Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

noi dung boi duong thuong xuyen 17 18

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.92 KB, 37 trang )

PHÒNG GD & ĐT TỪ SƠN
TRƯỜNG TH ĐÌNH BẢNG 1
CÁC NỘI DUNG BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
NĂM HỌC: 2017 – 2018
Họ và tên giáo viên: Nguyễn Thị Hoài Thu
Nhiệm vụ được giao: Giáo viên
Căn cứ thông tư số 26 /2012/TT- BGDĐT ngày 10/7/2012 của Bộ trưởng
BGD&ĐT về việc ban hành qui chế bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm
non, phổ thông và giáo dục thường xuyên.
Căn cứ thông tư số 32/2011/TT-BGD ĐT ngày 8 /8/2011của Bộ trưởng BGD
& ĐT về việc ban hành chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên tiểu
học.
Căn cứ vào công văn số 677/SGD&ĐT – GDTX ngày 8/06/2017 của Sở
giáo dục và đào tạo tỉnh Bắc Ninh về việc hướng dẫn triển khai công tác bồi
dưỡng thường xuyên năm học 2017 – 2018.
Căn cứ vào công văn số 79/PGD&ĐT ngày 10 / 07 / 2017 về việc hướng
dẫn,triển khai công tác bồi dưỡng thường xuyên năm học 2017 – 2018 .
Căn cứ vào nhiệm vụ trọng tâm năm học 2017 – 2018 của Sở GD & ĐT
Bắc Ninh và phòng GD & ĐT Từ Sơn.
Căn cứ vào kế hoạch BDTX của trường Tiểu học Đình Bảng 1 và kế hoạch
BDTX của cá nhân năm học 2017 – 2018, tôi xin báo cáo kết quả BDTX của cá
nhân như sau:

-1-


PHẦN I: NỘI DUNG BỒI DƯỠNG 1, 2
(Thời gian bồi dưỡng từ ngày 01/08/2016 đến ngày 30/09/2017)
Bồi dưỡng về thực hiện nhiệm vụ năm học bao gồm các đường lối, chính sách
phát triển giáo dục và giáo dục tiểu học của Bộ quy định năm học 2017 - 2018.
I. NHẬN THỨC:


1. Chương trình hành động của Bộ GD-ĐT thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 4-11-2013 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT; Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày
28-11-2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục
phổ thông; Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 27-3-2015 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ
thông. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, đánh giá học sinh nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và rèn luyện phương pháp tự học của các
em; tăng cường kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết
các vấn đề thực tiễn; đa dạng hóa các hình thức học tập, chú trọng các hoạt động
trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học của học sinh; đẩy mạnh ứng dụng
CNTT và truyền thông trong dạy - học. Đặc biệt cần tập trung phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý về năng lực xây dựng, thực hiện kế hoạch giáo dục
theo định hướng phát triển năng lực học sinh; năng lực đổi mới phương pháp
dạy học, kiểm tra đánh giá, tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo; đổi mới
sinh hoạt chuyên môn; nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp, của tổ
chức Đoàn, Hội, Đội, gia đình và cộng đồng trong việc quản lý, phối hợp giáo
dục toàn diện cho học sinh…
2. Thực hiện tốt nhiệm vụ năm học “Tiếp tục thực hiện đổi mới các
hình thức dạy học của giáo viên, phương pháp học và tự học của học sinh.
Giảm học sinh yếu các kỹ năng; tăng cường học sinh có năng khiếu; Tổ chức
các hoạt động trải nghiệm sáng tạo một cách phong phú”. Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện nhất là chất lượng đạo đức, văn hóa, pháp luật. Tiếp
tục củng cố vững chắc kết quả GDTH đúng độ tuổi. Tập trung mọi nguồn lực,
đầu tư xây dựng CSVC trường học, trường chuẩn quốc gia cải tạo cảnh quan nhà

-2-


trường. Hưởng ứng và thực hiện tốt các cuộc vận động trong ngành giáo dục;
Tiếp tục chỉ đạo thực hiện đổi mới đánh giá học sinh Tiểu học theo thông tư

22/2016/TT– BGD ĐT của Bộ GD & ĐT (Thông tư 22). Tiếp tục chỉ đạo đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng dạy và học Tiếng Anh, đây là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm nổi trội của cấp học trong năm học 2017 – 2018. Tiếp tục
điều chỉnh nội dung dạy học theo chương trìn giáo dục phổ thông hiện hành một
cách hợp lí. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD, tích cực
ứng dụng CNTT và đổi mới công tác quản lý giáo dục. Tiếp tục đẩy mạnh công
tác truyền thông tăng cường viết bài và đưa tin, bài viết về các hoạt động của
ngành, nhất là các gương người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến của cấp học
để lan tỏa, khích lệ các thầy cô giáo, các em học sinh phấn đấu vươn lên. Tiếp
tục xây dựng và quản lý môi trường giáo dục lành mạnh, dân chủ, an toàn, thân
thiện, chất lượng và bình đẳng.
3. Tiếp thu nội dung dạy học 4 tuần 0 với GDCN và 4 tuần làm quen
với chương trình VNEN.
* Hình thành các kĩ năng và động lực học tập trong chương trình
tuần 0: Đến với những tiết học đầu tiên tất cả đều mới mẻ, lạ lẫm đối với học
sinh lớp 1, cần biết rằng mọi thao tác, mọi tư thế, mọi cách nói năng, giao tiếp
(nhận việc, trả lời)… được hình thành trong giai đoạn này là hết sức quan trọng
vì nó rất bền vững và sẽ theo suốt các em trong cả cuộc đời học tập, công tác.
Những thao tác, những thói quen, những tư thế, tác phong đúng, đẹp sẽ rất có lợi
cho lâu dài và ngược lại. Bởi thế rèn luyện các thao tác, động hình, tư thế …
trong tuần 0 cần phải hết sức chuẩn mực, rõ ràng, dứt khoát (không sai, không
thừa, nhẹ nhàng nhưng không khoan nhượng).Để cho các buổi học đầu tiên
được diễn ra nhẹ nhàng, hấp dẫn mà hiệu quả, thực sự làm cho học sinh lớp 1
thấy “Đi học là hạnh phúc”, “Mỗi ngày đến trường náo nức một ngày vui” đòi
hỏi giáo viên lớp 1 phải đa dạng hóa việc tổ chức dạy học, đặc biệt cần coi
trọng việc tổ chức các trò chơi để củng cố kĩ năng. Giáo viên không chỉ cần đọc
kĩ cách tổ chức các trò chơi trong sách Thiết kế mà còn phải tìm hiểu nhiều trò
chơi khác, cải tiến luật chơi, cách chơi để học học sinh thường xuyên thấy mới

