Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tập tục đốt vàng mã tại việt nam, lợi và hại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.91 KB, 18 trang )

TRUNG TÂM THẦN HỌC SEDES SAPIENTIAE
Ban Triết học

TẬP TỤC ĐỐT VÀNG MÃ TẠI VIỆT NAM, LỢI VÀ HẠI

Sinh viên: Phạm Trọng
Giáo sư: TS. Lý Tùng Hiếu

Niên khóa 2017-2018


NHẬN XÉT CỦA GIÁO SƯ

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

XIN KHOANH TRÒN SỐ ĐIỂM
Thang điểm
Thang điểm
Xếp hạng
UST


10
1.00
1.10
1.15
1.20
1.30
1.35
1.40
1.45
1.55
1.65
1.75
1.85
1.95
2.10
2.25
2.40
2.55
2.70
2.85
3.00
3.01 - 5.00

Xuất sắc

Giỏi

khá

Trung bình

khá

Trung bình
Rớt

9.75-10.00
9.50
9.25
9.00
8.75
8.50
8.25
8.00
7.75
7.50
7.25
7.00
6.75
6.50
6.25
6.00
5.75
5.50
5.25
5.00
4.99 - 1.00

Ngày…….. Tháng……. Năm…….

TS. Lý Tùng Hiếu



MỤC LỤC
1.

2.

Dẫn nhập ........................................................................................................................................ 2
1.1.

Lý do chon đề tài..................................................................................................................... 2

1.2.

Mục đích nghiên cứu............................................................................................................... 3

1.3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................................... 3

1.4.

Phương pháp và nguồn tư liệu ................................................................................................ 3

Khái niệm và thuật ngữ dùng trong tiểu luận ............................................................................ 3
Vàng mã .............................................................................................................................................. 3

3.

4.


5.

6.

Nguồn gốc và đặc điểm của tập tục đốt vàng mã tại việt nam .................................................. 3
3.1.

Nguồn gốc tập tục đốt vàng mã .............................................................................................. 3

3.2.

Du nhập và phát triển tại Việt Nam ........................................................................................ 6

Cách cử hành việc đốt vàng mã hiện nay ở Việt Nam ............................................................... 6
4.1.

Thời điểm và sự kiện cần sử dụng vàng mã ............................................................................ 7

4.2.

Các lễ vật trong nghi thức hóa vàng........................................................................................ 7

4.3.

Nghi thức hóa vàng ............................................................................................................... 10

Lợi ích và tác hại của tập quán dùng vàng mã ......................................................................... 10
5.1.


Lợi ích của việc đốt vàng mã ................................................................................................ 10

5.2.

Tác hại của việc đốt vàng mã ................................................................................................ 11

5.3.

Các ý kiến trái chiều liên quan đến việc sử dụng vàng mã ................................................... 13

Kết luận ........................................................................................................................................ 14

Phụ lục ..................................................................................................... Error! Bookmark not defined.
Thư mục ................................................................................................................................................. 1

1


1. Dẫn nhập
1.1. Lý do chon đề tài
Những năm gần đây việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng vàng mã ở nước ta phát triển
mạnh mẽ, kèm theo đó là những biến tướng, cũng như những tác động tiêu cực của nó đối với
xã hội. Vàng mã hiện nay đang là đề tài “nóng” trên các trang mạng, các trang báo, trong quần
chúng nhân dân. Đây cũng là vấn đề đang làm băn khoăn những nhà quản lý trong việc xác
định một thái độ ứng xử đúng đắn đối với vàng mã.
Từ năm 1998 đến nay, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc sử dụng vàng mã
được đưa ra. Quan sát cho thấy, mức độ quy định của các văn bản pháp luật về việc sử dụng
vàng mã ngày càng chặt. Từ việc “vận động nhân dân bỏ dần tục đội mũ rơm, chống gậy, rắc
vàng mã dọc đường ”1, kế đến là “hạn chế tối đa việc rắc vàng mã, tiền âm phủ trên đường”,2
đến việc đưa ra những mức hình phạt cụ thể như trong nghị định Nghị định 158/2013/NĐ-CP

năm 2013: “Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đốt vàng mã không
đúng nơi quy định tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử - văn hóa”. Bên cạnh đó, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam cũng đã ra công văn kêu gọi các tăng, ni và phật tử trong cả nước “loại bỏ mê
tín dị đoan, đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo.”3 Có thể nói đây là một sự cố gắng của
Phật giáo trong vấn đề bài trừ những tập tục sai lạc với giáo lý của nhà Phật đặt biệt là việc sử
dụng vàng mã trong giới tăng, ni và phật tử.
Hiện nay có hai luồng quan điểm chính về vấn đề sử dụng vàng mã. Luồng quan điểm
thứ nhất cho rằng, việc sử dụng hàng mã là lãng phí, một hủ tục cần phải loại bỏ. Trong khi đó,
luồng quan điểm thứ hai cho rằng, nó là một nét tín ngưỡng thể hiện những giá trị nhân văn
của người đang sống đối với người đã khuất, đối với thần thánh nên hạn chế và đưa nó về bản
chất ban đầu vốn có của nó, chứ không nên loại bỏ.4 Mặc dù hiện tại có khá nhiều bài viết liên
quan đến tập tục đốt vàng mã trên các trang mạng, cũng như báo giấy. Tuy nhiên, đa phần các
bài viết chỉ nêu lên một vài khía cạnh của vàng mã; hoặc chỉ nêu lên nguồn gốc, hoặc chỉ nêu
lên những ý nghĩa của vàng mã, hay đa số là các bài viết bài xích, lên án tập tục này. Hiện vẫn
chưa thấy có bài viết nào đưa ra một cái nhìn bao quát, khách quan về việc sử dụng vàng mã,
mặt tích cực, tiêu cực của nó trong xã hội Việt Nam hiện nay.

