Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Luận văn thạc sỹ lâm nghiệp đề tài: Quy hoạch chuyển hoá rừng trồng mỡ (manglietia conifera dandy) cung cấp gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn tại lâm trường yên sơn – tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 96 trang )

1

Tuyên Quang ĐẶT VẤN ĐỀ
Mỡ (Manglietia conifera Dandy) với đặc điểm sinh trưởng nhanh, tỉa
cành tự nhiên tốt, tái sinh chồi mạnh trong 20 đến 25 năm đầu, có thể kinh
doanh một, hai luân kỳ tiếp theo với năng suất cao. Là một trong những loài
cây gỗ có nhiều công dụng, gỗ Mỡ dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp gỗ
dán lạng, nguyên liệu giấy, gỗ xây dựng, gỗ gia dụng, gỗ trụ mỏ…Chính vì
vậy, đã từ lâu Mỡ được chọn là một trong những loài cây trồng chính ở hầu hết
các tỉnh miền Bắc nước ta.
Trong những năm gần đây cùng với các loài cây trồng khác, Mỡ được
trồng tập trung ở các tỉnh thuộc vùng Trung tâm ẩm miền Bắc Việt Nam như
Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Phú Thọ với mục đích kinh doanh
chủ yếu là cung cấp gỗ nhỏ làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp giấy sợi.
Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất
nước nói chung, sự phát triển của Ngành Lâm nghiệp nói riêng, trong khi
rừng tự nhiên đã cạn kiệt, không còn khả năng khai thác, nhu cầu về cung cấp
gỗ đặc biệt là gỗ lớn phục vụ công nghiệp chế biến ngày càng gia tăng thì việc
nghiên cứu, xây dựng vùng nguyên liệu cung cấp loại gỗ này lâu dài là hết
sức cần thiết, không những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn hướng tới
xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu tiến hành trồng mới từ bây giờ thì ít nhất 20 - 25
năm sau mới có thể cho khai thác gỗ lớn phục vụ công nghiệp chế biến.
Hiện nay, tại Lâm trường Yên Sơn – Tuyên Quang có diện tích rừng
Mỡ rất lớn, được trồng với mật độ khá dày với mục đích cung cấp gỗ nhỏ.
Nếu được chuyển hóa các loại rừng này thành rừng cung cấp gỗ lớn phục vụ
công nghệ chế biến thì chỉ trong 5 - 10 năm tới chúng ta sẽ có nguồn cung cấp
loại gỗ này. Không những làm tăng sản lượng gỗ đáp ứng nhu cầu gỗ ngày
càng cao, giảm được chi phí trồng ban đầu, giảm quá trình xói mòn đất mà


2


còn có thể tạo nguồn thu nhập lớn nhằm tái tạo rừng, tăng khả năng hấp thụ
khí CO2 trong không khí, đạt hiệu quả cao về môi trường và góp phần nâng
cao đời sống của người dân.
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần quy hoạch chuyển hoá nhanh các diện
tích rừng trồng Mỡ trên để mang lại hiệu quả cao về kinh tế - xã hội - môi
trường, nâng cao đời sống và thu nhập cho các hộ gia đình và cho Lâm
trường. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào về quy hoạch chuyển
hoá cho rừng Mỡ ở Lâm trường Yên Sơn – Tuyên Quang. Đề tài: “Quy
hoạch chuyển hoá rừng trồng Mỡ (Manglietia conifera Dandy) cung cấp
gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn tại Lâm trường Yên Sơn – Tuyên
Quang” sẽ góp phần giải quyết tồn tại này. Phương pháp tiếp cận của đề tài là
xây dựng các mô hình lý thuyết chuyển hóa rừng cung cấp gỗ nhỏ thành rừng
cung cấp gỗ lớn phục vụ công nghiệp chế biến, làm cơ sở xây dựng quy hoạch
chuyển hoá rừng.


3

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Một số đặc điểm sinh vật học của loài Mỡ
Loài Mỡ có tên khoa học là Manglietia conifera Dandy, phân bố tự
nhiên ở Việt Nam, Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan. Ở nước ta, Mỡ phân bố
nhiều ở các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang. Ngoài ra Mỡ còn phân bố ở
các tỉnh khác như Hà Giang, Lào Cai, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh,
Thanh Hoá Nghệ An, Hà Tĩnh.
Mỡ là loài cây ưa sáng, nhưng giai đoạn tuổi nhỏ biểu thị trung tính.
Cây Mỡ có thân thẳng và tròn, chiều cao tới trên 20m, đường kính có thể đạt
tới trên 60cm, sinh trưởng nhanh ở giai đoạn 15 - 20 năm đầu. Tán hình tháp,
vỏ nhẵn màu xanh xám, không nứt, lớp vỏ trong màu trắng ngà, thơm nhẹ.

Cành non mọc gần thẳng góc với thân chính, màu xanh nhạt. Lá đơn mọc
cách, hình trứng ngược hoặc trái xoan. Phiến lá dài 15-20cm, rộng 4-6cm. Hai
mặt lá nhẵn, mặt trên là màu lục sẫm, mặt dưới nhạt hơn, gân lá nổi rõ. Hoa
màu trắng, mọc lẻ ở đầu cành, dài 6-8cm. Bao hoa 9 cánh, 3 cánh bên ngoài
có màu phớt xanh. Nhị nhiều, chỉ nhị ngắn. Nhị và nhuỵ xếp sát nhau trên đế
hoa hình trụ. Nhuỵ có nhiều lá noãn rời xếp xoắn ốc tạo thành khối hình
trứng, vòi nhuỵ ngắn. Quả đại kép, nứt bung. Mỗi đại mang 5-6 hạt. Hạt nhẵn
vỏ hạt đỏ thơm nồng.
Cây Mỡ sinh trưởng thích hợp ở những vùng có nhiệt độ trung bình
hàng năm khoảng từ 220C đến 240C, chịu được nhiệt độ tối cao là 42 0C và tối
thấp tuyệt đối là -10C, thích hợp với độ ẩm không khí hàng năm khoảng trên
80%, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1400 - 2000mm. Cây Mỡ mọc tốt ở
những vùng địa hình đồi thấp, đồi bát úp xen kẽ ruộng, độ cao so với mặt biển
thường dưới 400m. Đất trồng Mỡ thích hợp nhất là đất feralit đỏ - vàng hoặc