-3-



lạ, hứng thú (có thể vào mạng, đọc cuốn 100 trò chơi vận động, sưu tầm các trò
chơi dân gian). Đã là giáo viên tiểu học thì phải biết cách tiếp cận học sinh, tổ
chức trò chơi...
*4 tuần làm quen với chương trình VNEN:
1. Xây dựng tổ chức lớp học
2. Trang trí lớp học
Trang trí lớp học theo mô hình VNEN, đó là bước đầu thay đổi không
gian, tạo cho các em một cảm giác thay đổi ngay từ đầu cũng là tạo cho các em
một môi trường mới, gây nhiều hứng thú trong các hoạt động học tập. Cách thức
trang trí là bám theo chuẩn trang trí của mô hình VNEN. Các mảng trang trí
xung quanh lớp học phải là những công cụ học tập. Giáo viên phải biết khai thác
chúng trong các tiết học và trong những thời điểm các em hoạt động ở trường.
Ví dụ ở góc Thư viện – là tủ sách thân thiện của học sinh, giáo viên cần
bày trí bắt mắt, thu hút học sinh. Cần tổ chức cho học sinh phát huy tối đa vai trò
của nó. Hướng dẫn cho trưởng ban thư viện tổ chức cho các bạn đọc sách đầu
giờ học, giờ ra chơi. Một tháng nên giành một tiết sinh hoạt lớp để tổ chức đọc
sách, giới thiệu nội dung một vài câu chuyện hay các em được đọc, giới thiệu
sách hay để học sinh thêm tự tin và luyện rèn cách diễn đạt cho các em.

-4-


Góc thư viện cuối lớp

Một giờ đọc và giới thiệu sách ngoài trời.

-5-



Xây dựng bảng thi đua của các nhóm và cá nhân với phần thưởng là cờ
hoặc hoa thi đua. Đây là nơi phản ánh rõ nét và công khai kết quả học tập của
mỗi nhóm và cá nhân sau mỗi hoạt động học tập, mỗi giờ học hay mỗi tuần, mỗi
tháng học. Khi không còn điểm số thì mỗi lá cờ mỗi bông hoa là một cách động
viên cụ thể và hữu ích. Giáo viên tuyên dương học sinh kịp thời sẽ kích thích
tính tích cực, tính thi đua trong học tập và hoạt động giáo dục.
Nhịp cầu bè bạn với những phong thư cá nhân, là nơi tâm sự của các em
với nhau và của giáo viên với từng học sinh. Trong các tiết học, có thể thay đổi
hình thức liên hệ bằng việc tổ chức cho các em viết một vài dòng nói với bạn bè
nội dung liên quan của tiết học, như vậy cũng đã giúp các em xích lại gần nhau,
cũng là rèn cách viết văn cho các em rồi. Thỉnh thoảng giáo viên cũng viết một
vài điều cho các em để thay đổi cho hình thức nhận xét bằng lời bình thường
cũng là đã tạo cho các em một cảm giác mới và một cảm xúc lạ rồi. Có thể một
lời nhắc nhở bằng một mẫu thư nhỏ trong phong thư cá nhân sẽ có tác dụng hơn
một câu nhắc nhở trước lớp; có thể một lời động viên trong phong thư nhỏ sẽ
mang lại cho các em sự cảm động nhiều hơn một câu nói bình thường trước
lớp…

-6-


Hộp thư được trình bày theo từng nhóm nhỏ.
Tạo môi trường mới và mang tính giáo dục và thẫm mỹ. Ở khối lớp 2, 3
cũng đã phát huy tích cực các công cụ học tập từ các góc trang trí và việc sử
dụng các công cụ đó đã mang lạ hiệu quả thiết thực trong việc đổi mới phương
pháp dạy học.
2. Thành lập Hội đồng tự quản:
Hội đồng tự quản được thành lập ngay từ tuần đầu của năm học. Giáo
viên cần nắm bắt được những em học tốt và năng động để có hội ý trước khi tổ