Thông tư số 04/1998/TT-BVHTT ngày 11-7-1998.
Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25-11-2005 của Thủ tướng Chính phủ.
3
Công văn 031 /CV-HĐTS ngày 12 tháng 02 năm 2018 Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
4
Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở
thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016, tr. 2.
1
2

2



Vì vậy, em chọn đề tài “TẬP TỤC ĐỐT VÀNG MÃ TẠI VIỆT NAM, LỢI VÀ HẠI”
làm đề tài tiểu luận kết thúc môn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quát và khách quan về việc sử dụng vàng mã hiện nay tại
Việt Nam.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động đốt vàng mã tại Việt Nam hiện nay.
1.4. Phương pháp và nguồn tư liệu
Phương pháp nghiên cứu trong tiểu luận này là phương pháp phân tích các nguồn tài
liệu thứ cấp, tức, nghiên cứu các tài liệu thành văn có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Sử dụng lý thuyết cơ cấu chức năng của Xã hội học trong việc đánh giá một hoạt động
văn hóa, cụ thể ở đây là tập tục đốt vàng mã, nhằm đưa ra những nhận định khách quan về hệ
quả chức năng của nó đối với sự vận hành của xã hội.
Nguồn tư liệu là các tài liệu thứ cấp liên quan đến đề tài nghiên cứu như: sách, luận
văn, tạp chí, các trang mạng internet…
2.

Khái niệm và thuật ngữ dùng trong tiểu luận

Vàng mã
Vàng mã (đồ mã, hàng mã) là đồ vật được làm bằng giấy và các vật liệu dễ cháy khác
để đốt (còn gọi là hóa) sau khi cúng cho người chết sử dụng ở âm phủ. Các hàng mã có thể là
quần áo, tiền bạc, các loại gia súc hay các đồ dùng khác trong đời sống thường ngày của con
người.5
Ngày nay, các sản phẩm vàng mã trên thị trường rất đa dạng. Ngoài những mẫu mã
truyền thống như tiền giấy, trang phục hay vật dụng lao động, người ta còn “cập nhật” những
sản phẩm “thời thượng” trên thị trường như điện thoại thông minh, máy tính, xe hơi, máy bay,
v.v. Theo Nguyễn Văn Phải,6 người buôn bán và người sử dụng đều chia vàng mã thành: tiền
vàng và đồ mã. Trong đó, tiền vàng là phương tiện trao đổi, đồ mã là đồ dùng sinh hoạt.

Trong tiểu luận này, khái niệm vàng mã được dùng chung cho cả tiền vàng và đồ mã.
3.

Nguồn gốc và đặc điểm của tập tục đốt vàng mã tại việt nam

3.1.

Nguồn gốc tập tục đốt vàng mã

Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam (tập
1), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, 1995, tr. 839.
6
Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở
thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016, tr. 10.
5

3


Có ý kiến cho rằng, tục hoá vàng hay đốt vàng mã là một hiện tượng văn hoá nội sinh
có truyền thống lâu đời và gắn liền với truyền thống thờ cúng tổ tiên ông bà của người Việt cổ.
Nhưng tới nay vẫn chưa có bất cứ tài liệu nào cho thấy vàng mã được tạo ra bởi người Việt.
Phần lớn các nhà nghiên cứu đồng tình quan điểm rằng, tập tục đốt vàng mã không phải là sáng
kiến của một tộc người Việt Nam nào, mà nó xuất phát từ Trung Hoa.
Một trong những tác phẩm đề cập đến vàng mã sớm nhất là tác phẩm Vân đài loại ngữ
(1773)7 của Lê Quý Đôn. Nội dung liên quan đến vàng mã trong tác phẩm này được nhiều nhà
nghiên cứu hiên nay sử dụng. Trong tác phẩm Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã đề cập về sự
xuất hiện của vàng mã ở Trung Hoa như sau: “Đến đời Đường Huyền Tông8, việc quỷ thần
phiền nhiễu quá, lấy tiền đâu cho đủ. Vương Dư làm tiền giấy thay cho ngọc và lụa.” Như vậy,