4
vàng - đỏ phát triển trên phiến thạch sét hoặc phiến thạch mica, tầng đất sâu,
ẩm, thoát nước, tơi xốp, nhiều mùn, thành phần cơ giới từ thịt đến sét nhẹ.
Giá trị kinh tế: Gỗ Mỡ mềm, nhẹ, thớ thẳng, mịn, ít co rút, chịu được
mưa nắng, ít bị mối mọt, giác gỗ có màu trắng xám, lõi gỗ màu vàng nhạt hơi
có ánh bạc. Gỗ Mỡ thường được dùng làm nhà cửa, đóng đồ gia dụng, gỗ
nguyên liệu giấy, gỗ trụ mỏ, gỗ dán, lạng, bút chì…
Mỡ trồng thành rừng ở Yên Bái vào năm 1932. Đến nay, Mỡ đã trở
thành loài cây quen thuộc được trồng thành rừng từ Hà Tĩnh trở ra Bắc. Sau
khi khai thác có thể kinh doanh rừng chồi. Rừng Mỡ trồng thuần loài sau 20
tuổi tốc độ sinh trưởng chậm rõ rệt.
1.2. Các nghiên cứu trên thế giới về quy hoạch và kỹ thuật chuyển hoá rừng
1.2.1. Quy hoạch lâm nghiệp
Quy hoạch rừng phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế tư

bản chủ nghĩa. Trong thời đại kinh tế tư bản, sản xuất công nghiệp và giao
thông vận tải phát triển nên khối lượng gỗ yêu cầu ngày càng cao. Đầu thế kỷ
XVIII quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ bó hẹp trong phạm vi “Khoanh khu chặt
chuyển”, nhưng sang thế kỷ XIX phương thức kinh doanh rừng chồi được
thay thế bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác dài,
phương thức “Khoanh khu chặt chuyển” nhường chỗ cho phương thức “Chia
đều” của Hartig và xuất hiện phương pháp “Phân kỳ lợi dụng” của H. Cotta
vào năm 1816. Phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời và đến cuối thế kỷ
XIX có phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich. Phương pháp “Bình
quân thu hoạch” sau này là phương pháp “Cấp tuổi” và phương pháp “Lâm
phần kinh tế” hiện nay là phương pháp “Lâm phần”. Ngoài ra còn “Phương
pháp kinh doanh lô” và “Phương pháp kiểm tra”.


5
Quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng hình thành môn học đầu tiên ở
nước Đức, Áo và mãi đến thế kỷ XVIII trở thành môn học hoàn chỉnh và độc
lập. Hiện nay, tuỳ theo mục đích, nhiệm vụ của quy hoạch lâm nghiệp đảm
bảo trong từng nước, trong từng địa phương và trong từng điều kiện hoàn
cảnh mà môn học có tên gọi và nội dung khác nhau. Ở Liên Xô cũ có tên gọi
là “Quy hoạch rừng”, ở một số nước có trình độ kinh doanh cao hơn và công
tác quy hoạch đòi hỏi tỉ mỉ hơn (Đức, Áo, Thuỵ Điển, …) môn học có tên là
“Thiết kế rừng”.
1.2.2. Chuyển hóa rừng
Chuyển hóa rừng là những tác động kỹ thuật lâm sinh vào lâm phần
hiện tại để chuyển hóa nó thành những lâm phần đã được ấn định trước trong
tương lai nhằm đạt được mục đích kinh doanh. Như vậy, chuyển hóa rừng thực
chất là chặt nuôi dưỡng rừng áp dụng đối với các lâm phần còn non và đã có
trữ lượng với mục đích nâng cao sinh trưởng lâm phần và chất lượng gỗ.
Chặt nuôi dưỡng rừng là một khâu quan trọng trong việc điều khiển quá

trình hình thành rừng và là biện pháp thay đổi định hướng phát triển của cây
rừng và lâm phần trước khi thu hoạch nhưng không thay thế nó bằng một lâm
phần mới (K. Wenger. 1984). Như vậy, “chặt nuôi dưỡng là biện pháp chính
để nuôi dưỡng rừng bằng cách chặt bớt đi một số cây rừng nhằm tạo điều
kiện cho những cây phẩm chất tốt được giữ lại sinh trưởng, nuôi dưỡng hình
thân, tạo tán, tăng lượng sinh trưởng, cải thiện chất lượng gỗ và nâng cao
các chức năng có lợi khác của rừng”.
Chặt nuôi dưỡng là một khái niệm tổng quát, bao gồm mọi biện pháp
nhằm loại bỏ một cách có chọn lọc một số cây rừng hoặc một bộ phận cây
rừng để mở rộng tán lá và phạm vi phân bố của hệ rễ cho các cây được giữ lại
trong giai đoạn nuôi dưỡng rừng. Ở giai đoạn trước khi rừng thành thục, chặt
nuôi dưỡng không chỉ hoàn thành chức năng chủ yếu của mình theo mục đích


6
kinh doanh mà trong nhiều trường hợp còn tạo ra những tiền đề thuận lợi cho
quá trình tái sinh phục hồi rừng và khai thác chính sau này. Chặt nuôi dưỡng
không đặt mục tiêu tái sinh rừng và thu hoạch sản phẩm trước mắt làm mục
đích chính mà mục tiêu có tính chiến lược là: “nuôi dưỡng những cây tốt nhất
thuộc nhóm mục đích kinh doanh”.
Trên thế giới, nhiều nước đều quan tâm đến chặt nuôi dưỡng. Chủng
loại và phương pháp chặt rất khác nhau, tên gọi cũng không giống nhau,
nhưng ý tưởng là như nhau, nội dung tương tự nhau.
Các nhà lâm nghiệp Mỹ (1925) cho rằng chặt nuôi dưỡng là quá trình
áp dụng các nguyên tắc kỹ thuật lâm sinh và phương pháp kinh doanh để đạt
được mục đích kinh doanh. Nước Mỹ chia chặt nuôi dưỡng ra làm 5 loại: (1)
Chặt loại trừ, chặt những cây chèn ép, không dùng, thứ yếu (2) Chặt tự do
chặt bỏ những cây gỗ tầng trên; (3) Chặt tỉa thưa và chặt sinh trưởng; (4) Chặt
chỉnh lý, chặt các loài cây thứ yếu, hình dáng và sinh trưởng kém; (5) Chặt gỗ
thải, chặt các cây bị hại[14].