chức bầu Hội đồng tự quản. Định hướng cho các em hiểu ứng cử là gì, để cử là
như thế nào. Nói cho các em hiểu vai trò của các ban, của Chủ tịch Hội đồng tự
quản, phó chủ tịch Hội đồng tự quản để tác động sự chủ động ứng cử nếu các
em có mong muốn làm một chức vụ gì. Cũng có thể cho các em xem một tiết
bầu hội đồng tự quản mẫu trên băng hình rồi nêu các câu hỏi để các em hiểu
được các hoạt động trong tiết bầu HĐTQ. Ví dụ như để các em nắm quy trình thì
có thể nêu các câu hỏi như: Vào đầu tiết, các con thấy các bạn làm gì? ( Văn
nghệ). Sau hoạt động đó thì các bạn làm gì nữa? …Để học sinh hiểu các hoạt
động thì giáo viên có thể đặt một số câu hỏi như: Trong hoạt động ứng cử: Hoạt
động giơ tay xin được vào Hội đồng tự quản gọi là hoạt động gì? Hoặc: Muốn
Ứng cử vào Hội đồng tự quản thì con cần làm gì? Con thích vào Hội đồng tự
quản thì con tham gia hoạt động nào trong tiết Bầu hội đồng tự quản? Sau khi
ứng cử vào hội đồng tự quản thì con cần làm gì để được các bạn tín nhiệm
mình? ….Hoạt động Bầu hội đồng tự quản có thể 2 tháng thì tổ chức một lần.
Lần đầu có thể giáo viên hướng dẫn kĩ, cho xem băng hình nhưng những lần sau
giáo viên chỉ cung cấp lại quy trình và nên để các em tự tổ chức để các em cũng
được một lần rèn kĩ năng diễn đạt.
Ở lớp tôi triển khai mới chỉ hai lần bầu Hội đồng tự quản, nhưng từ lần thứ hai,
tôi đã nhìn nhận thấy sự trưởng thành nhanh chóng của các em, sự tự tin của các
em đang càng ngày càng lớn lên sau mỗi tháng tham gia hoạt động giáo dục mới
Phát huy vai trò của các nhóm trưởng và các trưởng ban

-7-


Trước khi vào hoạt động, ngay từ đầu năm giáo viên cần có kế hoạch bồi
dưỡng kĩ năng làm việc cho các nhóm trưởng và các trưởng ban. Đối với mô
hình dạy học VNEN thì vai trò của nhóm trưởng và các trưởng ban có tính quyết
định đến sự thành công của quá trình thực hiện các hoạt động học tập. Vì là
nhiệm vụ mới mẻ và cũng là khó khăn đối với đối tượng học sinh nhỏ, nên giáo

viên có thể áp dụng phối hợp nhiều hình thức: Đầu tiên giáo viên đánh máy
nhiệm vụ của nhóm trưởng và trưởng ban, giao cho các em học thuộc.
II. VẬN DỤNG KIẾN THỨC BDTX VÀO HOẠT ĐỘNG NGHỀ
NGHIỆP:
- Dạy học là một nghề, có lẽ hiểu thông thường thì cũng như những nghề
khác. Nghề nào mà chẳng cần chuyên môn, cần cù, sáng tạo, yêu nghề, uy tín,
thương hiệu nhưng nét rõ hơn của dạy học là chữ TÂM và ĐỨC và đánh giá dạy
học học sinh tiểu học và cụ thể là đánh giá học sinh tiểu học khi vừa định lượng
và đặc biệt là định tính là theo dõi quá trình học tập và tu dưỡng của học sinh thì
cái TÂM lại là lớn lao biết bao nhiêu.
- Hiện tại tôi đang thực hiện đánh giá học sinh theo TT22 một số điều của
quy định đánh giá học sinh. Do vậy việc đánh giá thường xuyên học sinh bằng nhận
xét, cuối HKI và cuối năm đánh giá bằng điểm số kết hợp với nhận xét. Kết quả bài thi
cuối kì không phải là căn cứ để xếp loại học sinh. Chính vì vậy việc đánh giá HS dựa
hoàn toàn vào người GV. Tôi đánh giá HS một cách công bằng, khách quan và tránh
làm tổn thương các em.
III. TỰ ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG 1, 2:
Tiêu chí 1

: 4,5 điểm

Tiêu chí 2

: 4,5 điểm

Tổng số

:

9,0 điểm


PHẦN II: NỘI DUNG BỒI DƯỠNG 3
(Thời gian bồi dưỡng từ ngày 01/10/2017 đến ngày 31/03/2018)
Tôi chọn thực hiện bồi dưỡng 4 môdun : 32, 39, 27, 16
- TH 32: Dạy học phân hoá ở tiểu học. (Nhà trường)
- TH 39: Giáo dục KNS cho học sinh qua các môn học (Tổ 2)
- TH27: Phương pháp kiểm tra đánh giá bằng nhận xét. (Cá nhân)
-8-


- TH16: Một số kỹ thuật dạy học tích cực ở tiểu học. (Cá nhân)
Cụ thể :
TH32: DẠY HỌC PHÂN HÓA Ở TIỂU HỌC
I. NẮM VỮNG KIẾN THỨC TÀI LIỆU BDTX:
1. Mục tiêu giáo dục phổ thông và mục tiêu giáo dục tiểu học
a) Mục tiêu của giáo dục phổ thông:
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh (HS) phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho
HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
b) Mục tiêu của giáo dục tiểu học:
Giáo dục tiểu học (GDTH) nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở.
Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản (nghe, nói, đọc,
viết và tính toán) của HS được hình thành ở tiểu học và được sử dụng trong suốt
cuộc đời của mỗi con người. HS tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất
như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các

kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học,
sáng tạo. Như vậy, GDTH có giá trị cơ bản, lâu dài, có tính quyết định. Vì thế,
làm tốt GDTH là đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
2. Tầm quan trọng của việc dạy học phân hoá ở cấp tiểu học
Quá trình dạy học gồm hai hoạt động có quan hệ hữu cơ: hoạt động dạy
của giáo viên (GV) và hoạt động học của HS. Cả hai hoạt động này đều được
tiến hành nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục. Trong quá trình dạy học, cần dựa
trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học. Chính vì vậy, việc
dạy học theo nhóm đối tượng sẽ giúp cho tất cả HS đều tích cực học tập. Từ đó