dưới thời Đường Huyền Tông, Vương Dư đã chế ra tiền giấy thay cho tiền thật và các vật dụng
sinh hoạt khác để đốt cho các vong linh, quỷ và thần. Đến đời Túc Tông (756-761) Vương Dư
được đặt làm từ tế sứ (quan coi tế lễ ở các đền), tiếp tục dùng vàng mã để phục vụ cho các lễ
tế. Cũng theo Lê Quý Đôn, người Trung Hoa vào thời vua Ngũ Đại (907-959) đã bắt đầu chế
ra mũ áo mã (tức đồ mã) để đốt trong các dịp tang ma, lễ tế.
Kế đến là bài viết của hòa thượng Thích Tố Liên được đăng trên báo Đuốc Tuệ, số ra
năm 1952, tựa đề "Nguyên nhân tục lệ đốt vàng mã". Bài viết là một nổ lực của vị hòa thượng
trong việc chấn hưng Phật giáo, bài trừ mê tín, dị đoan trong Phật giáo Việt Nam, trong đó có
tập tục đốt vàng mã. Trong bài viết, hòa thượng Thích Tố Liên đã nêu lên một cách khá chi tiết
về nguồn gốc phát xuất của tập tục đốt vàng mã cũng như sự phát triển của vàng mã qua các
thời kỳ ở Trung Hoa. Sau đây là trích đoạn của bài viết về nguồn gốc và sự phát triển của tập
tục đốt vàng mã ở Trung Hoa:
Đọc kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng: tục chôn người chết của
người Trung Hoa về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem
chôn, không quan không ván, lại cũng không khanh phần mộ gì cả. Đến
đời vua Hoàng đế (267 TCN) cho rằng: con cháu đối với ông bà, cha mẹ
trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích
Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế, đến
đời Đường Ngu, tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế…
Đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (năm 105), ông Thái
Luân bắt đầu lấy vỏ cây dó và vải rách, lưới rách đem chế ra giấy, vì đã
có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc, quần áo,... đều bằng đồ giấy
để cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang
ma, tế lễ. Sách Thông Giám cương mục có chép: vì vua Huyền Tông9
7
Vân đài loại ngữ (1773), Lê Quý Đôn, biên dịch Trần Văn Giáp, hiệu đính Cao Xuân Huy, nxb Văn
hóa-Thông tin, 1962. Phần nói về vàng mã nằm từ trang 192 đến trang 193 .
8
Đường Huyền Tông, trị vì từ 712-756, vị Hoàng đế thứ 7 của Triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung
Quốc, />9

Huyền Tông hay còn gọi là Đường Huyền Tông.

4


mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan Thái thường bác
sỹ để coi việc chế vàng mã dùng khi nhà vua có tế lễ.
Về tục đốt vàng mã vào ngày rằm tháng 7 là do xuất phát từ câu
chuyện: Vào thời vua Đại Tông nhà Đường (762 - 779), nhằm lúc Phật
giáo cực thịnh, một vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo Phật
giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà
vua rằng: “Rằm tháng Bảy là ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội
phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong việc lễ
cúng gia tiên vào ngày rằm tháng Bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng
biếu các vong nhân dùng”. Vua Đại Tông đương muốn được lòng dân
nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ, từ đó
nhân dân lại thi nhau đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy để kính biếu
gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài
trừ, vì cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm
cho cái lệ ngày 15/7 không còn có chính nghĩa nữa. Phần lớn dân chúng
Trung Hoa hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho
các nhà chuyên sinh sống về nghề nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp,
nhất là người Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, đã bịa đặt chế ra đồ
vàng mã.
Thất nghiệp, Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm
mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy
hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm
liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương
khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ
hàng của ông, đem cả hàng ngàn loại đồ mã trong đó có cả hình nhân thế

mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa
phủ và nhân phủ, khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm
nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động
lên. Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài, người giả chết kia
cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ
quan tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại
chuyện với công chúng rằng: “Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận
được hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho
ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế”. Công chúng lúc đó
ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mạng được và thánh
thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng
thêm tuổi thọ. Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách
nhanh chóng vì không những linh hồn các gia tiên dùng vàng mã, mà đến
cả thiên, địa, quỷ, thần trong tam, tứ phủ cũng tiêu dùng đồ vàng mã.
Chuyện này còn chép rõ ràng ở sách Trực ngôn cảnh giáo. 10
Như chúng ta thấy, ở hai tác phẩm này có sự đồng nhất về thời gian xuất hiện
vàng mã là vào thời vua Huyền Tông (712-756). Tuy nhiên, tên vị quan đã chế ra vàng
mã lại không trùng khớp (có thể do cách dịch, hoặc lỗi trong khi ghi chép). Lê Quý Đôn

Hòa
Thượng
Thích
Tố
Liên,
Nguyên
Nhân
Tục
Đốt
Vàng
Mã,

truy cập ngày 18 tháng 5 năm
2018.
10

5


cho rằng, người chế ra vàng mã là Vương Dư, còn hòa thượng Thích Tố Liên, theo sách
Trực ngôn cảnh giáo, cho rằng do Vương Dũ. Tuy nhiên, cả hai đều cho rằng vàng mã
được tạo ra bởi người Trung Hoa vào thời vua Huyền Tông, nhà Đường. Đây cũng là
quan điểm của Toan Ánh trong tác phẩm Tín ngưỡng Việt Nam11, và đó cũng là quan
điểm được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay sử dụng.
3.2.

Du nhập và phát triển tại Việt Nam

Cho đến hiện nay, chưa có bất cứ tài liệu nào cho ta biết nghề làm hàng mã, tục đốt
vàng mã du nhập, xuất hiện ở nước ta chính xác từ bao giờ. Theo các nhà nghiên cứu có lẽ
vàng mã được du nhập vào nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN - 938 SCN).
Ở nước ta, trước Đổi mới, dưới sự ảnh hưởng của mạnh mẽ của hệ tư tưởng vô thần,
nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng và hoạt động thờ cúng bị hạn chế . Các hoạt động như bói
toán, hầu đồng, gọi hồn cũng như đốt vàng mã bị coi là mê tín dị đoan và bị nghiêm cấm hoạt
động. Việc sản xuất, tiêu thụ vàng mã tạm thời lắng xuống. Bước vào công cuộc đổi mới đất
nước, được đánh dấu từ năm 1986, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những đổi mới tư duy,
đường lối và chính sách về tôn giáo, tín ngưỡng. Điều này được Đảng và Nhà nước Việt Nam
cụ thể hóa bằng hàng loạt các văn bản như: Nghị quyết số 24, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính
trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình
hình mới. Tiếp theo đó là một loạt các văn kiện, quy định mới về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng
được đưa ra từ năm 1990 đến nay.12
Có thể nói, các văn bản trên đều đề cập đến vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trên tinh thần

