Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tác giả Nguyễn Tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.24 KB, 2 trang )

Tóm tắt những nét chính trong sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân.
Dàn ý:
I.Mở bài
Là một định nghĩa độc đáo về người nghệ sĩ, đồng thời là một nhà văn, một nhà văn hóa lớn,
sau hơn nửa thế kỉ cầm bút, Nguyễn Tuân đã để lại một sự nghiệp văn học lớn lao, với nhiều
tác phẩm có phong cách độc đáo và giá tri lâu dài.
II. Thân bài
1. Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông bắt
đầu cầm bút từ khoảng 1930, từng thử bút qua nhiều thể loại như thơ, bút kí, truyện ngắn
hiện thực trào phúng… nhưng mãi đến đầu 1938, ông mới thực sự nổi tiếng với những tác
phẩm xuất sắc, có phong cách độc đáo: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939),
Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941)…
2. Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh 3 đề tài chính:
Đề tài “vang bóng một thời”, đề tài về đời sống trụy lạc, đề tài về“chủ nghĩa xê dịch”.
a.“Chủ nghĩa xê dịch” vốn là một lí thuyết vay mượn của phương Tây, chủ trương đi không
mục đích, chỉ luôn thay đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ, thoát ly mọi trách nhiệm đối với gia
đình và xã hội. Nguyễn Tuân tìm đến lý thuyết này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước
thời cuộc. Viết về “chủ nghĩa xê dịch”, Nguyễn Tuân có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó thiết tha
của ông đối với cảnh sắc và phong vị đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút trìu
mến, tài hoa.
b. Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của “một thời vang
bóng”. Ông miêu tả vẻ đẹp riêng của thời thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu
dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã, những cách ứng xử nhịp nhàng, nghi lễ giữa người với
người…Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp nhà Nho tài hoa bất đắc
chí, tuy đã thua cuộc, nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân, hoặc có khí phách
ngang tàng như Huấn Cao…
c. Ở đề tài về đời sống trụy lạc, Nguyễn Tuân thường thể hiện một nhân vật “tôi” hoang
mang, bế tắc, tìm cách thoát ly trong đàn hát, rượu và thuốc phiện. Trong tình trạng khủng
hoảng tinh thần ấy, đôi khi vẫn vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục, niềm khát khao
một thế giới tinh khiết, thanh cao được nâng đỡ trên đôi cánh của nghệ thuật.(Chiếc lư đồng


mắt cua)
3. Lòng yêu nước, thái độ bất mãn với xã hội thực dân đã đưa Nguyễn Tuân đến với Cách
mạng và kháng chiến, chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, theo sát
từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Ông luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà
văn, luôn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Nguyễn Tuân chuyên viết
bút kí, tuỳ bút, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Với các tuỳ bút Đường
vui(1949), Tình chiến dịch(1950), Sông Đà(1960), một số tập kí chống Mĩ(1965-1975) như Hà
nội ta đánh Mĩ giỏi(1972) và nhiều bài tuỳ bút viết về cảnh sắc và hương vị đất nước, Nguyễn
Tuân đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo, đầy nghệ thuật ca ngợi quê
hương đất nước, ca ngợi nhân dân trong chiến đấu và sản xuất.
Hình tượng chính trong tác phẩm của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám là nhân dân
lao động và người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, nhưng họ không chỉ là những công dân
dũng cảm mà còn là những con người tài hoa nghệ sĩ, được mô tả trong những khung cảnh
cũng phù hợp với tính cách tài hoa nghệ sĩ ấy. Tác phẩm của Nguyễn Tuân mang đến cho
người đọc niềm tự hào của một dân tộc không chỉ có chính nghĩa và khí phách anh hùng mà
còn có tư thế sang trọng, cao đẹp của những con người sinh ra trên một đất nước có hàng
nghìn năm văn hiến.
III. Kết bài:
Nguyễn Tuân để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo, tài hoa,
xứng đáng được coi là một nghệ sĩ lớn. Ông được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật (1996 - đợt 1).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×