Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (993.27 KB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM AN HÒA

BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM AN HÒA

BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THANH DƯƠNG

HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
học viên. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm An Hòa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI......... 6
1.1. Những vấn đề lý luận chung về biện pháp bắt người ............................... 6
1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt người .............................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm pháp lý, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp bắt người ........ 7
1.2. Quy định của pháp luật về biện pháp bắt người phạm tội ....................... 11
1.2.1. Quy định về biện pháp bắt người trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988 ................................................................................................................. 11
1.2.2. Quy định về của biện pháp bắt người trong Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 ......................................................................................................... 14
1.2.3. Quy định về biện pháp bắt người trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015. ................................................................................................................ 23
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
VIỆC ÁP DỤNG ĐÚNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ................................ 29
2.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh ................................................................................................................ 29

2.1.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan và hoạt động bắt người ................... 29
2.1.2. Hoạt động bắt người ............................................................................. 30
2.1.3. Những hạn chế, khó khăn về việc áp dụng bắt người trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh ............................................................................................. 38
2.2. Các giải pháp nhằm đảm bảo việc áp dụng đúng biện pháp bắt người ... 48
2.2.1. Nâng cao trình độ của cán bộ điều tra ................................................. 48
2.2.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về bắt người .............................. 50
2.2.3. Nâng cao công tác phối hợp của các cơ quan tố tụng.......................... 56


2.2.4. Làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra việc áp dụng biện pháp bắt người
trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. ........ 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

BPNC

: Biện pháp ngăn chặn

CQĐT


: Cơ quan điều tra

TNHS

: Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng thống kê số người bị bắt trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh trong năm 2014 .............................................................................. 30
Bảng 2.2. Bảng thống kê số người bị bắt trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh trong năm 2015 ............................................................................... 30
Bảng 2.3. Bảng thống kê số người bị bắt trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh trong năm 2016 .............................................................................. 31
Bảng 2.4. Bảng thống kê số người bị bắt trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh trong năm 2017 .............................................................................. 31
Bảng 2.5. Bảng thống kê số người bị bắt trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh trong năm 2018 .............................................................................. 32


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là một khái niệm pháp lý và là một khái niệm khoa học. Tất
cả những hành vi bị coi là tội phạm đều có cùng bản chất xã hội và cùng
những đặc điểm nhất định. Tội phạm không chỉ là đối tượng được phản ánh
trong luật, trước hết là luật hình sự mà đồng thời cũng là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau.
Vài năm qua, dù nhiều lực lượng như công an, quân đội cho đến các cơ
quan nội chính như: Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân ba cấp luôn nỗ lực, đấu

tranh với các loại tội phạm song tình trạng này không hề giảm. Tội phạm
truyền thống như giết người, cướp của, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, buôn ma
túy cho đến tội phạm công nghệ cao càng ngày càng tinh vi, táo tợn.
Mới đây nhất là các vụ giết người tại tỉnh Bình Dương khi án mạng có
hai hoặc ba nạn nhân bị kẻ sát nhân “xuống tay” không thương tiếc. Kẻ thủ ác
hoạt động có tổ chức, có phân công chặt chẽ. Bên cạnh đó, tại TP. Hồ Chí
Minh, lực lượng công an đã chặn bắt nhiều vụ buôn bán ma túy, ngăn chặn
“cái chết trắng” đang gieo rắc tại đô thị lớn nhất nước và còn là nơi trung
chuyển ma túy từ tam giác vàng gồm Thái Lan - Lào - Myanmar sang Việt
Nam và đi các nước khác.
Đứng trước tình hình và thực trạng này, Quốc hội cũng như các bộ
ngành liên quan như Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao đã thông qua các bộ luật, thông tư với những chế định luật
nghiêm khắc nhằm giữ vững tính nghiêm minh của pháp luật, mang tính răn
đe, vừa giáo dục nghiêm khắc. Tuy nhiên, với các loại đối tượng đang hoạt
động không hề sợ hãi pháp luật thì cần một công cụ chuyên chính của nhà
1