-9-


đạt được chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học, đồng thời phát triển năng lực học
tập của từng HS.
3. Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở
tiểu học.
Như chúng ta đã biết, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) ở tiểu học
tập trung theo những định hướng cơ bản: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của HS; hình thành và phát triển khả năng tự học cho HS; đảm bảo tính phù
hợp với đối tượng giáo dục và đặc điểm vùng, miền; đảm bảo tính trực quan;
thực hiện dạy học tích hợp… nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho HS.
Ở tiểu học, đảm bảo tính phù hợp với đối tượng giáo dục là tôn trọng sự
phát triển của mỗi cá nhân, tạo cơ hội phát triển tối đa khả năng cho mỗi người
học qua dạy học phân hoá, bồi dưỡng HS có năng lực, phụ đạo HS yếu, HS có
khó khăn trong học tập… Chấp nhận sự đa dạng trong giáo dục thể hiện tính
nhân văn của GDTH. Tính phù hợp trong dạy học ở tiểu học còn thể hiện ở sự
phù hợp với đặc trưng môn học, hoạt động giáo dục; phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của lớp học, của nhà trường, của địa phương…
Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở

tiểu học gắn liền với việc tổ chức dạy học. Tổ chức dạy học ở tiểu học linh hoạt,
đa dạng phù hợp với mỗi đối tượng HS và điều kiện của nhà trường. Có thể tổ
chức học theo cá nhân, theo nhóm, theo lớp; có thể học trong lớp hoặc ngoài
lớp; có thể chuẩn bị bài ở nhà hay sinh hoạt theo các câu lạc bộ… giúp HS học
tập hứng thú và đạt kết quả cao. Ví dụ, có thể tổ chức theo hướng các hoạt động
giáo dục trên cơ sở phù hợp khả năng và nhu cầu của HS, chia HS theo các
nhóm: Nhóm củng cố kiến thức; nhóm bồi dưỡng năng khiếu, sở thích; nhóm
phát triển thể chất; nhóm phát triển nghệ thuật; nhóm hoạt động xã hội… Nên
dành thời gian thích đáng cho việc tự học của HS với sự hướng dẫn, giúp đỡ
thích hợp của GV. Tất cả hướng vào mục tiêu phát triển toàn diện cho HS.
Như vậy, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở tiểu học phải phù hợp
với nội dung, đối tượng, điều kiện cụ thể của mỗi lớp học. GDTH thực hiện mục
tiêu dạy chữ - dạy người, hướng tới mục tiêu phát triển con người toàn diện. Với

- 10 -


mục tiêu đó, GV cần có cách nhìn tổng thể, tích hợp các nội dung giáo dục của
các môn học, giải quyết hài hoà các nhiệm vụ học tập, đó cũng chính là giải
pháp tối ưu để đạt chất lượng, hiệu quả giáo dục ở tiểu học.
4. Các điều kiện để thực hiện hiệu quả việc dạy học phân hoá ở tiểu học
Với ý nghĩa đảm bảo cho việc thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với
tất cả HS đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của
cá nhân trong quá trình học tập, dạy học phân hóa (DHPH) đang được xem là
một giải pháp phổ biến hiện nay.
DHPH là phương pháp dạy học có tính đến sự khác biệt của người học (cá
nhân) hoặc nhóm người học. Ở tiểu học, DHPH thường được thể hiện ở việc lấy
chuẩn kiến thức, kĩ năng làm nền cơ bản. Ngoài kế hoạch dạy học, thông thường
phân hóa để có những kế hoạch dạy học phù hợp, đưa HS yếu kém đạt chuẩn và
giúp các đối tượng đã đạt chuẩn hoặc khá, giỏi phát triển ở mức cao hơn. Ngoài

ra, ở một số nơi DHPH thể hiện ở việc tổ chức cho HS học theo chương trình tự
chọn môn học.
a. Sơ lược một số vấn đề về cơ sở lí luận
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim, DHPH có thể được thực hiện theo hai
hướng: “DHPH trong” và “DHPH ngoài”. DHPH trong (hay còn gọi là phân hóa
nội tại) là sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp với các đối tượng khác
nhau trong cùng một lớp học, trong cùng khoảng thời gian, đảm bảo thống nhất
một chương trình và kế hoạch dạy học. Nhìn bề ngoài “DHPH trong” không có
gì khác biệt so với các lớp học thông thường. “ DHPH ngoài” là sử dụng những
biện pháp phân hóa thích hợp để phân hóa rõ rệt về nội dung và cả hình thức tổ
chức dạy học, tức là hình thành những nhóm ngoại khóa, lớp chọn, trường
chuyên, sử dụng chương trình chuyên biệt, nội dung và kế hoạch
dạy học không lệ thuộc chặt chẽ vào SGK.
Trong thực tiễn DH hiện nay, thường có hai hình thức DHPH gọi là
“DHPH trung gian” và “DHPH bộ phận”. DHPH trung gian là DHPH dựa trên
sự thống nhất của mục tiêu dạy học cho tất cá các đối tượng HS. HS có thể chọn
một môn học hay lĩnh vực học tập mà mình ưa thích hoặc có sở trường để học

- 11 -


chuyên sâu theo chương trình và tài liệu riêng. Hình thức này ở tiểu học được
gọi là dạy học theo chương trình tự chọn. DHPH bộ phận là DHPH diễn ra ở
cấp độ tổ chức hoạt động dạy học. Trong cùng một nội dung học tập, GV vận
dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo cơ hội cho HS được
học tập phù hợp với nhịp độ phát triển của cá nhân, nhằm đạt hiệu quả học tập
cao nhất ở mỗi HS. Như vậy có thể coi DHPH trung gian là một cấp độ của
DHPH ngoài và DHPH bộ phận là một cấp độ của DHPH trong.
* Quy trình thực hiện DHPH ở tiểu học thường diễn ra như sau: Đánh
giá, phân loại trình độ, năng lực học tập của HS. Xây dựng kế hoạch, nội dung

và lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng nhóm đối
tượng hoặc từng đối tượng đặc biệt. Tổ chức triển khai thực hiện. Kiểm tra, đánh
giá và điều chỉnh, hoàn thiện.
b. Một số khó khăn trong thực tiễn hiện nay khi thực hiện DHPH
Qua trực tiếp làm công tác giảng dạy và qua trao đổi với các đồng nghiệp,
tôi đã tổng hợp được một số khó khăn khi tiến hành dạy học phân hóa như sau:
- Sĩ số lớp học hiện nay khá đông (mỗi lớp thường trên dưới 30 HS), nên
việc dạy học phù hợp với từng đối tượng HS rất khó. Chưa kể đến việc HS có
thể học tốt môn này nhưng chưa tốt môn khác nên cần phải có nhiều cách chia
nhóm, phân loại đối tượng HS phù hợp theo từng môn học.
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn; thiếu chương trình, tài liệu tham khảo;
thiếu phương tiện kĩ thuật, đồ dùng dạy học,...
- Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GV tiểu học hiện nay
chưa đồng đều, chưa có nhiều GV có năng lực và kinh nghiệm trong việc
DHPH.
- GV tiểu học phải dạy nhiều môn nên khó khăn trong việc chuẩn bị kế
hoạch bài dạy theo định hướng phân hóa.
- Có thể xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lí đối với
HS đầu cấp khi bị xếp vào nhóm yếu, kém cũng như tâm lí lo lắng của phụ
huynh HS.

- 12 -


Để khắc phục những khó khăn trong thực tiễn nói trên, cần phải kết hợp
nhiều giải pháp tổng thể như điều chỉnh sĩ số lớp học; tăng cường cơ sở vật chất,
phương tiện dạy học; tổ chức biên soạn chương trình, nội dung; bồi dưỡng
chuyên đề cho đội ngũ GV, tăng cường học liệu cho HS.... Trong đó cần ưu tiên
cho việc nâng cao năng lực nghề nghiệp GV, hỗ trợ cho GV những nghiệp vụ sư
phạm để DHPH có hiệu quả là cần thiết.

c. Một số biện pháp về nghiệp vụ sư phạm để thực hiện dạy học phân
hóa ở tiểu học đạt hiệu quả
Trong từng công đoạn của tiến trình DHPH như đã trình bày ở trên, GV
cần thực hiện những biện pháp về nghiệp vụ sư phạm như sau:
c.1. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối
tượng HS theo trình độ
- Kết hợp kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học:
GV cần thận trọng khi đưa ra kết luận một HS nào đó thuộc nhóm trình độ nào.
Do vậy, cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra trong dạy học để có kết quả
khách quan và chính xác. Ngoài việc kiểm tra định kì và kiểm tra thường xuyên,
GV nên có sổ tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng ngày, trong đó lưu ý
đến những trường hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá yếu để tiến hành
DHPH phù hợp.
- Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho HS tự đánh giá:
Hiện nay, GV thường chỉ thiết kế đề kiểm tra theo độ khó. Để có thể phân loại
sâu hơn, GV thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng số
lượng bài tập trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá không theo thang điểm 10
mà là GV ghi nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, HS làm đúng được bao
nhiêu bài. Cách làm này khuyến khích HS phát huy hết khả năng của mình đồng
thời có thể tự đánh giá khả năng của mình so với các bạn.
c.2. Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy
Phân bậc nhiệm vụ học tập đối với nội dung mang tính lí thuyết: Kĩ thuật
cơ bản cho việc thiết kế này là chia nhỏ nội dung học tập ra thành nhiều nhiệm
vụ. HS khá, giỏi sẽ thực hiện nhiệm vụ khó hơn hoặc nhiều nhiệm vụ hơn hoặc

- 13 -


thực hiện không có sự hướng dẫn. HS TB hoặc yếu sẽ thực hiện ít nhiệm vụ, đơn
giản hơn hoặc ít hơn, hoặc được những chỉ dẫn, hỗ trợ nhiều hơn.

Khi tổ chức DHPH nội dung thực hành luyện tập và sửa bài tập, thường
yêu cầu cao về năng lực tổ chức và quản lý lớp học của người GV. Do đó GV
cần dự kiến về thời gian và biện pháp sao cho phù hợp nhất để phát huy khả
năng của từng HS.
c.3. Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi DHPH
Tùy theo mục tiêu dạy học, việc chia nhóm có thể theo nhiều cách: Nhóm
đôi (nhóm đối ngẫu), nhóm ngẫu nhiên, nhóm hỗn hợp và nhóm phân theo trình
độ. Trong DHPH, nhóm hỗn hợp được sử dụng khi nhiệm vụ của các nhóm là
như nhau, với mục đích là HS giỏi sẽ giúp đỡ HS yếu hơn. Nhóm theo trình độ
được sử dụng khi mức độ yêu cầu của nhiệm vụ từng nhóm khác nhau, như ví
dụ nêu ở trên hoặc trong thực hành giải bài tập để mỗi nhóm được yêu cầu làm
những bài tập với độ khó khác nhau.
c.4. Giao tiếp trong dạy học phân hóa
Đối với GV, lời nói của GV trong dạy học hoặc giao tiếp với HS rất có ý
nghĩa vì đặc điểm tâm lí cơ bản của lứa tuổi này là vô tư và hồn nhiên, các em
đặt rất nhiều niềm tin vào giáo viên. Do vậy, GV cần có kĩ thuật nói rõ ràng, tốc
độ vừa phải, dễ nghe, thân thiện nhưng nghiêm túc và luôn khuyến khích.
Không nên gay gắt hay nặng lời với những HS yếu kém. Với mỗi trường hợp,
cần tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ HS phù hợp.
Đối với HS, GV nên khuyến khích HS nói lại bằng ngôn ngữ của mình
khi hiểu một nội dung học tập nào đó. Ví dụ như mô tả lại cách hiểu các mối
quan hệ trong một bài toán, cách thực hiện các bước giải một bài toán, ... để giúp
HS hiểu sâu sắc và ghi nhớ tốt hơn, đồng thời giúp GV có cơ sở để đánh giá HS
trung thực hơn.
II. VẬN DỤNG KIẾN THỨC BDTX VÀO HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP:
Trên đây là những vấn đề cơ bản mà tôi đã tìm hiểu về nội dung dạy học
phân hoá ở tiểu học. Để DHPH thành công, trong giao tiếp hàng ngày với HS,
GV cần lưu ý về sự tinh tế trong ứng xử đối với các nhóm HS để tạo điều kiện

