Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG DŨNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số
: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Luật học “Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các
đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Trần Hoàng Dũng




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................ 6
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội ................................................................................................................................ 6
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................................... 19
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH
QUẢNG NAM ......................................................................................................... 38
2.1. Khái quát tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án có bị cáo là người dưới 18
tuổi phạm tội tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.............................................. 39
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam .................................................................. 41
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .................................................. 55
3.1. Tăng cường nhận thức đúng lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................................... 55
3.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự về áp dụng hình phạt và tăng cường
hướng dẫn áp dụng thống nhất hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ....... 56
3.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội .................................................................................................................... 61
3.4. Tăng cường tập huấn chuyên sâu về áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015 ................................................................................................................... 62
3.5. Tăng cường khả năng, năng lực của cán bộ xét xử; đổi mới công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân ................................................... 63
3.6. Tăng cường khả năng, năng lực của đội ngũ cán bộ điều tra, kiểm sát và bổ trợ

tư pháp ...................................................................................................................... 65
3.7. Các giải pháp khác ............................................................................................. 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS :

Bộ luật Dân sự

BLHS :

Bộ luật Hình sự

BLLĐ :

Bộ luật Lao động

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CTKGG:

Cải tạo không giam giữ

HĐXX :

Hội đồng xét xử


ND18T :

Người dưới 18 tuổi

QĐHP :

Quyết định hình phạt

TAND :

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS :

Trách nhiệm hình sự

VKS :

Viện kiểm sát

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội An là thành phố nằm ở vùng duyên hải miền Trung của đất nước, là một
trong những Vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Quảng Nam. Xuất phát điểm là nơi
hội tụ của nhiều nền văn hóa và di sản thiên nhiên của thế giới, thành phố Hội An
có một sự thuận lợi đặc biệt cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững. Cùng với
sự phát triển chung của đất nước, Hội An đã phát triển một cách vượt bậc với tốc
độ đô thị hóa cao. Tuy nhiên mặt trái của quá trình hiện đại hóa và phát triển
nhanh chóng đó là sự xuất hiện tình trạng một bộ phận không nhỏ giới trẻ lại
chạy theo lối sống thực dụng, hư hỏng, sa đọa, đặc biệt là tình hình người dưới 18
tuổi phạm tội diễn biến hết sức phức tạp và khôn lường. Hội An nói riêng và cả
nước nói chung đang chung tay góp sức từng ngày cho việc giải quyết vấn đề về
người dưới 18 tuổi phạm tội, là việc làm cần thiết để giữ nghiêm ổn định chính trị
và trật tự an toàn xã hội nhưng cũng gặp không ít khó khăn và trở ngại.
Trước hết, người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên, chưa phát triển
hoàn thiện về thể chất, tinh thần và nhân cách cũng như chưa có nhận thức đúng
đắn, có sự hạn chế về kinh nghiệm sống, kiến thức pháp luật, tâm sinh lý chưa
vững vàng, ổn định nên dễ bị tác động, không có ý thức rõ ràng và toàn diện về
những hành vi mà mình thực hiện, một số người đã có hành vi phạm tội mà
không nhận thức được hậu quả nguy hiểm gây ra cho xã hội và hệ quả mà mình
phải gánh chịu. Nguyên nhân có thể do sự thiếu giáo dục, chăm lo của gia đình
nhà trường và xã hội hoặc những tác động của hoàn cảnh khách quan như sự dụ
dỗ, kích động, lừa dối vào những hành vi trái pháp luật… Vì vậy mà tình hình tội
phạm do người dưới 18 tuổi gây ra ngày càng gia tăng về mức độ và tính chất
nguy hiểm không chỉ Hội An nói riêng mà cả nước nói chung. Nhằm mục đích
giảm bớt tội phạm cũng như ngăn ngừa tội phạm mới do người dưới 18 tuổi gây
ra, trên cơ sở niềm tin vào khả năng cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích
cho xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách pháp luật mang tính
nhân đạo sâu sắc, là cơ sở pháp lý để xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi gây ra tại thành

phố Hội An cho thấy, các Tòa án đã chú trọng hơn đối với công tác xét xử người
dưới 18 tuổi phạm tội. Những người tiến hành tố tụng có ý thức hơn trong việc
1


trau dồi kiến thức về tâm sinh lý của người chưa đủ 18 tuổi, đồng thời nghiên cứu
kỹ các quy định pháp luật để có thể áp dụng đúng các hình phạt, biện pháp tư
pháp đối với họ. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi từ thực tiễn xét xử này vẫn còn những hạn chế và bất cập. Có một số
vụ án bị tòa cấp trên sửa hoặc hủy từ đó quyền của người dưới 18 tuổi phạm tội
đôi lúc chưa được bảo vệ toàn diện. Nguyên nhân là do việc hướng dẫn áp dụng
pháp luật chưa thống nhất, năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán và hội thẩm
nhân dân chưa cao… Do vậy, việc nghiên cứu sâu vào quá trình áp dụng hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn xét xử để tìm ra những nguyên
nhân, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật là vấn đề có ý nghĩa hết
sức quan trọng giúp bảo vệ người dưới 18 tuổi trong hoạt động tố tụng. Từ những
lý do đó, tôi quyết định chọn đề tài luận văn Thạc sỹ cho mình là: “Áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội đã được một số nhà khoa học, tác giả chọn làm đề tài nghiên
cứu, luận văn thạc sĩ, giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách
chuyên khảo nghiên cứu về vấn đề này như:
Một số luận án, luận văn đề cập đến việc xét xử sơ thẩm người chưa thành
niên phạm tội:
- “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục đối với người chưa thành niên
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Đỗ Thị Phượng, Luận án tiến sĩ luật
học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008.
- “Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên

phạm tội theo luật hình sự Việt Nam”, của tác giả Lưu Ngọc Cảnh, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2010.
- “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội”, Luận văn
Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hương, tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, năm 2011.
- “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam”, của tác giả Phạm Quốc Bảo, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa
học xã hội, năm 2013.
2