cầm quyền là các biện pháp ngăn chặn để trừng trị và “thanh lọc” các loại tội
phạm.
Trong số đó, bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn, mang
tính quyền lực của nhà nước để đảm bảo thể chế chính trị và ổn định xã hội.
Điều này được quy định rất kĩ lưỡng trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 bởi
là vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng đến quyền con người của công dân.
Thực tế những năm qua, tại một vài địa phương trong cả nước, việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn như bắt người cũng còn hạn chế nhất định, vi phạm
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, xâm phạm đến quyền con người,
quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp 2013.
Do đó, nắm vững biện pháp ngăn chặn như bắt người được quy định tại

chương VII, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, là điều cần thiết, giúp cho lực
lượng công an cả nước đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm đang biến
tướng, đang từng ngày ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân, đe dọa sự ổn
định của trật tự an toàn xã hội.
Từ đó, tác giả chọn đề tài “Biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tại Việt Nam, cũng có một số công trình bàn về biện pháp bắt người
như:
-“Tội phạm và cấu thành tội phạm” của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa,
Nhà xuất bản Tư pháp (2015).
-“Luật hình sự so sánh” của PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia sự thật (2018).

2


-“Quyền con người” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội (2015).
-“Xã hội học pháp luật” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội (2015).

Ngoài ra, còn có một số công trình, bài viết đăng trên các tạp chí Công
an nhân dân, tạp chí Kiểm sát…Nhiều giáo trình giảng dạy ở bậc đại học, cao
đẳng như: Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, khoa
luật của các Học viện, Đại học Cảnh sát, Đại học An ninh…đã đề cập.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là bài viết khai thác theo kiểu nghiên cứu trên
diện rộng mà chưa đề cập đến những khó khăn và giải pháp cụ thể.
Việc nghiên cứu đúng đắn về biện pháp bắt người là đảm bảo đúng
theo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là bắt cho đúng người, đúng tội, không

để xảy ra oan sai. Đó còn là cách đảm bảo quyền công dân, quyền con người
được đề cao trong Hiến pháp 2013, quyền dân chủ theo xu thế của luật pháp
quốc tế.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm phát hiện những khó khăn, vướng mắc, thiếu sót trong quá trình
bắt người theo luật định, đề tài sẽ đánh giá thực trạng bắt người phạm tội tại
TP. Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra.
Từ đó, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng
biện pháp bắt người phạm tội. Bởi việc bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm
trong cuộc sống, ở mỗi quốc gia nói chung và tại Việt Nam nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3


Luận văn của học viên tập trung vào hai nhiệm vụ sau đây:
Một là, làm rõ lý luận cơ bản và quy định của pháp luật về biện pháp
bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nan.
Hai là, đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện việc bắt người đúng tội
danh, đảm bảo đúng nhân quyền và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đó là những điều luật quy định về biện pháp bắt người tại các Bộ luật
Tố tụng vào các năm: 1988, 2003 và 2015.
Qua đó, tác giả có sự đối chiếu, so sánh, phân tích và tổng hợp từ thực
trạng bắt người tại TP. Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Áp dụng của BLTTHS 2015 về việc bắt người trên địa bàn.
- Phạm vi về không gian: địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến năm 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, các thầy cô trong
Học viện chỉ bảo, học viên tìm tòi, thu thập thông tin để viết nên luận văn. Đó
là quá trình đút rút kinh nghiệm từ thực tiễn trong công tác hằng ngày và kinh
nghiệm của các thế hệ đi trước.
Tác giả đã sử dụng kì công nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
để làm sáng rõ vấn đề thể hiện trong luận văn này.
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận

4


Luận văn tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả của quyền công dân,
quyền con người, nâng cao niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và lực
lượng Công an nhân dân nói chung và Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an
TP. Hồ Chí Minh nói riêng.
Ngoài ra, đó là cách bảo vệ chế độ, bảo vệ thiết chế xã hội chủ nghĩa
trên cơ sở nhân quyền mà toàn thế giới đang chú trọng.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Luận văn là cơ sở cho các cơ quan xây dựng pháp luật hoàn thiện hơn
nữa các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt Nam về
hoạt động áp dụng biện pháp bắt người phạm tội và nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp bắt người trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Điều này sẽ giúp cơ
quan điều tra không để xảy ra án oan sai như một vài vụ việc vừa xảy ra trong
cả nước, gây bức xúc trong dư luận.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về áp dụng biện pháp bắt người.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh và giải pháp đảm bảo việc áp dụng đúng biện pháp bắt
người.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI
1.1. Những vấn đề lý luận chung về biện pháp bắt người
1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt người
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các biện pháp cưỡng chế nhà nước do
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng, trong đó biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí
rất quan trọng. Trong biện pháp ngăn chặn, đương nhiên có biện pháp bắt
người để trấn áp và phòng ngừa các loại tội phạm.
Ngoài ra, còn một số khái niệm khác về biện pháp ngăn chặn của các
nhà khoa học, cán bộ làm công tác thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm.
Trong điều tra hình sự, bắt là biện pháp ngăn chặn, do các cơ quan điều
tra có thẩm quyền tiến hành, trong những trường hợp và theo trình tự, thủ tục
do luật Tố tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động điều tra.
Vì vậy, khi có căn cứ nhận định một người chuẩn bị phạm tội rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, đang phạm tội hoặc đã phạm tội và đang
lẩn trốn…thì việc áp dụng biện pháp bắt người là tất yếu nhằm loại bỏ khả
năng các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho hoạt động điều
tra.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bắt người như vậy nên thời
gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật Tố tụng hình sự quy

định chi tiết về việc bắt người như: Luật số 103-SL/005 ngày 20/5/1957, Sắc
luật số 002-SLT ngày 18/6/1957; Sắc luật số 02-SL ngày 15/3/1976; Bộ luật
6


Tố tụng hình sự 1988 - Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ các khái niệm và nhận định trên, tác giả rút ra việt bắt người đó là
cách Nhà nước thể hiện quyền lực tối đa để trấn áp các loại hình tội phạm,
tránh gây thương tổn đến xã hội và mọi người.
Bên cạnh đó, bắt người còn có tác dụng ngăn ngừa những mầm móng
có nguy cơ đe dọa đất nước hoặc cá nhân cụ thể. Đó có thể là người đã phạm
tội, đang phạm tội hoặc sắp sửa phạm tội.
Các nhóm tội phạm này đã vi phạm pháp luật và đe dọa đến sự hòa
bình, ổn định của mỗi quốc gia và quyền cá nhân của từng công dân được
pháp luật không chỉ của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp bắt người
1.1.2.1. Đặc điểm pháp lý của việc áp dụng biện pháp bắt người
Theo tác giả Nguyễn Văn Cừ, các vụ án hình sự xảy ra với những tình
tiết khác nhau, nhưng khi giải quyết thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải
làm rõ những vấn đề được quy định. Như vậy, khi giải quyết vụ án hình sự,
các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh làm rõ nhiều tình tiết khác
nhau [7, tr. 141-142].
Do vật, việc làm rõ các tình tiết, chứng cứ để bắt người phạm tội là vô
cùng quan trọng với cơ quan chức năng. Bởi vậy, ngoài chứng cứ trực tiếp và
chứng cứ gián tiếp mà điều luật trong Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định, cơ
quan điều tra của lực lượng công an còn phải thu thập mẫu dấu vấn tay, thực
nghiệm hiện trường, hỏi người hỏi việc, hỏi chuyện, người chứng kiến, người
liên quan… mà tại Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã có từng điều khoản