đổi mới. Một trong những điểm quan trọng của tinh thần đổi mới là “tôn trọng và đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”. Từ đó,
nhiều vấn đề cơ bản, quan trọng của các tôn giáo đã cơ bản được giải quyết. Cùng với đó, nhiều
tôn giáo, tín ngưỡng dân gian đã “trở lại” và “hồi sinh”. Một trong những biểu hiện của sự hồi
sinh tôn giáo là sự trỗi dậy của nhiều hoạt động tôn giáo mà trước đây quan niệm là mê tín: bói
quẻ, xin sớ, bấm độn, xóc thẻ, xem tử vi, xem phong thủy, hầu đồng, gọi hồn, chạy đàn, cúng
sao giải hạn. Theo đó, vàng mã cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển. Trong những năm
gần đây, việc sản xuất, kinh doanh, sử dụng vàng mã đã phát triển mạnh mẽ trong xã hội Việt
Nam, song song với nó là những biến tướng cũng như những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã
hội.
4.

Cách cử hành việc đốt vàng mã hiện nay ở Việt Nam

X. Tín ngưỡng Việt Nam (quyển hạ), Toan Ánh, nxb Văn nghệ, TP. HCM, 2000, tr. 368.
X. Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình
ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân
Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016, tr. 59.
11
12

6


4.1. Thời điểm và sự kiện cần sử dụng vàng mã
Thông thường, các nghi lễ thờ cúng và đốt vàng mã vào các dịp lễ trong năm như: cúng ông
Công, ông Táo; cúng Tất niên, cúng Giao thừa và 3 ngày tết; cúng các ngày rằm, mồng một
trong tháng. Phạm vi cúng lễ diễn ra ở từng cá nhân, từng hộ gia đình, trong phạm vi làng và
cả những nơi sinh hoạt tín ngưỡng khác trong phạm vi cả nước (đình, chùa, miếu, phủ).
Ngoài các dịp lễ như đã kể trên, người dân còn cúng và đốt vàng mã vào các dịp đặc biệt

khác như: cúng thôi nôi đầy tháng, trước ngày đi xa (có thể là đi học, đi làm ăn), lễ động thổ
xây nhà, lễ tân gia, mở cửa hàng, học hành thi cử; thăng quan tiến chức hay các dịp tang ma,
cúng giỗ của gia đình, cúng dâng sao giải hạn, trừ tà, cắt tiền duyên, gia đình có bất ổn (bản
thân hoặc con cái ốm đau, bệnh tật), v.v..13
4.2. Các lễ vật trong nghi thức hóa vàng
Đồ vàng mã sử dụng trong các nghi lễ tại Việt Nam hết sức đa dạng. Chủng loại và số
lượng cũng rất khác nhau trong các ngày lễ, các sự kiện. Hơn nữa, tùy thuộc vào điều kiện kinh
tế của người sử dụng mà các lễ vật bằng vàng mã sẽ có sự khác. Sau đây xin được nêu lên các
lễ vật bằng vàng mã trong một số ngày lễ quan trọng trong năm.


Thờ Mẫu
Vàng mã là một lễ vật đặc biệt quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Nó dường như

không thể thiếu trong các buổi lễ. Cũng vậy, số lượng và các loại vàng mã theo quy định cũng
rất đa dạng.
Đầu tiên là những đồ mã trong lễ “Phát Tấu”- lễ này được tiến hành ngày hôm trước
của ngày ra hầu đồng với ý nghĩa thỉnh Thánh, thỉnh Phật về chứng giám đàn tràng cho gia chủ
để trở thành một tân đồng. Ngoài các đồ vật, lễ vật cần thiết theo quy định ra đồng, đồ mã bao
gồm: bộ mũ gồm 5 mũ quan 5 màu, 5 ngựa nhỏ, 5 bộ quần áo và hia, nghìn vàng. Các đồ mã
này được dâng lên các quan sứ giả, thỉnh nhờ các ngài hay thanh đồng đi mời chư vị trong tứ
phủ.
Tiếp đến là các đồ mã chuẩn bị trong ngày Mở phủ: trong lễ này đồ mã được sử dụng
rất nhiều với nhiều kiểu loại khác nhau và được quy định hết sức chặt chẽ: Bộ mũ: bao gồm 4
mũ bình thiên 4 màu (đỏ, xanh, trắng, vàng) của 4 vị vua cha; 2 mũ cánh chuồn (màu đỏ, màu
tím) cho Nam Tào, Bắc Đẩu; mũ chúa đàn (vị quan giám sát đàn lễ) màu vàng hoặc trắng, đây
là loại mũ kiểu đuôi trĩ; 5 mũ cánh chuồn 5 màu (đỏ, xanh, trắng, vàng, tím) cho 5 vị quan (đệ
Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình Thôn, phường
Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, 2016, tr. 25.
13