- “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam”, của tác giả …Long, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội,
năm 2016.
- “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng”, của tác giả Trần Thị Tuyết Nhung, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện
khoa học xã hội, năm 2016.
Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả như:
“Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành
niên phạm tội” của tác giả Cao Thị Oanh, đăng trên Tạp chí luật học số 10, 2007;
Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt” của tác giả Nguyễn Khắc Quang đăng trên Tạp chí Tòa án nhân
dân số 8, 4/2012;“Các yêu cầu đặt ra đối với việc thành lập Tòa án người chưa
thành niên của tác giả” Nguyễn Đức Mai đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 16,
8/2014…
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề liên quan đến áp
dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu sâu về việc áp dụng hình phạt với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực
tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam trên cơ sở đối chiếu BLHS năm 1999 và
BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và
thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
bảo đảm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về việc áp dụng hình phạt đối
với người người dưới 18 tuổi phạm tội: trong đó tập trung làm rõ khái niệm, đặc
điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội; những vấn đề chung về việc áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, các quy định pháp luật về việc áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Hai là, từ phân tích thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
3


phạm tội tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, luận văn tìm ra nguyên nhân của
những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn.
Ba là, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện quy định của pháp luật và các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn và giải pháp hoàn
thiện quy định của pháp luật có liên quan đến việc áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu sâu vào việc áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng

Nam và các quy định của pháp luật có liên quan đến việc áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2017. Tuy nhiên, đề
tài giới hạn phạm vi nghiên cứu nội dung về người dưới 18 tuổi phạm tội với địa vị
pháp lý là bị cáo là người dưới 18 tuổi.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, cũng như những đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước khi xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, so sánh, tổng hợp,
thống kê… lồng ghép vào nhau nhằm đánh giá thực trạng pháp luật, đưa ra kiến
nghị và các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần hoàn thiện phong phú hơn về mặt lý luận và hoàn thiện pháp luật
trong việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài cung cấp những thông tin có giá trị giúp cho việc áp dụng những quy
định của pháp luật về việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ
4


thực tiễn xét xử của Tòa án có hiệu quả hơn.
Đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu cho việc học tập, giảng dạy và nghiên
cứu một số vấn đề liên quan cũng như làm tài liệu tham khảo cho những người làm
công tác xét xử trong ngành Tòa án.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm người dưới 18 tuổi phạm tội
Về mặt lý luận, khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội có nhiều nhà nghiên
cứu đã đưa ra các quan điểm khác nhau, tuy nhiên theo tác giả cách hiểu có sự
thống nhất là: Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi có
năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh
lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
bị luật hình sự cấm [13, tr.9], và đã bị Tòa án xét xử bằng bản án đã có hiệu lực thi
hành… [11, tr.30].
Dựa trên đặc điểm tâm sinh lý ND18T, pháp luật quốc tế và pháp luật mỗi
quốc gia đã đưa ra giới hạn về độ tuổi làm cơ sở xác định một đối tượng là ND18T.
Điều 1 - Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (United Nations
Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông
qua ngày 20/11/1989 quy định: “Trong phạm vi công ước này, Trẻ em có nghĩa là
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi
thành niên sớm hơn”.

Quy tắc 2.2 - Quy tắc tối thiểu của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng chính
sách pháp luật đối với người dưới 18 tuổi còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh (United
Nations Standard Minium Rules for the Administration of Juvenile Justice/Beijing
Rules) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29/11/1985 đưa ra định
nghĩa: “Người chưa thành niên là trẻ em hoặc người ít tuổi tùy theo từng hệ thống
pháp luật”[5].
Như vậy theo pháp luật quốc tế, “Người chưa thành niên” đồng nhất với
“Trẻ em” và được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật quốc gia
quy định khác.
Theo quan niệm quốc tế thì dựa vào độ tuổi để xác định trẻ em, người chưa
thành niên, thành niên… Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm ND18T được hiểu
như sau:
6


Theo từ điển tiếng Việt thì:“Người chưa thành niên là người chưa phát triển
đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ công dân”[35]. Cho thấy ở lứa tuổi này họ chưa phải là người lớn nhưng
cũng không còn là trẻ con. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, cơ
thể phát triển chưa hoàn thiện nên ND18T rất dễ bị kích động, dễ nổi nóng nên họ
có những phản ứng nóng nảy, vô cớ, những hành vi bất thường [12].
Theo Điều 1 Thông tư liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTCBCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 của VKSNDTC, TANDTC, Bộ Công an,
Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, hướng dẫn thi hành một số quy
định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là ND18T, thì: “Người chưa
thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm thần, là những đối
tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết các vụ án... ” [26].
Điều 68 BLHS năm 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của
Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không

trái với những quy định của Chương này” [17].
Chuyển tiếp và kế thừa BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã có một số sửa
đổi, bổ sung về quy định thủ tục tố tụng đối với ND18T, cụm từ người dưới 18 tuổi
được dùng để thay thế cho cụm từ người chưa thành niên ở BLHS năm 1999,
“người dưới 16 tuổi” thay cho cụm từ “trẻ em”, “người đủ 70 tuổi trở lên” thay thế
cho cụm từ “người già”. Các cụm từ mới này rất rõ ràng, dễ áp dụng vì dễ xác định,
không cần phải có văn bản hướng dẫn, giải thích thế nào là “trẻ em”, “người già”,
giúp phân định rõ ràng hai khái niệm “người chưa thành niên” và “trẻ em” trong
Bộ luật hình sự năm 1999. Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004
và Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 đều quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”[24].
Như vậy, trẻ em là người dưới 18 tuổi nhưng ND18T không hẳn là trẻ em.
Điều 90 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần
thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này” [18]. Như vậy,
Bộ luật hình sự 2015 cũng không có quy định gì khác hơn so với BLHS năm 1999 về
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội.
Điều 18 BLDS năm 2005 quy định: “Người chưa đủ mười tám tuổi là người
7


chưa thành niên”[16]. Điều 161 BLLĐ năm 2012 quy định: “Người lao động chưa
thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”[19]. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác đều quy định tuổi của người dưới
18 tuổi là người chưa thành niên. Các quy định trên đều cho thấy sự thống nhất khi
quy định ND18T là người chưa thành niên.
Tóm lại, người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể
lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý như
người đã thành niên.
Điều 12 của BLHS năm 2015 quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy

định khác; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng…”. Như vậy,
chỉ những người từ đủ 14 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS về hành vi phạm tội, còn
người dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, người từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm nhưng trừ những tội phạm mà Bộ luật
này có quy định khác, còn người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ
phải chịu TNHS tại những tội quy định tại khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015.
Điều 12 của BLHS năm 2015 quy định bổ sung loại tội cụ thể mà người từ đủ 14
tuổi trở lên, chưa đủ 16 tuổi phải chịu. Vì trong độ tuổi này họ chưa làm chủ được
bản thân nên khi thực hiện hành vi phạm tội họ không phải chịu TNHS, không tính
lỗi khi thực hiện hành vi. Quy định này giúp ND18T nhận thức tốt hơn về những
điều mà pháp luật ngăn cấm, nâng cao hiệu quả giáo dục phòng ngừa.
* Đặc điểm người dưới 18 tuổi phạm tội:
- Về mặt pháp lý: Người dưới 18 tuổi là người chưa có đầy đủ quyền và nghĩa
vụ pháp lý của công dân. BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi và bổ sung một số các quy
định trong chương về người chưa thành niên của BLTTHS năm 1999 và đổi tên
chương thành thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi. Đặc điểm cơ bản
của ND18T phạm tội mà cụ thể được tác giả đề cập ở đề tài này là bị cáo là ND18T
được thể hiện thông qua quy định thủ tục tố tụng hết sức chặt chẽ, mở rộng quy
8


định về quyền của ND18T so với người đã thành niên (từ 18 tuổi trở lên) và họ có ít
nghĩa vụ hơn so với người đã thành niên.
- Về tâm, sinh lý: Người dưới 18 tuổi là người đang trong giai đoạn phát triển
và định hình nhân cách, lối sống và cách suy nghĩ. Tuổi vị thành niên hàm chứa
trong mình rất nhiều yếu tố vừa ghi nhận, vừa loại bỏ, vừa định dạng, vừa biến động

trong nhận thức, tâm lý, tình cảm, suy nghĩ của bản thân rồi trở thành khuôn mẫu
nhân cách của họ trong giai đoạn sau này. Đặc trưng cơ bản của ND18T thể hiện
thông qua những biến đổi liên tục về mặt thể chất, mặt tâm lý, tình cảm, nhận thức
và sau đó là hành vi.
- Về mặt thể chất: Người dưới 18 tuổi nằm trong độ tuổi có giai đoạn chuyển
tiếp từ một đứa trẻ non nớt thành một người lớn khỏe mạnh. Sự tăng trưởng dần của
cơ thể và sự biến đổi bên trong của cơ thể có khả năng hoàn thiện các nhiệm vụ của
tuổi trưởng thành đó là sự phát triển của thể xác.
- Về mặt tâm lý, tình cảm và nhận thức: Người dưới 18 tuổi có sự mất cân
bằng giữa ý thức bên trong (ý thức về bản thân mình) và môi trường bên ngoài (hiện
thực cuộc sống). Đây là lứa tuổi có sự đa dạng và phức tạp trong tình cảm như thích
sống nội tâm và khép mình lại hay muốn bộc lộ cá tính theo kiểu riêng của mình.
Trong trường hợp cách nhìn nhận ấy bị lệch lạc thì sẽ dẫn đến hành vi phạm tội.
Nguyên nhân khác có thể do sự lôi kéo, kích động, dụ dỗ, môi trường sống tác động
dẫn đến chạy theo lối sống thực dụng, học theo người lớn… nhưng khi hậu quả xảy
ra thì đã muộn, mới ăn năn hối cải.
- Về hành vi: Người dưới 18 tuổi có những hành vi hết sức khó hiểu và khó
lường so với người đã thành niên, họ hành động không cần sự cân nhắc, tính toán
chín chắn, họ sẵn sàng hy sinh bản thân để làm những việc tốt nhưng cũng dễ dàng bị
lôi kéo, lừa gạt, bóc lột, rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội hoặc vi phạm pháp luật.
Hiểu rõ được đặc điểm của ND18T giúp cho công cuộc giáo dục, ngăn ngừa cũng
như xử lý bị cáo là ND18T của Nhà nước ta hiệu quả hơn.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng hình phạt đối với người dưới