7


riêng biệt quy định, không nhập chung như Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2003 trước đây đã từng đề cập.
Tác giả Võ Khánh Vinh của Học viện Khoa học xã Hội (Viện Hàn Lâm
khoa học xã hội Việt Nam) thì cho rằng: “…tố tụng hình sự được tiến hành
theo nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự thuộc về cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền. Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự,
những người tiến hành tố tụng hình sự có nghĩa vụ khởi động quá trình tố
tụng hình sự đối với vụ án mà không tùy thuộc vào có hay không yêu cầu của
người bị hại…” [32, tr.215].
Theo đó, phải có đầy đủ chứng cứ khẳng định chính bị can, bị cáo là
người đã gây ra vụ án hình sự, thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể
được quy định trong Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự thì mới được
bắt người.
Việc bắt người luôn tuân thủ theo những trình tự, thủ tục nghiêm ngoặt
nhất. Những điều này quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
2015 dành cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án nhân dân ba cấp,
thống nhất từ Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), đến cấp
huyện.
- Nguyên tắc áp dụng: Là sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng hình sự,
đồng thời nó cũng là chính sách hình sự của Nhà nước. Hệ thống các nguyên
tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được quy định và bổ sung dựa
trên nguyên tắc được quy định tại khoản 2 Điều 20 Hiến pháp 2013: “Không
ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang”, nhằm
khắc phục những hạn chế của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
8



- Căn cứ áp dụng: Phải dựa trên quy định của pháp luật theo tố tụng
hình sự một cách toàn diện và khách quan. Khi cán bộ điều tra, kiểm soát
viên, thẩm phán nếu làm sai lệch vụ án, không làm rõ sự thật của vụ án, bắt
người oan sai đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc này đảm bảo quy tắc
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và không có “vùng cấm” mà Đảng
ta đang khởi xuống. Bởi thực tế, nhiều cán bộ tham gia công tác tố tụng làm
sai đều bị truy tố, ra trước vành móng ngựa để đối diện với án hình sự được
quy định cụ thể từng chương, từng điều trong Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện
hành,
- Đối tượng bị áp dụng: Nhà nước đã có chính sách hình sự đối với
người phạm tội tùy theo độ tuổi, chẳng hạn như dưới 18 tuổi hay trên 18 tuổi.
Nếu 18 tuổi trở lên thì áp dụng thủ tục chung trong vụ án hình sự quy định tại
Bộ luật Tố tụng hình sự, nhưng dưới 18 tuổi phải thực hiện theo thủ tục ở một
số quy định liên quan. Chẳng hạn, với các vụ án hình sự mà từ 16 – 18 tuổi
với tội phạm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng thì ở lứa tuổi này sẽ bị
quy án bằng 2/3 mức độ của người thành niên. Người đủ 18 tuổi sẽ chịu mọi
trách nhiệm trước pháp luật như một người lớn trưởng thành.
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp bắt người
Bắt người là biện pháp cưỡng chế cương quyết nhất, thể hiện tính mệnh
lệnh, quyền uy của Nhà nước. Đây là quyền hạn lớn nhất của pháp luật trong
việc trừng trị và ngăn chặn mọi loại tội phạm. Nó ảnh hưởng đến tồn vong
của mỗi quốc gia, mỗi một chế độ, cho dù là chế độ tư bản chủ nghĩa, cộng
hòa trung lập hay xã hội chủ nghĩa. Từ trước đến nay, biện pháp này là quyết
liệt nhất trong các biện pháp ngăn chặn vì nó ảnh hưởng đến quyền nhân thân,
quyền con người không chỉ trong pháp luật tại Việt Nam mà của toàn thế giới.
9