7


nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ và đệ ngũ); mũ đương niên, đương cảnh; mũ rồng của cửu tinh đại
diện, cửu cung bát quái;Tiếp đến là thuyền rồng, voi, ngựa. Thuyền rồng có màu trắng biểu
hiện cho thủy phủ; voi có kích thước tương đối to được làm bằng giấy màu vàng để dâng cho
các quan ở miền sơn trang; ngựa có kích thước lớn, màu đỏ biểu hiện cho đồng bằng; ngoài ra
còn có các đồ mã là các bè, mảng có người chèo màu xanh, màu trắng dành cho các cô các cậu;
Một trong các đồ mã tứ phủ phải kể đến là hình ông Lốt - rắn (biểu hiện các quan bảo vệ cho
mẫu về đường dưới nước), thường được làm theo 4 màu: đỏ, xanh, vàng, trắng (đối với Lốt
tiến về thoải phủ có màu trắng với hình thức 3 đầu 9 đuôi hoặc 3 đầu 1 đuôi). Đối với đồ mã
gắn với chúa núi rừng là hình chúa sơn trang cùng với hai chầu hầu cận: chầu Quỳnh, chầu
Quế và 12 cô sơn trang theo hầu hai chúa. Đặc biệt, trong dàn mã tứ phủ còn có 5 hình nhân
nam hoặc nữ có đai chéo (tùy theo giới tính của chủ lễ).
Ngoài ra, đi cùng với các đồ mã để cúng các quan, thần linh còn có một mâm đồ mã
cúng cho chúng sinh (những cô hồn, linh hồn chết không cha mẹ, không anh em, không có
người thân chăm nom, thờ phụng), đồ mã này gồm: quần áo (áo ngắn tay, quần dài), giấy tiền
xu, giấy vàng (vàng lá).
Các đồ mã được sắp đặt theo một quy định bắt buộc và sau khi làm lễ xong được đem
đi đốt tại các điểm hóa vàng.14


Thờ cúng thành hoàng
Vào các ngày đầu tháng và ngày rằm hàng tháng người dân thường dành chút thời gian

để đến các cơ sở thực hành tín ngưỡng tại địa phương: Đình, chùa Đình Thôn và Miếu thờ đức
thánh Cả. Lễ vật và đồ mã tương đối đơn giản có thể chỉ là bánh kẹo, hoa quả, thẻ hương và
một lễ vàng mã (gồm một sấp gồm khoảng 10 lá tiền vàng các loại) được sửa soạn và dâng lên
các ban thờ ở đình, chùa, miếu. Đồ mã sau khi dâng cúng được hóa ở lò hóa vàng tại nơi thờ

tự.15


Cúng ông Công, ông Táo (23 tháng Chạp)
Lễ cúng Táo quân được chuẩn bị hết sức cẩn thận, ngoài mâm cúng mặn ra thì thứ

không thể thiếu trong các gia đình là bộ đồ mã gồm: Bộ thần linh và bộ ông Công ông Táo.
Bộ thần linh gồm một bộ quần, áo, mũ, hia; bộ ông Công ông Táo gồm ba bộ quần áo,
hia, mũ (hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà). Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn,
Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình Thôn, phường
Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, 2016, tr. 25-28.
14

15

Nt., tr. 28.

8


mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Màu sắc của mũ, áo hay hia ông Công thay đổi hàng năm
theo ngũ hành: năm hành kim thì mũ màu vàng, năm hành mộc thì dùng mũ màu trắng, năm
hành thủy thì mũ màu xanh, năm hành hỏa thì dùng màu đỏ, năm hành thổ thì dùng màu đen.
Ngoài ra còn có 3 đinh tiền vàng các quan kèm theo, cá chép bằng giấy hoặc cá chép sống.16


Cúng Giao thừa và những ngày Tết năm mới
Lễ cúng Giao thừa đặc biệt quan trọng đối với các gia đình với ý nghĩa bỏ đi những

điềm xấu và đón chờ những điềm tốt, điềm lành cho gia đình vào dịp năm mới. Có thể nói, đây

là thời khắc quan trọng của tất cả các gia đình nên vì thế việc thực hiện các nghi lễ được chuẩn
bị cẩn thận và thực hiện chu đáo.
Đồ mã bao gồm rất nhiều loại: Đối với mâm cúng ngoài sân gồm bộ quần áo của quan Hành
khiển (hai bộ: một bộ cho quan Hành khiển cũ, một cho quan Hành khiển mới), 1 ngựa, nghìn
vàng. Đối với mâm cúng trong nhà đồ mã gồm: một bộ ông bà thần trụ đất và tiền vàng. Các
đồ mã để cúng trong ngày Tết gồm: nghìn vàng; 3 đến 5 đinh tiền vàng (tiền gia tiên); vàng
lộc; ngoài ra tùy thuộc vào từng gia đình mà có thêm rất nhiều đồ mã khác: quần áo, nhà cửa,
xe cộ, các vật dụng gia đình và vật dụng giải trí khác…17


Cúng các ngày đầu tháng, rằm
số lượng đồ mã ở các gia đình là khác nhau tùy thuộc vào gia chủ nhưng nhìn chung

đều đơn giản, không quá cầu kỳ, chỉ gồm mấy xấp tiền giấy, một vài thếp tiền vàng,…18


Lễ cúng rằm tháng Giêng (Lễ Thượng nguyên)
Nhiều người dân Việt rất coi trọng cúng rằm tháng Giêng:“Lễ Phật quanh năm không

bằng rằm tháng giêng”. Vào ngày này, với mục đích cầu mong tài lộc, dâng sao giải hạn đầu
năm nên người dân sắm sửa lễ cúng rất trang trọng, ngoài mâm cỗ (cỗ chay hoặc cỗ mặn tùy
từng gia đình) thì phải có đầy đủ hương - hoa - trà - rượu, đặc biệt là đồ mã.
Đồ mã cúng rằm tháng giêng bao gồm: 1 bộ bà chúa đất gồm đầy đủ quần áo, mũ, hia;
1 ông ngựa đỏ gồm cả quần áo, roi, cờ lệnh; nghìn vàng và nhiều đồ mã khác cho người thân
của gia đình.19