18 tuổi phạm tội:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được luật quy
định, do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án và được thể hiện ở việc tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của họ nhằm giáo dục, cải tạo họ và phòng ngừa tội
9



phạm, bảo đảm cho luật hình sự thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ và đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong muốn
đạt được khi quyết định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội. Nó thể hiện trước hết ở chỗ hình phạt tác động trực tiếp đến
người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội
mới. Tội phạm càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị người có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm đó càng nghiêm khắc. Tuy nhiên, mục đích mà hình phạt hướng tới
đầu tiên chính là giáo dục và ngăn chặn tội phạm. Hình phạt trước hết là hậu quả
pháp lý của tội phạm, là thước đo thái độ lên án của Nhà nước đối với cá nhân
người phạm tội, là tiêu chí của công lý và công bằng xã hội. Trừng trị công minh là
yếu tố tiên quyết quan trọng để đảm bảo mục đích giáo dục.
Áp dụng hình phạt là giai đoạn quan trọng của tố tụng hình sự. Việc áp dụng
hình phạt chính xác, khách quan giúp người bị kết án tự mình ý thức được sự công
bằng của pháp luật và thấy rõ sai phạm để quyết tâm cải tạo trở thành người công
dân tốt, góp phần tích cực vào quá trình đấu tranh, phòng, chống tội phạm.
Nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự và tố tụng hình sự hiện hành về áp
dụng hình phạt thì khái niệm này không được đề cập một cách cụ thể. Tuy nhiên,
dưới gốc độ nghiên cứu các giai đoạn tố tụng của pháp luật hình sự thì "Áp dụng
hình phạt là việc Tòa án lựa chọn và áp dụng loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình
phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật
định để áp dụng đối với người phạm tội" [21, tr 379 ], [36, tr. 199]. Với nghĩa
rộng, áp dụng hình phạt ngoài việc xác định khung hình phạt, xác định loại và mức
hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc dưới khung đó còn bao gồm
cả việc xác định người phạm tội có được miễn TNHS hay miễn hình phạt hay
không [14, tr. 65-66], [17, tr. 40-41], [19, tr. 12 ].
Theo quan điểm về khái niệm hình phạt nêu trên, khái niệm áp dụng hình phạt
đối với ND18T phạm tội bao gồm những đặc điểm cơ bản sau:
Áp dụng hình phạt là một quá trình áp dụng luật hình sự trong hoạt động tố

tụng hình sự như điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Thứ nhất, áp dụng hình phạt đối với ND18T phạm tội là hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự chỉ do Tòa án cơ quan có thẩm quyền duy nhất nhân danh
nhà nước thực hiện (Điều 30 BLHS 2015). Khi quyết định hình phạt Tòa án phải
10


tuân theo các quy định pháp luật và các trình tự pháp lý nhất định; phải sử dụng kết
quả của các hoạt động điều tra, truy tố, thẩm vấn, tranh luận; đối chiếu các tình tiết
của một vụ án hình sự cụ thể với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể;
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân nguời
phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS để xác định một loại và một mức
hình phạt áp dụng đối với ND18T phạm tội đảm bảo đạt được mục đích của hình
phạt. Đây là cả một quá trình nhận thức lý luận tư duy logíc, và hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Thứ hai, áp dụng hình phạt đối với ND18T phạm tội là giai đoạn tiếp theo của
hoạt động định tội danh của Tòa án. Ðiều 2 BLHS năm 2015 quy định: "Chỉ người
nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS". Như vậy, nếu
không có tội phạm xảy ra hoặc hành vi của một người không thoả mãn các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm thì người đó không phải là tội phạm và đương nhiên không
phải chịu những chế tài của Luật hình sự. Vì vậy, chỉ khi nào Tòa án trên cơ sở đối
chiếu giữa các tình tiết của vụ án với các cấu thành cơ bản thì mới có thể kết luận
ND18T đó có phạm một tội (hoặc một số tội) được quy định trong phần các tội
phạm của BLHS hay không và chỉ khi các hành vi đó thoả mãn các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm thì Tòa án mới cân nhắc, lựa chọn các chế tài hình sự áp dụng
hình phạt mới được đặt ra.
Thứ ba, áp dụng hình phạt đối với ND18T phạm tội bao gồm các nội dung chủ
yếu là: (1) có thể áp dụng các biện pháp tha miễn như miễn TNHS hoặc miễn hình
phạt đối với bị cáo? (2) trường hợp không thể áp dụng các biện pháp tha miễn thì
xác định loại và mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo.

Bất kỳ ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, thoả mãn các yếu tố của cấu
thành một tội phạm cụ thể được quy định trong phần các tội phạm của BLHS thì sẽ
phải chịu TNHS về tội phạm mà mình đã thực hiện. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên
tắc nhân đạo trong chính sách hình sự của nước ta, BLHS quy định một số trường
hợp người thực hiện tội phạm được miễn TNHS khi có những điều kiện nhất định.
Khi được miễn TNHS, ND18T phạm tội có thể sẽ không phải gánh chịu hậu quả
pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm như không bị truy cứu TNHS, không bị
đưa ra xét xử, không bị áp dụng hình phạt của Luật hình sự và đương nhiên không
có án tích. Do vậy, trong giai đoạn xét xử, sau khi đã định tội danh xong, Toà án
xem xét nếu thấy không cần thiết phải truy cứu TNHS đối với bị cáo mà vẫn đảm
11


bảo được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thì Tòa án sẽ tuyên bố
miễn TNHS cho bị cáo. Trong trường hợp ND18T phạm tội không đủ các điều kiện
để miễn TNHS, Hội đồng xét xử sẽ xem xét họ có đủ điều kiện để miễn hình phạt
theo quy định của Ðiều 88 hay không. Trên cơ sở xem xét, cân nhắc toàn bộ tình
tiết của vụ án, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của nguời phạm tội, Hội đồng xét
xử có thể quyết định không áp dụng hình phạt đối với ND18T phạm tội. Như vậy,
miễn hình phạt là việc Tòa án không áp dụng bất kỳ hình phạt nào được quy định tại
Ðiều 32 BLHS năm 2015 đối với ND18T phạm tội. Nếu không thể áp dụng các biện
pháp tha miễn như đã nêu ở trên, Hội đồng xét xử sẽ phải xác định loại và mức hình
phạt cụ thể đối với bị cáo. Trước hết Tòa án phải xác định được khung hình phạt đối
với bị cáo (đối với điều luật về tội phạm cụ thể chỉ có một khung hình phạt thì Toà
án không phải xác định khung hình phạt). Khi định khung hình phạt, Tòa án phải
dựa vào tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ khung để xác định giới hạn tối thiểu và
tối đa của hình phạt theo khung hình phạt được áp dụng và nếu định khung hình
phạt sai thì sẽ dẫn đến hậu quả áp dụng hình phạt sai. Giai đoạn tiếp theo của Hội
đồng xét xử là lựa chọn các chế tài cụ thể được quy định trong khung hình phạt. Ðối
với hình phạt chính, đa số hình phạt quy định cho các tội phạm là chế tài lựa chọn.

