểu và thoả thuận giao kết
trên thực tế.
Cần lưu ý là đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật bắt buộc phải giao kết theo

một hình thức nhất định (thông thường là hình thức văn bản có Công chứng, chứng thực) thì
các bên phải tuân theo những hình thức đó, ngoài ra thì các bên có thể tự do lựa chọn một
trong các hình thức nói trên để giao kết, tuy nhiên đối với những hợp đồng mà pháp luật
không yêu cầu phải lập theo hình thức văn bản có công chứng nhưng để quyền lợi của mình
được bảo đảm thì các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết hợp đồng.


2.4 Nghĩa vụ được đảm bảo trong Bộ Luật Dân Sự Việt Nam
2.4.1 Nghĩa vụ chuyển giao quyền
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mang tính chất dự phòng để bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do
việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ gây ra.
Theo quy định tại Điều 371 Bộ luật Dân sự năm 2015, chuyển giao nghĩa vụ dân sự
có biện pháp bảo đảm được quy định như sau: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm
được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Trường hợp nghĩa vụ được chuyển giao, các biện pháp bảo đảm xác lập nhằm bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ cũng đương nhiên chấm dứt, bởi vì
biện pháp bảo đảm đó là bảo đảm cho chính hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận. Bởi vì, việc chuyển giao nghĩa vụ cho bên thế nghĩa
vụ sẽ làm quan hệ nghĩa vụ ban đầu chấm dứt, bên thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ
trong quan hệ nghĩa vụ mới với bên có quyền. Mặt khác, việc chuyển giao nghĩa vụ phải có
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

23
23


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG

sự đồng ý của bên có quyền, khi đó bên có quyền tự lựa chọn rủi ro cho chính mình trong
việc chấp nhận bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ. Do đó, khi kèm theo biện pháp bảo đảm trong
quan hệ nghĩa vụ trước đó thì khi chuyển giao cho bên thứ ba biện pháp bảo đảm này phải
chấm dứt nếu không có sự thỏa thuận khác.
2.4.2 Nghĩa vụ chuyển giao tài sản


Bản chất các quyền tài sản là một dạng tài sản theo quy định của Điều 105 Bộ luật
Dân sự năm 2015. Khi nhìn nhận quyền tài sản với tư cách là đối tượng của giao dịch dân
sự, thì Bộ luật Dân sự năm 2015 phải xác định rõ các quyền tài sản nào có thể là đối tượng
của giao dịch dân sự (được phép chuyển giao), các quyền tài sản nào không thể trở thành
đối tượng của giao dịch dân sự (không được phép chuyển giao). Điều 115 Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Rõ
ràng, Bộ luật Bộ luật Dân sự năm 2015 không liệt kê những quyền tài sản nào được phép
chuyển giao là đối tượng của các giao dịch dân sự và những quyền tài sản nào không được
phép chuyển giao không thể là đối tượng của các giao dịch dân sự. Có hai vấn đề cần được
làm rõ ở đây: Thứ nhất, liệu tất cả các quyền tài sản đều có thể trở thành đối tượng của giao
dịch dân sự? Thứ hai, phải chăng chỉ có những quyền tài sản cụ thể được quy định trong Bộ
luật Dân sự năm 2015 hoặc trong các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự năm 2015
mới có thể là đối tượng của các giao dịch dân sự?
Trước đây, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các quyền tài sản được phép đem ra
bảo đảm là đối tượng của các giao dịch bảo đảm: “Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên
bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật
bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ
[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

24
24


[Type text]
LUẬT HỢP ĐỒNG – LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG


hợp đồng, quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên và các quyền tài sản
khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”
(Điều 322). Kế thừa khoản 3 Điều 379 Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 3 Điều 377 Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ là nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường
thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các nghĩa vụ
khác gắn liền với nhân thân không thể chuyển cho người khác được thì không được thay thế
bằng nghĩa vụ khác”. Hiểu rộng ra, quy định này chỉ hạn chế một số quyền tài sản không
được thay thế, chuyển giao trong các quan hệ nghĩa vụ như quyền yêu cầu cấp dưỡng,
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, uy tín và các quyền tài sản gắn
liền với nhân thân khác. Theo nguyên tắc, các chủ thể của pháp luật dân sự được làm bất kỳ
những gì luật không cấm, điều này đồng nghĩa với việc Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép
một số quyền tài sản khác được chuyển giao (là đối tượng của các giao dịch dân sự). Ví
dụ,quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống
cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm…
2.4.3 Nghĩa vụ trả tiền hoặc giấy tờ có giá
Về bản chất, bảo đảm tiền vay chỉ là một trong những biện pháp để đảm bảo
việc thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng chính, nó không phải là điều kiện bắt buộc,
dù có các biện pháp này hay không đều không ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của các bên, bên có nghĩa vụ vẫn phải nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ và
chịu các biện pháp xử lý về tài sản nếu vi phạm (phong tỏa tài khoản, niêm phong tài
sản, bị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác để
đảm bảo trả nợ, …). Tuy nhiên, để đồng thời đạt được hai mục đích: Phát triển thị
trường, khách hàng và bảo đảm an toàn đối với các khoản cho vay, thì việc áp dụng
các biện pháp này được xem như công cụ hiệu quả và an toàn đối với các ngân hàng.

[Type text]
CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM


25
25


×