Bởi người Việt Nam có câu nói của cụ Phan Châu Tranh: “Nhất nhật tại tù,

thiên thu tại ngoại”. Điều đó có nghĩa là, việc bắt người đi liền với tạm giam,
ở trong tù là một điều rất khó khăn với mọi người.
- Thứ nhất, tâm lý học tội phạm chỉ ra rằng, sau khi thực hiện hành vi
phạm tội, đối tượng thường có tâm lí lo sợ, muốn trốn tránh pháp luật nên tìm
mọi cách lẩn trốn, gây khó khăn trong quá trình tố tụng. Để ngăn ngừa mối
nguy hại với xã hội, Nhà nước buộc đối tượng phải bị xử lí theo pháp luật.
Việc bắt người trong những trường hợp này là phương tiện hữu hiệu ngăn
chặn tội phạm, không để nó xảy ra hoặc tiếp tục diễn ra trong thực tế. Nhằm
đạt mục đích đó, các cơ quan có thẩm quyền cần chủ động phát hiện kịp thời
những hành vi chuẩn bị phạm tội và những vụ tội phạm đang xảy ra cũng như
những người đang bị truy nã để áp dụng biện pháp bắt theo đúng quy định của
pháp luật.
- Thứ hai, cơ quan tố tụng phải làm theo trình tự, thủ tục quy định của
Luật. Khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì giữa họ và
Nhà nước nảy sinh quan hệ pháp luật hình sự và khi các cơ quan Nhà nước ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự thì giữa họ và Nhà nước (mà đại diện là các
cơ quan đó) xuất hiện quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Việc tham gia tố
tụng hình sự của bị can là hết sức cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
giải quyết vụ án. Đó không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ pháp lý của họ.
Khi bị can lẩn trốn, không chịu có mặt theo yêu cầu của cơ quan điều tra thì
việc giải quyết vụ án sẽ rất khó khăn, thậm chí bị gián đoạn. Vì vậy, khi có
những căn cứ do luật định thì cơ quan điều tra cần áp dụng biện pháp bắt để
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của mình.

10


- Thứ ba, áp dụng biện pháp bắt người phạm tội là đảm bảo quan trọng
trong việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được quy định
trong Hiến pháp 2013. Do đó, người tiến hành tố tụng phải hết sức thận trọng,

đảm bảo bắt đúng người, đúng tội theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
và những quy định khác về thẩm quyền ra lệnh bắt, trình tự, thủ tục tiến hành
bắt cũng phải được chấp hành nghiên chỉnh. Ngoài ra, khi quyết định việc bắt,
trong nhiều trường hợp cần cân nhắc ảnh hưởng đến việc thực hiện các đường
lối, chủ trương, chính sách khác của Đảng và Nhà nước. Trong mọi trường
hợp bắt người, phải đảm bảo và tôn trọng danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính
mạng của người bị bắt, tính mạng và tài sản của nhân dân nơi tiến hành bắt.
- Thứ tư, áp dụng biện pháp bắt người phạm tội góp phần quan trọng để
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, tài sản, sức khỏe, danh dự và
nhân phẩm của công dân; đồng thời trấn áp các loại tội phạm. Điều này đảm
bảo cuộc sống bình yên của nhân dân.
1.2. Quy định của pháp luật về biện pháp bắt người phạm tội
Biện pháp bắt người đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự
1988, 2003 và 2015.
1.2.1. Quy định về biện pháp bắt người trong Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 1988
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân ra đời phải tổ chức cho nhân dân vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc. Nhiệm vụ của cách mạng thời kỳ này là đấu tranh với thù trong, giặc
ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật quy định về những biện pháp ngăn chặn mà cụ thể là biện pháp

11


ngăn chặn bắt người và sử dụng biện pháp này như phương tiện sắc bén để
đấu tranh chống Việt gian, phản động và những tội phạm nguy hiểm khác.
Tuy nhiên, thời kỳ này chưa có các văn bản quy định riêng về biện
pháp ngăn chặn bắt mà mới chỉ đựợc quy định xen kẽ trong những văn bản
pháp luật, một số cơ quan tư pháp được ra đời liên quan đến việc bắt được