Do đó, nếu trong khung hình phạt có nhiều loại hình phạt khác nhau thì để áp dụng
hình phạt Tòa án phải lựa chọn một loại hình phạt cụ thể trong các hình phạt đó và
các định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi cho phép để áp dụng đối với ND18T
phạm tội. Trong trường hợp hình phạt mà Tòa án tuyên cho bị cáo là cảnh cáo, phạt
tiền, tù có thời hạn… được áp dụng đối với ND18T phạm tội thì việc xác định hình
phạt để áp dụng chỉ là lựa chọn hình phạt mà không có bước xác định mức hình
phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội. Nếu trong khung hình phạt chỉ có một loại
hình phạt tù thì quyết định hình phạt để áp dụng thực chất là việc xác định mức hình
phạt cụ thể trong phạm vi của khung hình phạt để áp dụng cho ND18T phạm tội.
Mức hình phạt đuợc áp dụng có thể thấp hơn mức mà chế tài quy định trong trường
hợp Tòa án áp dụng Điều 54 BLHS nhưng không được vượt quá mức cao nhất được
quy định trong chế tài. Hình phạt bổ sung không áp dụng đối với ND18T phạm tội
theo điều 91 BLHS năm 2015. Trên cơ sở các đặc điểm của áp dụng hình phạt nêu
trên, khái niệm áp dụng hình phạt đối với ND18T phạm tội có thể được định nghĩa
như sau: Áp dụng hình phạt đối với ND18T là hoạt động nhận thức và áp dụng
pháp luật hình sự do Tòa án có thẩm quyền tiến hành, sau khi đã định tội danh,
12


nhằm lựa chọn loại hình phạt cụ thể (trong các hình phạt chính) với mức độ cụ thể
trong phạm vi luật định để áp dụng đối với ND18T phạm tội hoặc quyết định miễn
TNHS hoặc hình phạt cho người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS.
1.1.3. Nội dung, các nguyên tắc và các căn cứ của áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.3.1. Áp dụng hình phạt đối với ND18T phạm tội bao gồm các nội dung về
quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, áp dụng án treo, miễn giảm hình phạt,
xóa án tích
Quyết định hình phạt đối với ND18T phạm tội được hiểu là việc Toà án lựa
chọn một loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ

bản, một nội dung quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Hiến pháp
năm 1992 và Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, chỉ có Toà án mới có quyền
quyết định hình phạt. Khi quyết định hình phạt đối với ND18T phạm tội, Tòa án
xem xét các đặc điểm về nhân thân và các yếu tố khác để cân nhắc mức hình phạt
phù hợp. Hình phạt đối với ND18T phạm tội được quy định nhẹ hơn so với người từ
18 tuổi trở lên phạm tội có các tình tiết khác tương đương và mức giảm nhẹ phụ
thuộc vào mức tuổi của người phạm tội. Tại Điều 102 BLHS năm 2015 về quyết
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt với ND18T
phạm tội. Trong đó việc áp dụng hình phạt được chia theo từng lứa tuổi, mức hình
phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội không
quá một phần ba và người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi không quá một phần hai mức
tương ứng của người từ 18 tuổi trở lên chuẩn bị phạm tội. Quyết định hình phạt đối
với ND18T phạm tội đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền đề, điều kiện để
đạt được mục đích của hình phạt là cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung và phòng
ngừa riêng. Nếu hình phạt quá nhẹ sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa của hình phạt,
bởi nó có thể làm phát sinh ý định phạm tội, thái độ vô trách nhiệm và coi thường
pháp luật. Nhưng hình phạt quá nặng sẽ tạo tâm lý không công bằng, không hợp lý
ở người bị kết án dẫn đến thái độ oán hận, không tin tưởng pháp luật.
Tổng hợp hình phạt đối với ND18T phạm tội là trường hợp Tòa án cộng các
hình phạt mà người phạm tội bị kết án thành một hình phạt chung buộc ND18T
phạm tội phải chấp hành. Tổng hợp hình phạt là một chế định pháp lý bảo đảm tính
công bằng xã hội, thể hiện nguyên tắc trừng trị trong chính sách hình sự của Nhà
13