Phương pháp chặt nuôi dưỡng của Nhật bản thường chia làm 2 loại:
Loại thứ nhất căn cứ vào ngoại hình cây rừng chia ra 5 cấp để tiến hành chặt
nuôi dưỡng; nhưng do kỹ thuật của mỗi người khác nhau nên khó đạt được
một tiêu chuẩn nhật định. Loại thứ hai chia ra 3 cấp gỗ tốt, gỗ vừa và gỗ
xấu và yêu cầu phải có cùng đường kính trong không gian như nhau.
Phương pháp này đơn giản dễ thực hiện. Ngoài ra năm 1970 áp dụng
phương pháp cây ưu thế. Phương pháp này đơn giản dễ làm, chủ yếu dựa
vào giá trị sản xuất và lợi ích hiện tại. Ở Nhật Bản, người ta rất coi trọng
chặt nuôi dưỡng, từ năm 1981 đến nay chặt nuôi dưỡng trở thành chính
sách lớn nhất của Lâm nghiệp Nhật Bản[14].
Năm 1950 Trung quốc đã ban hành quy trình chặt nuôi dưỡng chủ yếu
là dựa vào các giai đoạn tuổi của lâm phần, đưa ra nhiệm vụ và quy định thời


7
kỳ chặt và phương pháp chặt nuôi dưỡng. Thời kỳ phát triển khác nhau thì cây
rừng có những đặc điểm sinh trưởng khác nhau và do đó nhiệm vụ chặt nuôi
dưỡng cũng ở mức độ khác.[14]
Sự phát triển của khoa học chuyển hóa rừng gắn chặt với phát triển của
Lâm nghiệp. Hiện nay, có nhiều chương trình quốc gia và quốc tế về chuyển
hóa rừng: Chuyển hóa rừng thuần loại thành rừng hỗn loài, chuyển hoá rừng
giống, chuyển hóa rừng gỗ nhỏ thành rừng gỗ lớn, …
Chặt nuôi dưỡng rừng còn gọi là “chặt trung gian nuôi dưỡng”. Trong
khi rừng chưa thành thục, để tạo điều kiện cho cây gỗ còn lại sinh trưởng và
phát triển tốt nhất, cần phải chặt bớt một phần cây gỗ. Do thông qua chặt tỉa
bớt một phần cây gỗ mà thu được một phần lợi nhuận, chặt chăm sóc trước
khi chặt chính thu được một số lượng gỗ, nên gọi là “chặt lợi dụng trung
gian” gọi tắt là “chặt trung gian”.
- Phân tích sản lượng: Người ta có thể tiến hành phân tích những cây
sinh trưởng mạnh nhất theo các cấp tuổi khác nhau và khi nào thì giảm xuống

để chặt nuôi dưỡng.
- Mức độ phân hoá cây rừng: Việc xác định có thể dựa vào một số tiêu
chí sau: Phân cấp cây rừng; Độ phân tán của đường kính lâm phần.
- Hình thái bên ngoài của lâm phần: Có thể căn cứ động thái hình tán hay
độ cao tỉa cành tự nhiên.
- Xác định cường độ chặt nuôi dưỡng.
*Thể hiện cường độ chặt nuôi dưỡng có hai phương pháp:
+ Tính theo tỷ lệ thể tích gỗ cây chặt chiếm trong thể tích gỗ toàn lâm
phần của mỗi lần chặt: Pv= v/V x 100% (v là thể tích cây chặt, V là sản lượng
lâm phần).


8
+ Dựa vào tỷ lệ số cây trong mỗi lần chặt chiếm trong tổng số cây
toàn lâm phần: Pn = n/N x100% (n là số cây cần chặt, N là tổng số cây của
lâm phần)
* Xác định cường độ chặt có hai phương pháp: Phương pháp định tính
và phương pháp định lượng.
- Xác định cây chặt: Cần đào thải các cây có phẩm chất xấu và sinh
trưởng kém, để lại những cây sinh trưởng mạnh, cao lớn, thẳng tròn.
- Xác định kỳ gián cách - Chu kỳ chặt nuôi dưỡng: Kỳ gián cách dài hay
ngắn cần xem xét tốc độ khép tán và lượng sinh trưởng hàng năm, cường độ
chặt nuôi dưỡng càng lớn thì kỳ gián cách càng dài. Kỳ gián cách ở một số
nước xác định từ 5 - 10 năm.
1.2.3. Các yếu tố kỹ thuật làm cơ sở xây dựng phương pháp chuyển hoá rừng
1.2.3.1. Sinh trưởng, tăng trưởng rừng .
Nghiên cứu sinh trưởng và tăng trưởng của các loài cây gỗ đã được đề
cập đến từ thế kỷ 18. Nhưng phát triển mạnh mẽ nhất là sau đại chiến thế giới
lần thứ nhất. Về lĩnh vực này phải kể đến tác giả tiêu biểu như: Tuorsky
(1925), Tovstolev(1938), Tiorin(1936, 1938), Chapmen và Meyer (1949),

Assman (1954, 1961, 1970), Grossman (1961, 1964), …nhìn chung các
nghiên cứu về sinh trưởng của cây rừng và lâm phần, phần lớn đều được xây
dựng thành các mô hình toán học chặt chẽ và đã được công bố trong các công
trình của Meyer, H.A, và Stevenson, D.D (1943), Schumacher, F.X và Coile,
T.X (1960), Clutter, J.L, Allison, B.J (1973), Alder (1980).
1.2.3.2. Cấp đất
Trên thế giới, trải qua một thời gian dài hình thành và phát triển, cấp
đất được xây dựng theo nhiều quan điểm khác nhau. Nội dung chính của việc
phân chia cấp đất là xác định nhân tố biểu thị cấp đất và mối quan hệ của nó
với tuổi. Qua nghiên cứu nhiều tác giả đã khẳng định: chiều cao của lâm phần


9
ở một tuổi xác định là chỉ tiêu biểu thị tốt cho sức sản xuất của lâm phần. Tại
các nước châu Á thường sử dụng chiều cao bình quân lâm phần ở từng độ tuổi
để phân chia cấp đất và sử dụng các hàm sinh trưởng để mô tả cấp đất.
1.2.3.3. Sản lượng rừng.
Sản lượng rừng được cấu thành bởi nhiều đại lượng như: trữ lượng,
tổng tiết diện ngang, đường kính bình quân, chiều cao bình quân, tổng diện
tích tán. ..
Thomasius (1972) xác định mật độ tối ưu lâm phần thông qua nghiên
cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng thể tích với diện tích dinh dưỡng từng cây.
Nhưng Thuật Hùng (1989) xác định mật độ tối ưu trên cơ sở độ đầy lâm phần.
Wenk (1990) đề nghị xác định mật độ tối ưu trên cơ sở tăng trưởng lâm phần.
Alder (1980) đã dựa vào mối quan hệ giữa tiết diện với H 0 và N,
Abdalla (1985) đã sử dụng mối quan hệ giữa Hg với H 0 để dự đoán tổng tiết
diện ngang lâm phần ở các thời điểm cần thiết.
1.2.3.4. Định lượng cấu trúc lâm phần.
Để nghiên cứu và mô tả quy luật cấu trúc đường kính thân cây hầu hết
tác giả tìm các phương trình toán học dưới nhiều dạng phân bố xác suất khác