Lễ cúng rằm tháng Bảy (lễ Xá tội vong nhân hay Vu Lan):

16

Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình Thôn, phường
Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, 2016, tr. 30-32.
17

Nt., tr.32-34.
Nt., tr. 26-27.
19
Nt., tr. 37.
18

9


Trong ngày này người dân thường sửa soạn 3 mâm lễ để cúng Phật; cúng thần linh, gia
tiên và cúng chúng sinh. Đồ mã dành cho gia tiên như: quần áo, giày dép, ngựa, các vật dụng
trang sức, người giúp việc đến những vật hiện đại: nhà cao tầng, xe ô tô, xe máy, điện
thoại,...Trên mâm cúng chúng sinh lễ vật gồm có: Tiền vàng từ 15 lễ trở lên, tiền chúng sinh
(tiền chinh/xu), hoa, quả 5 loại 5 mầu (ngũ sắc); quần áo chúng sinh từ 20 đến 50 bộ với nhiều
màu sắc (xanh lam, xanh lá mạ, vàng, hồng,...).20
Ngoài ra còn có nhiều dịp lễ, sự kiện quan trọng khác trong năm như cúng thôi nôi đầy
tháng, trước ngày đi xa (có thể là đi học, đi làm ăn), lễ động thổ xây nhà, lễ tân gia, mở cửa
hàng, học hành thi cử; thăng quan tiến chức hay các dịp tang ma, cúng giỗ của gia đình, cúng
dâng sao giải hạn, trừ tà, cắt tiền duyên, gia đình có bất ổn (bản thân hoặc con cái ốm đau, bệnh
tật), v.v.. Đồ vàng mã cho các dịp này thường có phần đơn giản hơn và cũng tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế của từng cá nhân.
4.3. Nghi thức hóa vàng
Nghi thức hóa vàng mã thường đi kèm với lễ cúng, và thường được cử hành sau lễ cúng.
Nghi thức hóa vàng chính là hành động đốt các loại vàng mã được chuẩn bị. Trong buổi lễ, nếu
vàng mã được hóa cả cho thần và cho gia tiên thì phần tiền vàng của thần phải được hóa trước
rồi mới đến phần của gia tiên để tránh nhầm lẫn.21




5.

Lợi ích và tác hại của tập quán dùng vàng mã

5.1.

Lợi ích của việc đốt vàng mã

Là một cách để tỏ lòng hiếu thảo, quan tâm đến những người đã khuất
Đây là quan niệm rất sâu sắc của người Việt mà cũng không ai giải thích được đúng

sai. Chết không phải là hết mà là chuyển từ thế giới bên này sang thế giới bên kia và người mất
cần những vật dụng thiết yếu đó để tiếp tục duy trì cuộc sống ở một thế giới khác. Đây không
phải là một phong tục vu vơ, nó được hình thành từ quan niệm lâu đời, quan niệm của tình cảm
- là sợi dây tình cảm nối giữa người sống và người chết. Khi người sống “hóa” những vật dụng,
tiền bạc bằng vàng mã cho người đã khuất, bản thân họ sẽ thấy ấm lòng.22


Khỏi phải chôn các đồ vật thật gây tốn kém

20
Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình Thôn, phường
Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, 2016, tr. 37-39.
21
X. GS. Ngô Đức Thịnh, Thời gian và cách chuẩn bị mâm cỗ cúng hóa vàng Tết Mậu Tuất,
truy cập
ngày 27-05-2018.

22
GS. Ngô Đức Thịnh, Đốt vàng mã thế nào mới là điều đáng nói, truy cập ngày 25-05-2018.

10


Việc đốt vàng mã thể hiện sự biết ơn, sự tôn kính không chỉ người sống đối với người
chết và thần thánh mà còn giữa người sống đối với người sống. Điều đó bắt nguồn từ truyền
thống “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam.23 Dù không biết đích thực sự tồn tại của
thế giới bên kia, sự sống của người cõi âm nhưng khi thắp nén hương, đốt vàng mã xong, chắc
hẳn ai ai trong chúng ta cũng thấy ấm lòng và có sự tưởng nhớ tới tổ tiên.24


Là một phần trong các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng
Vàng mã là một trong những vật phẩm tôn giáo không thể thiếu trong các nghi lễ tôn

giáo, nhất là trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Vàng mã không chỉ là một trong nhưng vật phẩm trong
nghi lễ, mà còn là vật trang trí tạo nên tính thẩm mỹ và sự thành kính tại một không gian linh
thiêng. Quan trọng hơn, vàng mã giúp tạo dựng “một thế giới thực” cho những người dự lễ
theo cách tưởng tượng của họ. Nói cách khác, nó giúp cho nghi lễ thêm trang trọng, thành kính
và thật hơn.


Niềm tin về sự che chở của thần thánh và tổ tiên
Thông qua hành vi “gửi” hàng mã, người sống mong muốn nhận lại sự che chở, phù hộ

từ tổ tiên và thần thánh.25 Đây có lẽ là một giá trị quan trọng của hàng mã. Phát xuất từ quan
niệm “có qua, có lại”, người ta tin rằng nếu những người còn sống “chăm lo” một cách chu đáo
cho vong linh những người đã khuất hay thần thánh, thì đổi lại họ sẽ nhận được sự phù hộ, độ
trì từ các những người đã khuất, các bậc thần thánh mà họ tin thờ.