nước đối với người phạm tội. Người phạm tội nghiêm trọng phải bị xử phạt nặng
hơn người phạm tội ít nghiêm trọng và người phạm nhiều tội phải bị xử phạt nặng
hơn người chỉ phạm một tội. Tuy nhiên, khi tổng hợp hình phạt đối với người phạm
tội cũng phải tuân theo nguyên tắc và nguyên tắc này có thể thay đổi tùy thuộc vào
chính sách của Nhà nước. Theo nguyên tắc của Luật hình sự thì một người thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và được Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định là tội
phạm thì phải chịu hình phạt. Người bị nhiều tội sẽ bị tuyên nhiều hình phạt. Về
mặt lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, không phải người phạm nhiều tội nào cũng
bị phát hiện và đem đưa ra xét xử cùng một lúc. Có trường hợp một người thực hiện
nhiều hành vi phạm tội bị phát hiện và đưa ra xét xử cùng một lần và bị Tòa án
tuyên nhiều hình phạt (trường hợp phạm nhiều tội). Tuy nhiên, cũng có trường hợp
bị cáo đang chấp hành một bản án lại bị đem ra xét xử về một tội mà người đó đã
phạm trước hoặc sau khi có bản án đang chấp hành (trường hợp có nhiều bản án).
Trong trường hợp trên, người bị kết án sẽ chịu nhiều hình phạt tương xứng với các
hành vi phạm tội của họ. Hình phạt người bị kết án phải chấp hành có thể cùng loại
nhưng có trường hợp bị cáo phải chấp hành đồng thời các hình phạt. Khi xét xử Tòa
án phải tổng hợp tất cả các hình phạt đã tuyên thành hình phạt chung, điều này sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thi hành án khi thực hiện chức năng nhiệm vụ
của mình. Trong BLHS năm 2015, có bốn trường hợp khi xét xử Tòa án phải tổng
hợp hình phạt đó là: Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều
55); tổng hợp hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án (Điều 56); tổng hợp hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 103) và tổng hợp hình phạt trong
các trường hợp liên quan đến án treo (Khoản 5 Điều 65). Khi quyết định hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án phải tuân thủ nguyên tắc được quy định
tại Điều 91 BLHS. Cụ thể: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm
lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã
hội”. Điều này thể hiện tinh thần nhân đạo của pháp luật hình sự, xử lý ưu tiên hơn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo hướng giáo dục, phòng ngừa là chính, bảo
đảm sự phát triển lành mạnh cho người dưới 18 tuổi.
Án treo là chế định có nhiều cách hiểu khác nhau. Có thể được hiểu là “tạm
đình chỉ việc thi hành án”, hoặc là một biện pháp “hoãn hình có điều kiện” hoặc là
“biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Có nhiều nghiên cứu đưa ra
14



những khái niệm khác nhau về án treo như: Tác giả Đinh Văn Quế: “Án treo là biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt
không quá 3 năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm
nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù”. PGS TS KH Lê
Văn Cảm: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời
gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm
khi có đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định”. Căn cứ vào
Điều 65 BLHS 2015 cùng với những văn bản hướng dẫn thi hành và những phân
tích nêu trên, theo tác giả “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện, được áp dụng cho người đã bị kết án phạt tù không quá 3 năm, không
buộc họ phải chấp hành hình phạt tù khi có đầy đủ những căn cứ và điều kiện nhất
định do pháp luật hình sự quy định (nhằm khuyến khích họ tự giác cải tạo để trở
thành công dân có ích cho xã hội), đồng thời cũng cảnh cáo họ là nếu phạm tội mới
trong thời gian thử thách thì họ sẽ phải chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án
treo của bản án trước đó”. Việc quy định án treo đối với người phạm tội nói chung,
người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng, thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo xã hội
chủ nghĩa trong pháp luật hình sự của nhà nước ta; mặt khác cũng thể hiện chính
sách nghiêm trị kết hợp với giáo dục của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện
thuận lợi hơn để họ có thể cải tạo tốt để trở thành người có ích cho xã hội.
Chế định miễn, giảm hình phạt: Các biện pháp miễn, giảm hình phạt biểu
hiện rõ nét tính nhân đạo sâu sắc trong chính sách hình sự của Nhà nước, được các
cơ quan chức năng áp dụng khi có đủ các căn cứ và điều kiện do luật quy định.
Miễn, giảm hình phạt đối với người bị kết án, đặc biệt là ND18T có tác dụng
khuyến khích người bị kết án tích cực cải tạo, lập công để được hưởng sự khoan
hồng của Nhà nước, hoặc đối với một số trường hợp người bị kết án lâm vào hoàn
cảnh đặc biệt như ốm đau, bệnh tật thì nhà nước cho hưởng chính sách khoan
hồng. Việc miễn, giảm hình phạt nói chung được thể hiện trong BLHS bao gồm:
miễn hình phạt (Điều 59); miễn chấp hành hình phạt (Điều 62); giảm mức hình phạt
đã tuyên (Điều 63). Theo Điều 59 của BLHS thì miễn hình phạt là việc Tòa án tuy

vẫn kết án đối với bị cáo nhưng không áp dụng hình phạt đối với người đó do họ
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng
được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS. Điều 62 của Bộ
luật hình sự quy định về việc miễn chấp hành hình phạt, theo đó, nếu người bị kết
15


án chưa chấp hành hình phạt mà được đặc xá, đại xá thì không phải chấp hành hình
phạt nữa. Theo đó, khoản 2 Điều 62 BLHS quy định: Người bị kết án cải tạo không
giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt mà lập công
hoặc mắc bệnh hiểm nghèo… Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ
hình phạt. Điều 105 BLHS hiện hành quy định nội dung về giảm mức hình phạt đã
tuyên đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, điều luật này quy định người dưới 18
tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nếu có tiến bộ và đã chấp
hành được một phần tư thời hạn thì được Tòa án xét giảm, riêng đối với hình phạt tù, mỗi
lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành được ít nhất hai phần năm
mức hình phạt đã tuyên hoặc trong trường hợp người đó mắc bệnh hiểm nghèo thì được
xét giảm ngay và có thể miễn chấp hành phần hình phạt còn lại..
Xóa án tích là chế định của Luật hình sự Việt Nam thể hiện ở việc xóa bỏ hậu
quả pháp lý, xóa bỏ trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án khi có đủ các điều
kiện của pháp luật quy định, chấp hành xong bản án hoặc hết thời hiệu thi hành bản
án, không phạm tội mới trong thời hạn luật định. Hậu quả của việc xóa án tích là
người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. Xóa án tích được xem là một trong
những nguyên tắc xử lý của Luật Hình sự Việt Nam nhằm xóa bỏ đi sự mặc cảm
của người bị kết án, động viên họ trở lại cuộc sống lương thiện, có tác dụng hỗ trợ
cho công tác cải tạo, giáo dục người đang chấp hành hình phạt. Điều 107 BLHS
hiện hành quy định việc xóa án tích cụ thể hơn và nhẹ hơn so với BLHS năm 1999
với từng độ tuổi của người dưới 18 tuổi. Cụ thể: Được coi là không có án tích nếu
người bị kết án ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi; hoặc người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, rất

nghiêm trọng do vô ý hoặc người bị áp dụng biện pháp tư pháp tại trường giáo
dưỡng trong khi Điều 77 BLHS năm 1999 chỉ quy định thời hạn xóa án tích đối với
người chưa thành niên nói chung là 1/2 thời hạn quy định xóa án tích của người đã
thành niên. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về xóa án tích theo hướng có lợi
hơn đối với ND18T về các trường hợp người bị kết án không có án tích, thời hạn
xóa án tích, cách tính thời hạn xóa án tích cũng như thủ tục pháp lý để xác định việc
xóa án tích.
1.1.3.2. Các căn cứ của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Việc áp dụng những quy định đối với ND18T phạm tội được quy định tại
16