nhau như: Baley(1973) đã sử dụng hàm Weibull; Prodan, M(1964) tiếp cận
phân bố này bằng phương trình chính thái; Diachenco, Z.N sử dụng phân bố
Gamma.…
Quy luật quan hệ giữa chiều cao với đường kính thân cây:
Tovstolesse, D.I(1930) lấy cấp đất làm cơ sở để nghiên cứu quan hệ H/D.
Krauter, G(1958) nghiên cứu H/D dựa trên cơ sở cấp đất và cấp tuổi. Để
xác lập mối quan hệ H/D nhiều tác giả đã đề xuất sử dụng các dạng phương
trình toán học khác nhau.
Quy luật quan hệ giữa đường kính tán với đường kính ngang ngực của
cây: nhiều tác giả đã đi đến kết luận giữa đường kính tán và đường kính thân


10
cây có mối quan hệ mật thiết như: Zieger (1928), Cromer.O.A.N (1948),
Miller.J (1953) … phổ biến nhất là dạng phương trình đường thẳng.
1.3. Các nghiên cứu ở trong nước
1.3.1. Quy hoạch lâm nghiệp
Quy hoạch lâm nghiệp áp dụng ở nước ta ngay từ thời Pháp thuộc. Năm
1955 – 1957, tiến hành sơ thám và mô tả để ước lượng tài nguyên rừng. Năm
1958 – 1959, tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc. Tới năm 1960 –
1964, công tác quy hoạch lâm nghiệp được áp dụng ở miền Bắc. Từ năm 1965
lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được tăng cường, mở rộng và
ngày càng phù hợp với trình độ và thực tế tài nguyên rừng của nước ta. Vào
đầu thập kỷ 90, các vấn đề về quy hoạch cấp vi mô đã được nhiều tác giả đề
cập đến.
1.3.2. Chuyển hóa rừng
Ở Việt Nam, chuyển hóa rừng cũng được thực hiện từ thời Pháp thuộc
như: chuyển hóa rừng tự nhiên thành rừng cung cấp gỗ. Ngày nay, nhu cầu về
chuyển hoá ngày càng gia tăng do nhu cầu phát triển của xã hội và do thị
trường đòi hỏi. Các hướng chuyển hoá chính thường tập trung chủ yếu vào

một số mảng sau: chuyển hoá rừng giống, chuyển hoá rừng thuần loài thành
rừng hỗn loài, chuyển hoá rừng cây thuần loài thành rừng cây bản địa, chuyển
hoá rừng cung cấp gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn…Tuy nhiên, chuyển
hóa rừng ở nước ta chưa được tập hợp thành hệ thống chặt chẽ, vì vậy cần xây
dựng hệ thống lý luận và thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu của kinh doanh
rừng ở nước ta.
1.3.3. Các yếu tố kỹ thuật làm cơ sở xây dựng phương pháp chuyển hoá rừng
1.3.3.1. Sinh trưởng, tăng trưởng lâm phần
Phùng Ngọc Lan(1985)[22] đã khảo nghiệm một số phương trình sinh
trưởng cho một số loài cây như: Mỡ, Thông đuôi ngựa, Bồ đề, Bạch đàn


11
Nguyễn Ngọc Lung(1999)[26] cũng đã cho thử nghiệm các hàm:
Gompertz, Schumacher để mô tả quá trình sinh trưởng của loài Thông ba lá
tại Đà Lạt - Lâm Đồng. Và tác giả đề nghị dùng phương trình Schumacher để
mô tả quy luật sinh trưởng cho một số đại lượng. Tác giả cũng đã giới thiệu
một số hàm sinh trưởng triển vọng nhất được thử nghiệm với các loài cây
mọc nhanh ở Việt Nam như: Gompertz, Koller, Schumacher, Kort, …
Các kết quả nghiên cứu về tăng trưởng rừng còn được giới thiệu qua
các ấn phẩm của các công trình nghiên cứu cấp nhà nước, cấp ngành, như:
Nguyễn Ngọc Lung (1999)[26], Vũ Tiến Hinh (2000)[17], Đào Công Khanh
(2001)[21]. Trong các luận án tiến sĩ của các tác giả: Nguyễn Thị Bảo Lâm
(1996)[23], Trần Cẩm Tú (1999)[36], Nguyễn Văn Dưỡng (2000)[9].
1.3.3.2. Cấp đất
Vũ Đình Phương (1972)[29] đã tiến hành lập biểu cấp đất cho rừng Bồ đề.
Vũ Nhâm (1988)[28] đã dùng hàm Korf để lập biểu cấp đất tạm thời
cho rừng Thông đuôi ngựa.
Nguyễn Trọng Bình (1996)[4] đã nghiên cứu mối quan hệ giữa kỳ vọng
toán và phương sai của từng đại lượng sinh trưởng cho một số loài cây.

Hoàng Xuân Y (1997)[40], Lập biểu cấp đất và xây dựng một số mô hình
sản lượng làm cơ sở lập biểu quá trình sinh trưởng rừng Mỡ vùng nguyên liệu giấy.
1.3.3.3. Sản lượng rừng
Nguyễn Thị Bảo Lâm (1996)[23] đã lập biểu quá trình sinh trưởng rừng
Thông đuôi ngựa kinh doanh gỗ mỏ khu Đông Bắc Việt Nam.
Trịnh Đức Huy (1988)[20] đã lập biểu dự đoán trữ lượng và năng suất
gỗ của đất trồng rừng Bồ đề khu trung tâm Bắc Việt Nam.
Vũ Tiến Hinh (2000)[17] đã tiến hành: Lập biểu sinh trưởng và sản
lượng cho 3 loài cây: Sa mộc, Thông đuôi ngựa và Mỡ ở các tỉnh phía Bắc.