- 14 -



cho mọi HS đều cố gắng vươn lên phát triển tối đa và tối ưu khả năng của mình,
đồng thời cũng lưu ý đến sự “phân biệt” làm tổn thương về mặt tâm lí đối với
HS khi DHPH. Do đó, GV cũng lưu tâm đến giáo dục cảm xúc trí tuệ và giáo
dục giá trị cho HS như cần phải yêu thương, giúp đỡ nhau trong học tập, biết
trung thực trong học tập, biết tôn trọng kết quả của mình và của người khác,
không coi thường người khác khi mình giỏi hơn, không bi quan khi mình chưa
giỏi như bạn ... Ngoài ra, GV cũng cần tăng cường trao đổi và giao tiếp tốt với
phụ huynh HS hoặc các tổ chức giáo dục ngoài trường để phối hợp trong việc
giáo dục toàn diện cho HS.
III. TỰ ĐÁNH GIÁ:
Tiêu chí 1: 4,0 điểm
Tiêu chí 2: 5,0 điểm
Tổng số : 9,0 điểm

- 15 -


TH 39: GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HSTH QUA CÁC MÔN HỌC

I. NẮM VỮNG KIẾN THỨC TÀI LIỆU BDTX:
1. Một số vấn đề chung về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống
qua các môn học ở tiểu học ( Mục tiêu, yêu cầu.....)
1.1. Khái niệm về kỹ năng sống: Kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản
thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã
hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
1.2. Mục tiêu:
- Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, kỹ năng phù hợp.
- Hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại

bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực.
- KNS giúp HS có khả năng ứng phó phù hợp và linh hoạt trong các tình
huống của cuộc sống hàng ngày.
- KNS giúp HS vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính thực hành.
* Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình
và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức
- Nhằm đẩy mạnh phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”, đồng thời có sự thống nhất cao việc tăng cường giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh tiểu học trong toàn cấp học; trang bị cho học sinh những
hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực
trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày; giúp các em có
khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử, ứng phó phù hợp, tích cực trước
tình huống cuộc sống.
- Giúp GV soạn và dạy được KNS cho học sinh TH.
Yêu cầu: Việc bố trí sắp xếp bàn ghế trong phòng học, vị trí trưng bày sản
phẩm của học sinh….
- Chuẩn bị thiết bị đồ dùng dạy học, các loại phiếu học tâp sử dụng cho
các hoạt động trong giờ học.

- 16 -


- Giáo viên mạnh dạn, tích cực trong việc tổ chức các hoạt động dạy học,
vận dụng các phương pháp dạy học, các kỹ thuật dạy học phù hợp…
- Tạo được sự thân thiện, hợp tác, các giao tiếp ứng xử trong giờ học giữa
giáo viên và học sinh, học sinh và học sinh, động viên, tạo cơ hôị cho mọi đối
tượng học sinh cùng tham gia. Ngoài việc GDKNS cho HS TH thông qua các kĩ
thuật dạy học, tổ chức các hoạt động GDNGLL, phối hợp với gia đình,
PGD&ĐT chỉ đạo các lớp đưa nội dung GDKNS vào dạy trong tiết SHTT(1
tiết/2 tuần, bắt đầu từ tuần đầu tiên của tháng 12/2011). Nhà trường cần phải rà

soát lại thực trạng của trường mình, về hạn chế và hướng giải quyết để có thể tổ
chức tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sau đó căn cứ vào chương
trình khung của PGD, xây dựng chương trình cụ thể cho đơn vị.
Tùy theo hoàn cảnh thực tế của từng địa phương, từng trường để triển khai
GDKNS cho thật hiệu quả.
- Các trường cũng cần phải xây dựng được quy tắc ứng xử văn hóa. Thầy
cô giáo, cán bộ, phụ huynh phải gương mẫu. Bên cạnh đó, cần tạo được môi
trường thân thiện, gia đình thân thiện, cộng đồng thân thiện. Ngoài ra, việc đẩy
mạnh phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
cũng là giải pháp góp phần trang bị thêm nhiều kiến thức kỹ năng sống cho học
sinh.
* Nội dung và địa chỉ giáo dục kỹ năng sống qua một số môn học như
Tiếng Việt, Đạo đức, TN _ XH:
Môn Tiếng Việt:
* Khả năng GD KNS qua môn Tiếng Việt: Môn TV là một trong những
môn học ở cấp tiểu học có khả năng GD KNS khá cao, hầu hết các bài học đều
có thể tích hợp GD KNS cho HS ở những mức độ nhất định. Số lượng phân
môn nhiềuThời gian dành cho môn học chiếm tỉ lệ cao. Các bài học trong các
phân môn đều có khả năng giáo dục KNS cho học sinh:
* Mục tiêu và nội dung sống qua môn Tiếng Việt:
- Giúp HS bước đầu hình thành và rèn luyện các KNS cần thiết, phù hợp
lứa tuổi; nhận biết được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, biết tự nhìn nhận,