Chương XII của BLHS năm 2015 căn cứ vào độ tuổi tại thời điểm thực hiện hành vi
phạm tội. Còn việc áp dụng thủ tục tố tụng đối với ND18T phạm tội được quy định
tại Chương XXVIII của BLTTHS năm 2015 là căn cứ vào độ tuổi tại thời điểm tiến
hành tố tụng.
Theo quy định tại Điều 413 của BLTTHS năm 2015 phần “Thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi” thì khi áp dụng pháp luật đối với bị cáo là ND18T, Tòa án
cần căn cứ vào quy định tại hai chương này. Trường hợp có xung đột nhau về cùng
một vấn đề, khi các chương khác của hai bộ luật này cũng đều quy định thì ưu tiên
áp dụng quy định tại hai chương này. Trường hợp cả hai chương của hai bộ luật trên
không có quy định nhưng chương khác của hai bộ luật có quy định thì áp dụng quy
định của chương đó nhưng không được trái với các quy định chung của hai chương.
Quá trình nghị án, HĐXX cần cân nhắc và dựa trên chính sách hình sự của nhà
nước ta khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo là ND18T. Cụ thể, HĐXX có thể xem
xét, quyết định việc áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp khác để thay thế
cho hình phạt nếu xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt. “Quyết định
hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức hình phạt cụ thể trong
phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội”[33, tr.310].

Việc áp dụng hình phạt đối với bị cáo là ND18T phạm tội, HĐXX cần căn cứ
vào quy định của BLTTHS năm 2015 thể hiện ở “Phần chung”, “Phần các tội
phạm”, Chương XXVIII “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi”, đồng thời
căn cứ vào những quy định khác của BLHS nhưng không trái với những quy định
của BLHS có liên quan đến tội phạm mà ND18T đã thực hiện; cân nhắc đến tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để lựa chọn và quyết
định hình phạt với mức độ tương xứng với hành vi phạm tội; cân nhắc đến nhân
thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS…
Trong giai đoạn này, Tòa án cần phải lựa chọn hình phạt áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ có thể áp dụng một trong bốn hình phạt chính để áp
dụng đối với họ bao gồm cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời
hạn, không áp dụng hình phạt bổ sung với họ.
Đối với ND18T phạm tội không được áp dụng các hình phạt bổ sung đối
với họ. Trong bốn hình phạt này thì ưu tiên áp dụng hình phạt cho bị cáo là
người dưới 18 tuổi bao gồm: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ. Còn
áp dụng hình phạt tiền khi xét thấy việc áp dụng các hình phạt trên không có
17


tính giáo dục, răn đe. Quy định này khắc phục loại hình phạt chủ yếu được áp
dụng đối với ND18T phạm tội là tù có thời hạn [1, tr.2].
Hình phạt cảnh cáo: Áp dụng đối với ND18T phạm tội ít nghiêm trọng và có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức được miễn hình phạt.
Hình phạt tiền: Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc
có tài sản riêng.
Hình phạt cải tạo không giam giữ: Hình phạt này áp dụng đối với người phạm
tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, thì hình phạt này được áp dụng cho loại tội phạm rất
nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ được áp dụng loại hình
phạt này, nếu loại tội là ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng được thực

hiện với lỗi vô ý, còn lỗi cố ý thì không được áp dụng loại hình phạt này và không
được khấu trừ thu nhập của họ. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với ND18T
phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.
- Hình phạt tù có thời hạn: là hình phạt nghiêm khắc nhất được áp dụng đối
với ND18T phạm tội nên phải tuân thủ các quy định mang tính nguyên tắc sau đây:
Đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu điều luật được áp
dụng đối với họ có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình
phạt cao nhất áp dụng đối với họ không được quá 12 năm tù, còn nếu là tù có thời
hạn thì mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với họ không được quá một phần hai
mức phạt tù mà điều luật đó đã quy định.
Đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu điều luật được áp
dụng đối với họ có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình
phạt cao nhất áp dụng đối với họ không được quá 18 năm tù, còn nếu là tù có thời
hạn thì mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với họ không được quá ba phần tư mức
phạt tù mà điều luật đó đã quy định.
Theo như hướng dẫn tại mục 11 của Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLHS thì khi QĐHP tù đối với ND18T phạm tội, Tòa án cần phải thực hiện theo
các bước như sau:
Trước hết, cần xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với trường hợp người phạm tội là người
từ 18 tuổi trở lên. Nếu ND18T phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì
18


mức hình phạt áp dụng đối với họ bằng một phần hai mức hình phạt áp dụng đối với
người từ 18 tuổi trở lên phạm tội được xác định như đã nêu ở trên. Nếu ND18T
phạm tội là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức hình phạt áp dụng đối với
họ bằng ba phần tư mức hình phạt áp dụng đối với người từ 18 tuổi trở lên phạm tội
được xác định như đã nêu ở trên. Nếu Tòa án xét thấy không nhất thiết phải áp dụng