12
Nhìn chung các mô hình dự đoán sinh trưởng đều xuất phát từ việc
nghiên cứu mối quan hệ giữa các đại lượng sinh trưởng với mật độ và chỉ
tiêu biểu thị cho cấp đất, ngoài ra còn dựa vào mô hình động thái cấu trúc
đường kính.
1.3.3.4. Định lượng các quy luật cấu trúc lâm phần
+ Cấu trúc đường kính thân cây rừng
Với rừng tự nhiên nước ta: Đồng Sỹ Hiền (1974)[15] đã chọn hàm
Meyer, Nguyễn Hải Tuất (1986)[38] chọn hàm Khoảng cách…
Với lâm phần thuần loài, đều tuổi giai đoạn còn non và giai đoạn trung
niên, các tác giả: Trịnh Đức Huy (1987, 1988)[20], Vũ Nhâm (1988)[28], Vũ
Tiến Hinh (1990)[16], Phạm Ngọc Giao (1989, 1996)[12][13]...đều nhất trí
đường biểu diễn quy luật phân bố N/D có dạng lệch trái và có thể dùng hàm
toán học khác nhau như: Hàm Weibull, hàm Scharlier...
+ Nghiên cứu quy luật tương quan giữa chiều cao với đường kính cây rừng
Vũ Đình Phương (1985)[30] thiết lập biểu cấp chiều cao lâm phần Bồ đề
tự nhiên từ phương trình parabol bậc hai mà không cần phân biệt cấp đất và tuổi.
Vũ Nhâm (1988)[28] đã xây dựng được mô hình đường cong chiều cao
lâm phần cho Thông đuôi ngựa khu vực Đông Bắc.

Ngoài ra còn rất nhiều tác giả khác trong quá trình nghiên cứu cấu trúc,
sinh trưởng, sản lượng rừng đã đề cập tới quy luật tương quan H/D.
+ Nghiên cứu tương quan giữa đường kính tán và đường kính ngang ngực.
Vũ Đình Phương (1985)[30] đã khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa
đường kính tán và đường kính ngang ngực theo dạng phương trình đường thẳng.
Phạm Ngọc Giao (1996)[13] đã xây dựng mô hình động thái tương
quan giữa DT/D1.3 với rừng Thông đuôi ngựa khu Đông Bắc.


13
1.3.3.5. Chặt nuôi dưỡng
Chặt nuôi dưỡng ở Việt Nam còn tương đối mới mẻ và phần lớn chủ
yếu nghiên cứu cho chặt nuôi dưỡng ở rừng thuần loài đều tuổi, tuy vậy các
kết quả bước đầu nghiên cứu đã giúp từng bước xây dựng thành công hệ
thống các biện pháp kỹ thuật lâm sinh cho chặt nuôi dưỡng rừng ở nước ta.
Một số kỹ thuật chặt nuôi dưỡng cho rừng trồng đã được kiểm nghiệm
trong thực tiễn sản xuất và được công nhận là tiêu chuẩn ngành như: Chặt
tỉa thưa rừng Thông nhựa, chặt tỉa thưa rừng Thông đuôi ngựa, chặt tỉa thưa
rừng Mỡ…
 Một số nhận định
Chuyển hoá rừng là một khái niệm còn tương đối mới mẻ. Thực chất
chuyển hoá rừng chính là chặt nuôi dưỡng và quá trình tỉa thưa đã được các
nước trên thế giới nghiên cứu trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên, do đặc
tính sinh vật học mỗi loài cây rừng khác nhau, cấu trúc rừng khác nhau, mật
độ rừng khác nhau và mục đích kinh doanh khác nhau mà cần có các biện
pháp kỹ thuật chuyển hoá khác nhau. Ở Việt Nam, chuyển hoá rừng đã từng
bước được tiến hành ở một số đối tượng như; chuyển hoá rừng giống, chuyển
hoá rừng thuần loài thành hỗn loài, chuyển hoá rừng trồng Keo lai nguyên
liệu giấy thành rừng gỗ công nghiệp[27]…Tuy nhiên, việc áp dụng vẫn còn
hạn chế do gặp rất nhiều khó khăn về kỹ thuật, vốn…Trong giai đoạn tới, quá

trình tiến tới toàn cầu hoá sẽ làm cho tính cạnh tranh ngày càng cao, nhu cầu
về lâm sản ngày càng gia tăng đặc biệt đối với nhu cầu về gỗ lớn. Vì vậy, việc
chuyển hoá nhanh rừng cung cấp gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn là việc
làm tiên quyết không những giúp cho ngành chế biến xuất khẩu gỗ nói riêng
mà còn cho cả ngành Lâm Nghiệp nói chung.
Chặt chuyển hoá là một bộ phận của chặt nuôi dưỡng, tuy nhiên chặt
chuyển hoá cũng có những nét riêng biệt so với các loại chặt nuôi dưỡng


14
khác. Đối với chặt chuyển hoá rừng cung cấp gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ
lớn thì chặt chuyển hoá chỉ áp dụng với các lâm phần trong giai đoạn còn non
hoặc gần thành thục, đã có trữ lượng và nằm trên các cấp đất tốt (I, II, III).
Mặt khác, các phương pháp áp dụng trong chặt chuyển hóa thường là phương
pháp tổng hợp của hai hay nhiều các phương pháp chặt nuôi dưỡng khác
nhau. Do vậy, việc thiết kế, bố trí, thực hiện các biện pháp kỹ thuật áp dụng
cần phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa các phương pháp với nhau.
Rừng trồng Mỡ ở Lâm trường Yên Sơn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên
Quang chiếm một diện tích khá lớn, được đem vào gây trồng cách đây khoảng
30 năm với mục đích chính là cung cấp gỗ nhỏ làm nguyên liệu cho các nhà
máy chế biến nguyên liệu giấy sợi. Chính vì vậy, mà mật độ trồng rừng ban
đầu tương đối dầy, các rừng Mỡ hiện tại đạt từ tuổi 5 đến tuổi 20 chiếm phần
lớn diện tích, đa số đã có sự phân hoá, tỉa thưa tự nhiên và các tác động nhân
tạo. Do vậy mà mật độ hiện tại và sự phân bố cây trong lâm phần là không
đều, do đó muốn chuyển hoá các lâm phần này cần xây dựng các mô hình lý
thuyết ở các cấp tuổi khác nhau từ đó làm cơ sở xây dựng quy hoạch chuyển
hoá rừng.