- 17 -


đánh giá đúng về bản thân; biết ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ; biết
sống tích cực, chủ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
- Nội dung GD KNS được thể hiện ở tất cả các nội dung học tập của môn
học. Những KNS chủ yếu đó là: KN giao tiếp; KN tự nhận thức; KN suy nghĩ

sáng tạo; KN ra quyết định; KN làm chủ bản thân.
Kết luận:
* Các yêu cầu cần thiết phải đưa GD KNS váo môn Tiếng Việt:
- Xuất phát từ Thực tế cuộc sống: sự phát triển của KHKT, sự hội nhập,
giao lưu, những yêu cầu và thách thức mới của cuộc sống hiện đại.
- Xuất phát từ mục tiêu GDTH: GD con người toàn diện.
- Xuất phát từ đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học.
- Xuất phát từ thực tế dạy học Tiếng việt: cung cấp KT và KN sử dụng
Tiếng việt thông qua thực hành (hành dụng).
- Các loại KNS :
* KN cơ bản : gồm kỹ năng đơn lẻ và kỷ năng tổng hợp.
* KN đặc thù :
+ KN nghề nghiệp
+ KN chuyên biệt
NỘI DUNG GD KNS TRONG MÔN T.VIỆT
- KNS đặc thù, thể hiện ưu thế của môn TV : KN giao tiếp.
- KN nhận thức (gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra
quyết định,...) là những KN mà môn TV cũng có ưu thế vì đối tượng của môn
học này là công cụ của tư duy.
- Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,... giữa các
thành viên trong xã hội. Gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin), ký mã (phát
thông tin) qua : nghe, nói và đọc, viết.
- Các KNS này của HS được hình thành, phát triển dần, từ những KN đơn
lẻ đến những KN tổng hợp.

- 18 -


Môn Đạo đức:
+ Đạo đức GD cho HS bước đầu biết sống và ứng xử phù hợp với các

chuẩn mực biến nhận thức thành hành vi chuẩn mực thể hiện thông qua kĩ năng
sống.
MỤC TIÊU GD KNS CHO HS QUA MÔN ĐẠO ĐỨC
Con
ngoan

Trò giỏi

Công dân
tốt

+ Bước đầu trang bị cho HS các KNS cần thiết, phù hợp với lứa tuổi.
+ Hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại
bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực.
+ Phát triển khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh.
+ Rèn cho học sinh biết cách tự phục vụ bản thân và vệ sinh cá nhân, giữ
gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường.
+ Rèn cho học sinh biết cách giao tiếp và ứng xử phù hợp và linh hoạt
trong cuộc sống hằng ngày.
+ Hướng dẫn học sinh biết cách phối hợp công việc của từng cá nhân khi
làm việc đồng đội.
+ KNS giúp HS vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính thực hành
+ Biết sống tích cực, chủ động
+ Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và
phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Trong các chương trình giáo dục kĩ năng sống cho HSTH , người ta
nhắc đến những nhóm kỹ năng sống sau đây:
a) Nhóm kĩ năng nhận thức:
Nhận thức bản thân.
Xây dựng kế hoạch.

Kĩ năng học và tự học
Tư duy tích cực và tư duy sáng tạo.
Giải quyết vấn đề

- 19 -


b)Nhóm kĩ năng xã hội:
Kĩ năng giao tiếp .
Kĩ năng thuyết trình và nói được đám đông.
Kĩ năng diễn đạt cảm xúc và phản hồi.
Kĩ năng làm việc nhóm (làm việc đồng đội)
c)Nhóm kĩ năng quản lý bản thân:
Kĩ năng làm chủ.
Quản lý thời gian
Giải trí lành mạnh
d)Nhóm kĩ năng xã hội:
Kĩ năng quan sát.
Kĩ năng làm việc nhóm.
Kĩ năng lãnh đạo (làm thủ lĩnh).
đ)Nhóm kĩ năng giao tiếp
Xác định đối tượng giao tiếp
Xác định nội dung và hình thức giao tiếp
e)Nhóm kĩ năng phòng chống bạo lực:
Phòng chống xâm hại thân thể.
Phòng chống bạo lực học đường.
Phòng chống bạo lực gia đình.
Tránh tác động xấu từ bạn bè.
Thông qua môn Đạo đức, kiến thức được hình thành trên cơ sở từ việc
quan sát tranh, từ một truyện kể, một việc làm, một hành vi, chuẩn mực nào

đó, sau đó rút ra bài học. Từ bài học đó các em liên hệ thực tế xung quanh,
bản thân, gia đình và xã hội và môi trường tự nhiên. Chỉ khác hơn là GV viên
cố gắng trong phạm vi có thể khi soạn và giảng từng phần của bài học phải
tạo một điểm nhấn cụ thể, rõ ràng, nhằm khắc sâu những kĩ năng sống đã có
sẵn trong từng bài học và những kĩ năng sống chúng ta lồng ghép trong quá
trình soạn –giảng.

- 20 -


c. Môn Khoa học:
Địa chỉ giáo dục kĩ năng sống trong môn khoa học:
Lớp 4:
+ Có 21 địa chỉ.
+ Trong đó có 5 địa chỉ đã soạn sẵn theo mẫu:
~ Bài 13: Phòng bệnh béo phì.
~ Bài 14: Phòng bệnh lây qua đường tiêu hóa
~ Bài 39-40: Không khí bị ô nhiễm. Bảo vệ bầu không
khí trong sạch.
~ Bài 65: Quan hệ thức ăn trong tự nhiên.
~ Bài 66: Chuỗi thức ăn trong tự nhiên.
Lớp 5:
+ Có 26 địa chỉ.
+ Trong đó có 5 địa chỉ đã soạn sẵn theo mẫu:
~ Bài 9-10: Thực hành nói “không” với các chất gây
nghiện
~ Bài 18: Phòng tránh bị xâm hại.
~ Bài 42-43: Sử dụng năng lượng chất đốt (2 tiết)
~ Bài 48: An toàn và tránh lãng phí khi sử dụng điện
~ Bài 66: Tác động của con người đến môi trường đất