Đối với những người chế tác, kinh doanh vàng mã.
Hiện nay, việc sản xuất, kinh doanh hàng mã đã giải quyết nhu cầu công ăn việc làm

cho rất nhiều người dân. Nó cũng mang lại cho các gia đình nguồn thu nhập ổn định. Theo giấy
đăng ký kinh doanh các doanh nghiệp trên cả nước có khoảng trên 40 cơ sở, doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh vàng mã.26 Nhiều làng nghề sản xuất vàng mã được mọc lên. Có những cơ sở
sản xuất, kinh doanh vàng mã thu về hàng trăm tỉ đồng mỗi năm.27 Như vậy nguồn lợi về kinh
tế từ việc sản xuất và kinh doanh vàng mã là rất lớn.
5.2.

Tác hại của việc đốt vàng mã

Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở
thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016.
24
GS. Ngô Đức Thịnh, Đốt vàng mã thế nào mới là điều đáng nói, truy cập ngày 25-05-2018.
25
Nt., tr. 84.
26
Quang Thắng, Những công ty nào đang 'hái ra tiền' nhờ vàng mã?, truy cập ngày 27-05-2018.
27
Nt.
23

11



Trong những năm gần đây, việc sữ dụng vàng mã bị lạm dụng quá đà, gây phản cảm,
sai lệch bản chất, giá trị, gây lãng phí, ô nhiễm môi trường và nhất là nguy cơ mất an toàn do
cháy nổ. Theo PGS. Lê Quý Đức, “Vốn ý nghĩa của tập tục này là mong người chết cũng có
được cuộc sống đủ đầy, điều đó cũng thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Nhưng hiện nay,
nhiều người lại mua vàng mã về cúng, đốt với mục đích để nhận lại sự phù hộ của tổ tiên cho
mình. Vì vậy họ nghĩ, đốt càng nhiều, càng được tổ tiên phù hộ nhiều. Đó là quan điểm sai
lầm!”28


Lệch lạc trong niềm tin và cách thể hiện lòng tôn kính đối với người đã khuất

cũng như thần thánh
Cũng từ quan niệm, người vong linh người đã khuất ở “thế giới bên kia” cũng có những
những nhu cầu vật chất như khi họ còn sống. nhiều người có điều kiện kinh tế cố gắng gửi cho
vong linh những người thân của mình những đồ mã “sang trọng” như nhà lầu, xe hơi, máy bay,
người giúp việc, thậm chí có cả “em út” phục vụ29. Rõ ràng đây là những biến tướng, lệch lạc
của hàng mã. Nó tạo nên sự “bất bình đẳng” trong thế giới giới bên kia. Quan niệm “ở hiền,
gặp lành” hay luật nhân quả rõ ràng bị giảm giá trị khi người ta cho rằng hễ cứ có tiền là có tất
cả lẫn ở đời này lẫn đời sau. Bởi vì, rõ ràng là cuộc sống của những vong linh hoàn toàn phụ
thuộc vào những người đang sống.


Tốn kém

Hiện tại vẫn chưa thấy có những thống kê chính thức về sức tiêu thụ hàng mã trong cả
nước. Tuy nhiên theo một thống kê không chính thức của giới truyền thông, mỗi năm nhân dân
đốt tới 5000 tỷ đồng vàng mã.30 Theo thống kê sơ bộ có khoảng 50.000 tấn vàng mã được sử
dụng trong mỗi năm và riêng tại Hà Nội đã tiêu thụ gần 400 trăm tỷ đồng/năm cho việc đốt
vàng mã.31



Gây ô nhiễm môi trường, gây hỏa hoạn

Do nhà ở chật hẹp nên người dân mang ra ngoài để đốt, tàn lửa bay khắp nơi mỗi khi
có cơn gió thổi qua. Ngoài ra, tại các đền, chùa, cứ đến dịp lễ, Tết lại bị “quá tải” về việc đốt
vàng mã, thắp hương, tiềm ẩn nguy cơ cháy, nổ rất cao. Mới đây nhất, một bằng chứng rõ nét

Hương Lan, Bỏ đốt vàng mã: Tránh lãng phí, xóa nạn 'đút lót' thánh thần?, />29
X. Vân Thiêng, Mỗi năm dân ta đốt 5.000 tỷ đồng vàng mã, />30
Vân Thiêng, Mỗi năm dân ta đốt 5.000 tỷ đồng vàng mã?, truy cập ngày 27-05-2018.
31
X. BT, Đốt vàng mã: Từ lãng phí đến thảm họa cháy nổ, truy cập ngày 27-05-2018.
28

12


cho sự việc trên, đó là vụ hỏa hoạn lớn xảy ra tại Đền Mẫu Đồng Đăng ở tỉnh Lạng Sơn vào
hôm mùng 5 Tết vừa qua. Lửa bốc cao kèm theo khói lớn và bụi mù mịt, khiến người dân đi lễ
hoảng sợ và bỏ chạy. Theo người dân ở đây, ngọn lửa đã lan nhanh sang gần 10 gian nhà khác,
khói bụi bốc nghi ngút, thiêu rụi toàn bộ đồ đạc do tất cả các kios bán hàng đều chứa rất nhiều
đồ mã – vật liệu dễ cháy.32
5.3.