15


Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu.
- Mục tiêu tổng quát:
Quy hoạch chuyển hóa rừng trồng Mỡ cung cấp gỗ nhỏ đạt các yêu cầu
chuyển hoá thành rừng cung cấp gỗ lớn phục vụ cho công nghiệp chế biến tại
Lâm trường Yên Sơn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Xây dựng được cơ sở kinh tế cho quy hoạch chuyển hoá rừng trồng
cung cấp gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn.
+ Xây dựng được cơ sở kỹ thuật cho quy hoạch chuyển hoá rừng trồng
cung cấp gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn.
+ Quy hoạch chuyển hoá rừng trồng Mỡ dựa trên điều kiện thực tế địa
phương và hiện trạng rừng trồng Mỡ của đối tượng nghiên cứu.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Rừng trồng Mỡ đạt yêu cầu chuyển hoá, đó là các lâm phần Mỡ đã
được trồng ở các thời điểm khác nhau, mật độ khác nhau, trên các cấp đất
khác nhau (I, II, III) và đã có trữ lượng để cung cấp gỗ nhỏ.
Các lâm phần tham gia chuyển hoá phải có tuổi từ 5 - 15 năm vì giai
đoạn này Mỡ sinh trưởng và phát triển mạnh nhất sẽ nhanh chóng đạt kích
thước gỗ lớn. Mặt khác, theo Vũ Tiến Hinh (2000)[17] đã khẳng định rằng:
Zv (tăng trưởng thường xuyên hàng năm về thể tích) đạt cực đại sớm nhất ở
tuổi 15, chậm nhật ở tuổi 17 và chu kỳ kinh doanh cho các lâm phần Mỡ với
mục đích trồng rừng nguyên liệu được xác định là 20 năm.
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Lâm trường Yên Sơn, xã Trung Sơn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.



16
2.2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Kinh tế:
Đề tài chỉ đưa ra một số dự đoán hiệu quả kinh tế dựa trên cơ sở suy
đoán tăng trưởng bình quân hàng năm và giá trị thương phẩm gỗ lớn trên
thị trường.
- Kỹ thuật:
+ Mô phỏng các quy luật N - D1.3 (Phân bố giữa số cây và đường kính
1.3m), tương quan Hvn - D1.3 (Tương quan giữa chiều cao vút ngọn với đường kính
1.3m), DT - D1.3 (Tương quan giữa đường kính tán với đường kính 1.3m) dựa trên
các mô phỏng lý thuyết đã được các tác giả nghiên cứu trước lựa chọn.
+ Xây dựng các yếu tố kỹ thuật chuyển hoá trên cơ sở vận dụng lý
thuyết chặt nuôi dưỡng và qui trình tỉa thưa rừng trồng Mỡ đã được ban hành
của Bộ Lâm Nghiệp (1982) nay là Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Điều tra phân tích điều kiện cơ bản và tình hình sản xuất kinh doanh
lâm nghiệp trên địa bàn nghiên cứu ảnh hưởng đến quy hoạch chuyển hoá
rừng trồng Mỡ
- Điều kiện tự nhiên.
- Điều kiện kinh tế - xã hội.
- Tình hình sản xuất kinh doanh trước kia và hiện nay.
- Phân tích điều kiện cơ bản ảnh hưởng đến quy hoạch chuyển hoá rừng
trồng Mỡ.
2.3.2. Điều tra hiện trạng rừng trồng Mỡ và xác định đối tượng rừng trồng
Mỡ hiện tại đạt yêu cầu về tuổi, mật độ và phân bố trên các cấp đất khác
nhau để quy hoạch chuyển hoá
- Điều tra về hiện trạng rừng trồng Mỡ về diện tích, mật độ, tuổi trên
các cấp đất khác nhau.



17
- Xác định đối tượng chuyển hoá.
2.3.3. Nghiên cứu cơ sở kinh tế và kỹ thuật làm cơ sở cho chuyển hoá rừng
- Nghiên cứu các chính sách, cơ chế, tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững
và thị trường gỗ nguyên liệu làm cơ sở cho thực hiện chuyển hoá.
- Nghiên cứu và xác định các quy luật cấu trúc cơ bản làm cơ sở xây
dựng mô hình lý thuyết chuyển hoá rừng trồng gỗ nhỏ thành rừng trồng gỗ
lớn phục vụ cho công nghiệp chế biến cho mỗi đối tượng chuyển hoá.
2.3.4. Xác định các yếu tố cơ bản thực hiện chuyển hoá rừng
- Xác định phương thức chuyển hoá.
- Xác định phương pháp chuyển hoá.
- Xác định thời điểm chặt chuyển hoá.
- Xác định cường độ chặt chuyển hoá.
- Xác định chu kỳ chặt chuyển hoá.
- Xác định cây chặt chuyển hoá.
2.3.5. Quy hoạch chuyển hoá rừng
- Xác định phương hướng, nhiệm vụ quy hoạch chuyển hoá.
+ Căn cứ xác định.
+ Phương hướng quy hoạch chuyển hoá.
+ Nhiệm vụ của quy hoạch chuyển hoá.
- Xác định sản lượng chặt chuyển hoá và dự đoán sản lượng.
- Bố trí địa điểm chuyển hoá theo thời gian.
2.3.6. Dự đoán hiệu quả của quy hoạch chặt chuyển hoá
- Kinh tế.
- Xã hội.
- Môi trường.
2.3.7. Giải pháp thực hiện quy hoạch chặt chuyển hoá
- Về tổ chức.



18
- Về kỹ thuật.
- Về vốn.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp chủ đạo
Các lâm phần Mỡ được trồng với mật độ, thời điểm và cấp đất khác nhau,
do đó mỗi lâm phần có đặc điểm khác nhau là một đối tượng nghiên cứu.
Mục đích chủ yếu là nâng cao các giá trị thương mại gỗ Mỡ, thông qua
chặt chuyển hoá các giải pháp kỹ thuật đưa ra nhằm mục tiêu kinh tế.
Thiết lập mô hình chuyển hoá và quy hoạch chuyển hoá vận dụng
phương pháp có sự tham gia của chủ rừng và người dân. Thực hiện kết hợp
nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn cơ sở.
2.4.2. Các phương pháp thu thập số liệu ngoại nghiệp
2.4.2.1. Kế thừa tài liệu
- Tài liệu về điều kiện cơ bản khu vực nghiên cứu.
+ Điều kiện tự nhiên Lâm trường Yên Sơn.
+ Điều kiện về kinh tế - xã hội Lâm trường Yên Sơn.
- Kế thừa và tham khảo các kết quả nghiên cứu có liên quan đã công bố.
+ Tiêu chuẩn Việt Nam quản lý rừng bền vững của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn(1998, 2006)[2][39].
+ Biểu điều tra kinh doanh rừng trồng của 14 loài cây trồng chủ yếu,
NXB Nông nghiệp 2003[34].
+ Biểu cấp đất của Vũ Tiến Hinh, Đề tài nghiên cứu khoa học của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2000)[17].
2.4.2.2. Thu thập số liệu ngoại nghiệp
- Phỏng vấn bán định hướng 30 hộ gia đình (được bố trí trải đều trên toàn
bộ khu vực dân cư trong Lâm trường) làm cơ sở nghiên cứu điều kiện cơ bản
và chỉnh lý các tài liệu kế thừa (Phụ biểu 01).