Cách soạn và trình bày:
Bài soạn và cách thức:
Ở khối Bốn soạn bài: “Nguyên nhân làm nước bị ô nhiễm”
Ở khối Năm soạn bài: “Phòng bệnh sốt xuất huyết”
Nếu thấy hợp lý, có thể gộp 2 bài lại để soạn. Ví dụ: Ở lớp Bốn:
Có thể gộp 2 bài để soạn như bài: “Nước bị ô nhiễm. Nguyên
nhân làm nước bị ô nhiễm”
Tiến trình dạy học:

- 21 -


Có 4 bước chính:
+ Khám phá: HS đã biết gì, chưa biết gì về vấn đề đưa ra?
Ví dụ: Các em hãy cho biết vì sao nước bị ô nhiễm? HS trả lời: … Dựa
vào sự hiểu biết của HS, GV dẫn vào bài mới: Để biết vì sao nươc bị ô nhiễm,
thầy cùng các em đi tìm hiểu qua bài: nguyên nhân làm nước bị ô nhiễm….
+ Kết nối: Kết nối nội dung mới của bài. Giải quyết tất cả những kiến
thức mới.
+ Thực hành: Đưa ra những tình huống, những nội dung, những trò
chơi để vận dụng kiến thức đó.
+ Vận dụng: Tùy ở từng hoàn cảnh từng em, chúng ta có bài vận dụng
(các em nắm được thông tin nào về bài học).
Tóm lại: Qua 1 tiến trình, đảm bảo giáo dục được KNS.
Thống nhất quan điểm khi soạn bài:
Quan điểm của Bộ giáo dục: Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng cho rằng
+ Đây là 1 tài liệu cho giáo viên tham khảo.
+ Giáo viên là người hoạt đông thực tiễn, biết được giá trị quyển
sách này là gì? Có thể dùng từ này, không dùng từ này.
+ Có ma trận: Nhiều địa chỉ tăng cường các kĩ năng sống, không

cứng quá, có thể tìm 1 địa chỉ khác. Đây là những bài minh họa,
không phải nhất thiết tuân theo.
+ Càng ngày, việc chỉ đạo dạy học linh hoạt, phát huy tính độc
lập, sáng tạo của các thầy cô. Các thầy cô thích làm gì thì làm,
dạy phương pháp gia không biết miễn là khi đánh giá theo chuẩn
kiến thức kĩ năng đạt là được.(Tránh lệch chuẩn KTKN)
Các phương pháp và kỹ thuật tích hợp lồng ghép giáo dục kỹ năng
sống vào môn học:
*Sự khác biệt giữa dạy các môn học (VD: Đạo đức) với GDKNS:
Chương trình giáo dục môn Đạo đức ở cấp tiểu học có một số nội dung trùng

- 22 -


hợp với nội dung của giáo dục kỹ năng sống. Tuy nhiên, mục đích và phương
pháp dạy các môn này không giống nhau hoàn toàn.
Ví dụ: Trong chương trình môn Đạo đức lớp 1, tuần 19 có bài: “Lễ
phép, vâng lời thầy cô giáo”. Trong dạy kỹ năng sống, không có khái niệm
“vâng lời”, chỉ có khái niệm “lắng nghe”, “đồng cảm”, “chia sẻ”. Mục tiêu
của giáo dục kỹ năng sống là rèn luyện cách tư duy tích cực, hình thành thói
quen tốt thông qua các hoạt động và bài tập trải nghiệm, chứ không đặt mục
đích “rèn nếp” hay “nghe lời”. Công dân toàn cầu là người biết suy nghĩ bằng
cái đầu của mình, biết phân tích đúng sai, quyết định có làm điều này hay
điều khác và chịu trách nhiệm về điều đó, chứ không tạo ra lớp công dân “chỉ
biết nghe lời”.
Đây là sự khác biệt cơ bản của việc giáo dục kỹ năng sống với các môn
học khác (như môn Đạo đức).
PPDH – Kỹ thuật dạy học:
Cũng như các môn học khác, GDKNS cũng sử dụng các
PPDH tích cực như:

. PPDH theo nhóm
. PP giải quyết vấn đề
. PP đóng vai
. PP trò chơi

Kỹ thuật dạy học:
. Kỹ thuật chia nhóm
. Kỹ thuật đặt câu hỏi
. Kỹ thuật khăn trải bàn
. Kỹ thuật trình bày 1 phút
. Kỹ thuật bản đồ tư duy

- 23 -


II. VẬN DỤNG KIẾN THỨC BDTX VÀO HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP:
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận dụng
vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học;
An toàn giao thông .... để những giờ học sao cho các em được làm để học, được
trải nghiệm như trong cuộc sống thực.
Trong chương trình môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng
sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền vào giấy
tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,...
được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho
các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Để hình thành
những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt,
người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như
Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình
cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Cần sử dụng các phương pháp,

kĩ thuật dạy học tích cực , học sinh sẽ được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm
nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó là lối sống lành mạnh, các
hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối sống, hành vi như gọn
gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ
với bạn…
Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức khỏe”các bài: “Con người
cần gì để sống? Vai trò của các chất dinh dưỡng có trong thức ăn; Phòng một số
bệnh do thiếu chất dinh dưỡng; Phòng bệnh béo phì; Phòng tránh tai nạn đuối
nước;...” giáo dục các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta
khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu hóa, biết những
việc nên làm và không nên làm để phòng tránh tai nạn đuối nước, có ý thức tự
giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc
phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ
ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt.

- 24 -


III. TỰ ĐÁNH GIÁ:
Tiêu chí 1: 5,0 điểm
Tiêu chí 2: 4,0 điểm
Tổng số :

9,0 điểm

- 25 -


×