Các ý kiến trái chiều liên quan đến việc sử dụng vàng mã

Các ý kiến ủng hộ
Đa số những người ủng hộ cho rằng, tập tục đốt vàng mã là một phần trong văn hóa,


tín ngưỡng dân gian lâu đời. Nó mang một ý nghĩa nhân văn, cụ thể là tinh thần uống nước nhớ
nguồn của dân tộc. Vàng mã là “phương tiện nối kết” giữa người sống và người đã khuất, giúp
con cháu có dịp nhớ đến ông bà tổ tiên. Còn đối với tín ngưỡng thờ Mẫu, vàng mã là một vật
phẩm tôn giáo không thể thiếu trong các dịp lễ trong tín ngưỡng này.
Một yếu tố không kém phần quan trọng là, nhiều làng nghề, cơ sở, gia đình sản xuất
vàng mã đã hình thành và phát triển trong một khoảng thời gian dài, nên không thể cấm việc
sử dụng vàng mã vì như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn cho một lượng lớn nhân công sản xuất vàng
mã củng như người kinh doanh.


Các ý kiến phản đối
Các ý kiến phản đối thường đưa ra các quan điểm như, đây là một tập tục ngoại lai từ

Trung Quốc, và rằng đây là tập tục mê tín, mù quáng. Hơn nữa việc dùng tiền thật mua tiền giả
hay những đồ mã khác để đốt là một sự lãng phí rất lớn cho xã hội. không những việc đốt vàng
mã đã góp phần làm cho sự ô nhiểm môi trường ở nước ta càng trầm trọng, nguy cơ gây hỏa
hoạn từ việc đốt vàng mã là rất lớn.


Ý kiến của Giáo hội Phật giáo
“Đề nghị chư Tôn đức Tăng Ni nêu cao tinh thần Bồ tát đạo, hướng dẫn đồng bào Phật

tử và bà con loại bỏ mê tín dị đoan, đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo và các hình thức
khác trái với thuần phong mỹ tục, văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo Việt Nam.”33


Ý kiến của các cơ quan nhà nước

Từ năm 1998 đến nay, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc sử dụng vàng mã được đưa
ra. Quan sát cho thấy, mức độ quy định của các văn bản pháp luật về việc sử dụng vàng mã

ngày càng chặt. Từ việc “vận động nhân dân bỏ dần tục đội mũ rơm, chống gậy, rắc vàng mã
dọc đường ”34, kế đến là “hạn chế tối đa việc rắc vàng mã, tiền âm phủ trên đường”,35 đến việc
32

Nt.
Công văn 031 /CV-HĐTS ngày 12 tháng 02 năm 2018 Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam
34
Thông tư số 04/1998/TT-BVHTT ngày 11-7-1998.
35
Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25-11-2005 của Thủ tướng Chính phủ.
33

13


đưa ra những mức hình phạt cụ thể như trong nghị định Nghị định 158/2013/NĐ-CP năm 2013:
“Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đốt vàng mã không đúng nơi
quy định tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử - văn hóa”.
6.

Kết luận

Tập tục đốt vàng mã ở Việt Nam là tập tục xuất phát từ Trung Quốc. Nó được du nhập
vào Việt Nam vào thời Bắc Thuộc. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, nó vẫn tồn tại và
trở thành một phần trong văn hóa tín ngưỡng của một bộ phận người Việt.
Những năm gần đây, tập tục này có chiều hướng phát triển mạnh mẽ, kèm theo đó là
những biến tướng và những tác động xấu đến xã hội Việt Nam. Đã có nhiều văn bản pháp luật
hướng dẫn việc cử hành tập tục này, tuy nhiên nó vẫn chưa đạt hiệu quả.
Bên cạnh những tác động tiêu cực, vàng mã cũng diễn tả những niềm tin, quan niệm
củng như truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta như “uống nước nhớ nguồn”, “kính nhớ tổ tiên”.

Hơn nữa đây cũng là một ngành nghề tạo công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động trong
nước.
Vì thế chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn về những mặt lượi và hại của tập tục này.
Đồng thời tránh những hành vi lạm dụng, làm méo mó ý nghĩa của nó so với ý nghĩa ban sơ.

14


Thư mục
Sách, Luận văn
1. Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam (quyển hạ), nxb Văn nghệ, TP. HCM, 2000.
2. Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một
số hộ gia đình ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội),
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn Hà Nội 2016.
3. Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình
Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa
học, 2016
4. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển bách
khoa Việt Nam (tập 1), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, 1995.
5. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ (1773), biên dịch Trần Văn Giáp, hiệu đính Cao Xuân
Huy, nxb Văn hóa-Thông tin, 1962, từ trang 192 đến trang 193.
6. Thông tư số 04/1998/TT-BVHTT ngày 11-7-1998.
7. Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25-11-2005 của Thủ tướng Chính phủ.
8. Công văn 031 /CV-HĐTS ngày 12 tháng 02 năm 2018 Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật
giáo Việt Nam.
Tài liệu trên internet
1. Đường Huyền Tông,
/>1n_T%C3%B4ng.
2. Hòa Thượng Thích Tố Liên, Nguyên Nhân Tục Đốt Vàng Mã,

truy
cập ngày 18 tháng 5 năm 2018.
3. GS. Ngô Đức Thịnh, Thời gian và cách chuẩn bị mâm cỗ cúng hóa vàng Tết Mậu
Tuất, truy cập ngày 27-05-2018.
4. GS. Ngô Đức Thịnh, Đốt vàng mã thế nào mới là điều đáng nói,
truy cập ngày 25-05-2018.
5. Hương Lan, Bỏ đốt vàng mã: Tránh lãng phí, xóa nạn 'đút lót' thánh thần?,
truy cập ngày 25-05-2018.
1


6. Vân Thiêng, Mỗi năm dân ta đốt 5.000 tỷ đồng vàng mã, truy cập ngày 25-05-2018.
7. BT, Đốt vàng mã: Từ lãng phí đến thảm họa cháy nổ, truy cập
ngày 27-05-2018.

2



×