19
- Bố trí hệ thống ô tiêu chuẩn điển hình để thu thập số liệu theo Phụ biểu 02.
+ Cây có tuổi từ 5 trở lên và được chia làm 5 cấp tuổi: cấp tuổi III (5-<7),
cấp tuổi IV (7-<9), cấp tuổi V (9-<11), cấp tuổi VI (11-<13), cấp tuổi VII (13<15).
+ Trên cấp đất I-II-III (đủ điều kiện thổ nhưỡng để trở thành gỗ lớn).
+ Tổng số ô tiêu chuẩn tạm thời là 25 ô và ô tiêu chuẩn định vị là 5 ô
(mỗi cấp tuổi chọn 5 ô tiêu chuẩn để đo đếm).
+ Diện tích mỗi ô tiêu chuẩn tạm thời là 1000m2 (40x25m) và ô định vị là
5000m2 (100x50m) để đạt được tính đại diện cho lâm phần điều tra. Bố trí hệ
thống ÔTC thể hiện ở Phụ biểu 02.
•Đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng
Trên mỗi ô tiêu chuẩn tiến hành đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng : D 1.3,
Dt, Hvn, HDC, vẽ trắc đồ ngang, trắc đồ dọc và đánh giá sinh trưởng của các cây
trong ô tiêu chuẩn bằng phân cấp Craft: I, II, III, IV, V, …(Phụ biểu 03).
• Phương pháp giải tích thân cây
Phương pháp giải tích cây tiêu chuẩn bình quân toàn lâm phần: Đây là
phương pháp được sử dụng phổ biến ở nước ta. Số liệu đo đếm được ghi theo
Phụ biểu 04.
2.4.3. Phương pháp xử lý và phân tích tài liệu
2.4.3.1 Nghiên cứu các chính sách và quy định có liên quan quy hoạch
chuyển hoá rừng
- Tổng hợp các tài liệu thu thập số liệu bằng phương pháp thống kê kế
thừa số liệu.
- Phân tích thị trường: thực hiện theo phương pháp phân tích có sự
tham gia và phương pháp phân tích tổng hợp nhóm các yếu tố thị trường.
- Đánh giá quản lý rừng bền vững căn cứ vào “Tiêu chuẩn Việt Nam
quản lý rừng bền vững_9c” được Viện quản lý rừng bền vững xây dựng[39].


20

2.4.3.2 Xác định các quy luật cấu trúc lâm phần
Số liệu sau khi thu thập được xử lý bằng toán học thống kê có sự trợ
giúp của phần mềm Excell 6.0 và SPSS 13.0.
Các đặc trưng cần tính toán:
+ Giá trị trung bình ( X ) của đại lượng sinh trưởng
1 n
∑ Xi
n i =1

X =

(2.1)

( X : trung bình mẫu, n: dung lượng quan sát, X i : trị số quan sát)
+ Phương sai ( S x2 )
S x2 =

1 n
( X i − X )2

n − 1 i =1

(2.1)

( S x2 : Phương sai, X : trung bình mẫu, n: dung lượng quan sát, X i : trị số quan sát)
+ Sai tiêu chuẩn (Sx)
Sx = S x2

(2.3)


(Sx: Sai tiêu chuẩn, S x2 : Phương sai)
+ Hệ số biến động (Sx%)
Sx % =

Sx
X

(2.4)

x100

(Sx%: Hệ số biến động, Sx: Sai tiêu chuẩn, X : trung bình mẫu )
+ Phạm vi biến động (Rx):
Rx = X (max) – X (min)

(2.5)

(Rx: Phạm vi biến động, X(max): Giá trị lớn nhất, X(min): Giá trị nhỏ nhất)
Q

xy
+ Hệ số tương quan(r) : r = Q .Q ( 0 ≤ r ≤ 1 )
x
y

(2.6)

(r: Hệ số tương quan, Qxy: sai tiêu chuẩn của giá trị xy, Qx: sai tiêu chuẩn của
giá trị x, Qy: sai tiêu chuẩn của giá trị y)



21


Quy luật cấu trúc:

- Phân bố N – D: mô phỏng phân bố thực nghiệm bằng hàm Weibull
dạng phương trình: f(x) = α.λ.x α−1 .e −λ.α

(2.7)

với α , λ là các tham số của phương trình Weibull.
Căn cứ số liệu ban đầu để ước lượng tham số α cho phù hợp.
Với α = 1; phân bố có dạng giảm, α = 3 phân bố có dạng đối xứng, α >
3; phân bố có dạng lệch phải, α <3 phân bố dạng lệch trái.
λ=

n
∑ xα (n là số tổ sau khi chia tổ ghép nhóm).

(2.8)

Kiểm tra mức độ phù hợp của phân bố lý thuyết và phân bố thực nghiệm bằng
2

 flt − ftt 
 .
tiêu chuẩn phù hợp χ với ∑ χ = ∑ 
 flt 
2


2

(2.9)

(flt: tần số lý thuyết, ftt: tần số thực nghiệm)
- Tương quan H – D1.3: Xây dựng tương quan trên cơ sở phương trình:
H = a + b.logD1.3 (a, b là tham số)

(2.10)

Từ số liệu thực tế, tính toán bằng phần mềm xử lý thống kê SPSS 13.0 ta tìm
được các hệ số của phương trình và kiểm tra sự tồn tại của các hệ số bằng tiêu
chuẩn t.
- Tương quan DT và D1.3: Xây dựng tương quan trên cơ sở phương trình:
DT = a + b.D1.3 (a, b là tham số)

(2.11)

Từ số liệu thực tế, tính toán bằng phần mềm xử lý thống kê SPSS 13.0 ta tìm
được các hệ số của phương trình và kiểm tra sự tồn tại của các hệ số bằng tiêu
chuẩn t.
2.4.3.3 Xác định các yếu tố cơ bản trong chặt chuyển hoá.
- Phân cấp cây rừng: Theo phân cấp Kraff 1884, đặc điểm của phương pháp
này là loại bỏ những cây ở phía dưới tầng rừng chính, thường là những cây