hình phạt tù đối với người ND18T phạm tội thì có thể áp dụng các biện pháp tư
pháp là“Giáo dục tại xã, phường, thị trấn” và “Đưa vào trường giáo dưỡng”.
Ngoài ra, trong trường hợp ND18T phạm nhiều tội thì việc tổng hợp hình phạt
Tòa án phải tuân thủ đúng theo quy định tại các Điều Điều 103, Điều 55 BLHS
2015; cũng phải căn cứ vào các quy định về việc QĐHP trong trường hợp phạm
nhiều tội tại Điều 55 Bộ luật hình sự và tổng hợp hình phạt của nhiều bản án tại
Điều 56 BLHS năm 2015. Ngoài ra, Tòa án cũng phải chú ý đến trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do ND18T phạm tội gây ra theo quy định của BLDS người đại diện
hợp pháp của ND18T phạm tội bồi thường trong trường hợp ND18T không có tài
sản riêng. Trường hợp ND18T có tài sản riêng thì họ tự bồi thường. Nhà trường, tổ
chức quản lý phải liên đới bồi thường trong trường hợp có lỗi trong quản lý để
người dưới 15 tuổi gây thiệt hại.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.2.1. Quy định chung về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi theo hướng cụ thể, rõ ràng hơn so với
Điều 69 BLHS năm 1999 và khẳng định các nguyên tắc cơ bản về xử lý các hành vi
phạm tội của ND18T phạm tội như sau:
Nguyên tắc thứ nhất là “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm
lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã
hội...”. (Khoản 1 Điều 91). Đây là quy định bao trùm, mang tính chỉ đạo và thể hiện
tính nghiêm minh, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong quá
trình xử lý vụ án mà bị can, bị cáo là ND18T. Quy định này đặt ra mục đích chủ yếu
của việc xử lý ND18T phạm tội không nhằm mục đích trừng trị mà nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh và trở thành
công dân có ích cho xã hội. Chỉ trong trường hợp phạm tội có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội cao mới cần thiết phải áp dụng các biện pháp trừng trị họ.
Điều 91 BLHS năm 2015 có bổ sung thêm nguyên tắc “Việc xử lý người dưới
18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi” (khoản 1

19


Điều 91). Đây là quy định định hướng cho cán bộ tiến hành tố tụng khi quyết định
lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với ND18T phải tìm ra biện pháp áp dụng phù
hợp nhất đối với ND18T trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích khác cũng như
bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
Nguyên tắc thứ hai quy định về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội (khoản 2 Điều 91 BLHS hiện hành) trường hợp người
dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định của pháp luật
và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả thì có thể
được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục. Quy
định này trên cơ sở kế thừa Điều 69 BLHS 1999 theo hướng cơ quan tiến hành tố
tụng có thể xem xét, áp dụng việc miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, không quy
định quá cụ thể như Điều 69 BLHS năm 1999.
Theo đó, các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện
pháp giám sát, giáo dục gồm: người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít
nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều
134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều
141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép
chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận
chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều
252 (tội chiếm đoạt chất ma túy). Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất
nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật tức là phạm tội rất
nghiêm trọng thuộc một trong 28 tội danh mà BLHS năm 2015 quy định đối tượng
này phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều 123
(tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến

dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16
tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản
xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250
(tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma
túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy). Người dưới 18 tuổi là người đồng
phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án. Khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự
20


năm 2015, quy định miễn TNHS đối với ND18T phạm tội cụ thể hơn so với Bộ luật
hình sự năm 1999 phân chia theo độ tuổi tương ứng với mức độ nghiêm trọng của
hành vi phạm tội, loại tội phạm, mở rộng đối tượng được miễn trách nhiệm hình sự
đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, quy định cụ thể điều kiện miễn
trách nhiệm hình sự, đồng thời bổ sung quy định về việc áp dụng các biện pháp
giám sát, giáo dục đối với các em được miễn TNHS nhằm bảo đảm tính khả thi
cũng như hiệu quả áp dụng của chế định pháp lý này.
Việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục có thể
được áp dụng ở bất kỳ thời điểm nào của quá trình tố tụng đối với vụ án, bất kể ở
giai đoạn điều tra, truy tố, hay xét xử và do cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ
việc có thẩm quyền áp dụng. Quy định này không loại trừ việc ND18T được miễn
trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 của BLHS năm 2015 khi họ có đủ
điều kiện quy định tại Điều này. Một điểm khác biệt giữa hai chế định miễn trách
nhiệm hình sự này là miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 đồng
nghĩa với việc trả tự do hoàn toàn cho người được miễn trách nhiệm hình sự, trong
khi đó, người được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 91 sẽ phải chịu sự
giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức trong một thời hạn nhất định tuỳ từng
trường hợp cụ thể. Do đó, chỉ miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giám
sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 29 của BLHS năm 2015.
Nguyên tắc thứ ba quy định về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với

người dưới 18 tuổi phạm tội (Khoản 3 Điều 91) chỉ trong trường hợp cần thiết mới
tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với ND18T phạm
tội. Yêu cầu này để đảm bảo đạt được mục đích “...chủ yếu là giảo dục, giúp họ sửa
chữa sai lầm... ” (khoản 1 Điều 91 Bộ luật hình sự hiện hành), để áp dụng nguyên
tắc này phải căn cứ vào loại tội phạm mà họ thực hiện, tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm cùng những yếu tố khác
(như nhân thân, sự ăn năn hối cải của người phạm tội, yêu cầu của cuộc đấu tranh
chống, phòng ngừa tội phạm, chính sách hình sự của Nhà nước trong từng giai
đoạn,...) và các tình tiết khác của vụ án. Nguyên tắc này thể hiện tính nhân đạo sâu
sắc. Không phải mọi trường hợp ND18T phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi nó thực sự cần thiết và xuất

21


×