22
sinh trưởng lạc hậu, cong queo, chất lượng kém, lệch tâm... Theo phân cấp
G.Kraft, những cây này thuộc về các cấp IV, V và một số ít cây cấp III. Kết

quả của phương pháp chặt nuôi dưỡng tầng dưới là hình thành rừng một tầng.
Ưu điểm của phương pháp chặt tầng dưới là lợi dụng được những cá thể bị
đào thải trong quá trình chọn lọc tự nhiên, thúc đẩy sinh trưởng thông qua
điều chỉnh không gian dinh dưỡng, cải thiện điều kiện vệ sinh lâm phần.
- Xác định thời điểm bắt đầu chặt.
+ Phân tích theo sản lượng.
+ Theo mức độ phân hoá cây rừng.
+ Xuất phát từ thực tế hiện trạng rừng trồng Mỡ.
- Xác định cường độ chặt chuyển hoá.
+ Thể hiện cường độ chặt chuyển hoá.
- Tính theo tỉ lệ thể tích gỗ chiếm thể tích lâm phần mỗi lần chặt.
Pv =

v
×100%
V

(2.12)

(Pv: cường độ chặt chuyển hoá tính theo thể tích, v: thể tích cây chặt, V: sản
lượng lâm phần)
- Tính theo tỉ lệ số cây trong mỗi lần chặt chiếm tổng số cây trong
lâm phần.
PN =

n
×100%
N

(2.13)


(PN: cường độ chặt chuyển hoá tính theo số cây, n: là số cây cần chặt, N: là
tổng số cây của lâm phần)
+ Xác định cường độ chặt theo hai phương pháp.
- Phương pháp định tính: Căn cứ vào phân cấp cây rừng và căn cứ
độ tàn che. Căn cứ vào phân cấp cây rừng để xác định chặt những cây ở bộ
phận lâm phần nào và cấp nào.


23
- Phương pháp định lượng: Xác định theo quy luật tương quan
giữa đường kính, chiều cao và tán cây. Căn cứ vào các quy luật này để đưa ra
cường độ chặt trung gian.
- Xác định cây chặt: Dựa vào trắc đồ ngang, trắc đồ đứng và phân cấp cây
rừng Kraft 1884 để xác định cây chặt.
- Xác định chu kỳ chặt chuyển hoá: Dựa vào dự đoán tăng trưởng của tán cây
và trắc đồ ngang để xác định chu kỳ chặt chuyển hoá.
2.4.3.4 Quy hoạch chuyển hoá rừng
- Xác định được phương hướng, nhiệm vụ của chặt chuyển hoá.
- Tính toán được tăng trưởng, trữ lượng và sản lượng rừng.
- Thiết kế chặt nuôi dưỡng và xác định các yếu tố có liên quan theo
phương pháp chặt nuôi dưỡng tầng dưới, cơ sở là phương pháp trắc đồ ngang
và trắc đồ dọc.
- Bố trí địa điểm chuyển hoá theo thời gian và không gian: trên bản đồ quy
hoạch và đưa ra các giải pháp thực hiện.
- Xây dựng các mô hình chặt chuyển hoá.
2.4.3.5 Sử dụng phương pháp phân tích kinh tế tĩnh để dự đoán hiệu quả kinh tế.
Dự tính thu nhập bình quân trên 1 ha sau chuyển hoá rừng thành
rừng kinh doanh gỗ lớn và so sánh với thu nhập bình quân nếu không
chuyển hoá rừng.



24

Chương 3
ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Lâm trường Yên Sơn nằm ở phía Đông Nam của tỉnh và cách thị xã
Tuyên Quang 40 km về phía Đông Bắc.
Vĩ độ

: 21o45’ đến 21o55’30” độ Vĩ Bắc.

Kinh độ: 105o15’ đến 105o30’ độ Kinh Đông.
- Phía Bắc giáp xã Tân Tiến, Kiến Thiết huyện Yên Sơn
- Phía Nam giáp huyện Sơn Dương.
- Phía Đông giáp huyện Định Hoá - Thái Nguyên.
- Phía Tây giáp sông Lô.
3.1.2. Địa hình, địa thế
Lâm trường Yên Sơn nằm trong huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, địa
hình đồi núi cao và có nhiều suối, khe chia cắt phức tạp. Độ cao trung bình là
350m, độ dốc trung bình là 300.
3.1.3. Địa chất và thổ nhưỡng
Đất khu vực nghiên cứu chủ yếu là đất Feralit màu nâu và vàng nhạt,
phát triển trên đá mẹ sa phiến thạch và phiến thạch sét, tầng đất mặt dày trung
bình 70- 80m.
3.1.4. Khí hậu
- Khu vực nghiên cứu nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa,
trong năm khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt:

+ Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 3 năm sau.
+ Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9.


25
Ngoài ra trong vùng còn có gió bão từ tháng 7 đến tháng 8, sương muối
từ tháng 11 đến tháng 12 đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, đời sống
sinh hoạt của người dân.
- Nhiệt độ bình quân đạt 20 - 220C, tối đa có lúc lên đến 39 - 400C.
Nhiệt độ tháng thấp nhất xuống 12 - 140C.
- Độ ẩm trung bình đạt khoảng 80%.
- Lượng mưa tập trung vào tháng 7 và 8, lượng mưa bình quân đạt
1.700 - 1.800mm/năm.
3.1.5. Thuỷ văn
Trong khu vực có 2 hệ thống sông lớn là: Sông Lô và sông Phó Đáy,
cùng với hệ thống suối lớn nhỏ. Mùa mưa nước dâng nhanh gây ách tắc giao
thông, thiệt hại hoa màu, cây trồng... Mùa khô lưu lượng nước nhỏ, một số dòng
suối bị cạn không đủ cung cấp cho sản xuất nông, lâm nghiệp của địa phương.
3.1.6. Tài nguyên thực vật và động vật
Tài nguyên thực vật rừng khá đa dạng và phong phú, trong đó tầng tán
chính trong rừng tự nhiên còn nhiều cây gỗ lớn như Nghiến, Táu,… các loài
thuộc họ tre, nứa. Đối với rừng trồng tầng tán chính chủ yếu là Mỡ, Bồ Đề,
Thông, hiện nay chủ yếu là Keo. Dưới tán rừng là tầng cây bụi, thảm tươi
gồm nhiều loài cây thuộc họ: Cà phê, Trúc đào, họ Sim, Mua… Ngoài ra,
tham gia vào tầng tán rừng còn có các quần phiến dây leo, cây phụ sinh, cây
kí sinh...
Tài nguyên động vật rừng phong phú với nhiều loại chim, thú khác
nhau: Khướu, Sáo, Hoạ mi, Chồn, Sóc, Lợn rừng,…Tuy nhiên, do diện tích
rừng tự nhiên còn ít và thường xuyên có sự tác động của con người nên chưa
phát hiện ra các loài động vật quý hiếm ở đây.



×