quy định: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và ngạch
Thẩm phán; Sắc lệnh 23/SL ngày 21/02/1946 thành lập Việt Nam Công an vụ.
Theo Sắc lệnh này thì lực lựợng Công an vụ có nhiệm vụ “Điều tra về những
hành động trái phép và truy tìm người can phạm để giúp Tòa án trong sự
trừng trị”; Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/07/1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp
Công an tại Điều thứ 2: “Tư pháp Công an có nhiệm vụ truy tầm tất cả các sự
phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các tang chứng, bắt
giao người phạm pháp cho các Tòa án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn
định”[4]; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp thì:
“Tư pháp Công an có nhiệm vụ bắt người phạm pháp và giao cho các Tòa án
xét xử” [5]. Nội dung của các văn bản trên thể hiện rõ quan điểm của Chính
quyền Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa là tôn trọng và bảo vệ quyền tự
do thân thể của nhân dân đối với các phần tử xâm phạm đến lợi ích và sự an
toàn của Nhà nước.
Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã có những tư tưởng, nguyên tắc định
hướng cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giam, tạm giữ trong
Bộ luật Tố tụng hình sự 1988. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng thì việc bắt
người vẫn gặp nhiều khó khăn. Hiến pháp năm 1980 ra đời, hệ thống pháp
luật từng bước hoàn thiện, nhiều văn bản pháp luật được sửa đổi, bổ sung
hoặc ban hành mới.
12


Để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, Bộ luật Tố tụng
hình sự 1988 đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm: 1990, 1992, 2000. Các
quy định về bắt người đã được hoàn thiện hơn qua các lần sửa đổi, bổ sung.
Bởi nó đụng chạm đến quyền cơ bản của công da được pháp luật bảo hộ.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã quy định một cách cơ bản tất cả
các vấn đề liên quan đến biện pháp bắt người. Theo đó, tại các điều 62, 63, 64
của chương 5 quy định biện pháp bắt người bao gồm ba trường hợp:

- Điều 62, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã quy định thẩm quyền
của nhiều đối tượng được kí lệnh bắt người trong trường hợp “bắt bị can, bị
cáo đề tạm giam”. Đây là những điều luật sơ khởi, làm tiền đề để xây dựng
trong những bộ luật lần sau.
Lần đầu tiên, Bộ luật tố tụng Hình sự đầu tiên của nước ta quy định các
cấp có thẩm quyền kí lệnh bắt gồm Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân
các cấp; Thủ trưởng, thủ phó cơ quan cảnh sát điều tra…
Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang quy định tại Điều 63 và Điều 64 Bộ luật này.
-Điều 63, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã quy định “bắt người
trong trường hợp khẩn cấp” cũng quy định thẩm quyền của nhiều đối tượng
được kí lệnh bắt người. Đó là trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện,
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên;
Người chỉ huy của đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn; người chỉ huy đồn
biên phòng ở hải đảo hoặc biên giới;
-Điều 64, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 cũng quy định “bắt người
phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã”. Đối với người đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt,
13


cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và
giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần
nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan
điều tra có thẩm quyền. Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị
truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí của người bị bắt.
Pháp luật tố tụng hình sự gia đoạn này chỉ nói chung, vẫn còn bộc lộ
nhiều bất cập. Do đó, yêu cầu về một bộ luật tố tụng hình sự cụ thể hơn, tốt
hơn, đảm bảo quyền công dân hơn là điều tất yếu sẽ ra đời trong những Bộ
luật Tố tụng sau này. Bên cạnh đó, cách soạn luật tại thời điểm này cũng chưa

mang tính dự báo tốt bởi chưa có sự xuất hiện của các loại tội phạm có tổ
chức, có sữ kết hợp, tinh vi như sau này. Kĩ thuật lập pháp do đó chưa thể
tránh khỏi sự hạn chế cũng là điều dễ hiểu.
1.2.2. Quy định về của biện pháp bắt người trong Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003
Xuất phát từ những diễn biến của tình hình phạm tội, từ yêu cầu của
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, yêu cầu tăng cường pháp chế và
vấn đề bảo đảm các quyền cơ bản của công dân nên Bộ luật Tố tụng hình sự
2003 đã ra đời.
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25
tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10, Bộ luật Tố tụng hình
sự 2003 đã quy định ba trường hợp bắt người cụ thể với các nội dung, thẩm
quyền và thủ tục khác nhau. So với quy định tại Điều 68, Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988, thì đối tượng có thể bị tạm giữ được quy định tại Điều 86
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 rộng hơn, bao gồm: Người bị bắt trong
14


trường hợp khẩn cấp; người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; người
phạm tội tự thú, đầu thú; người bị bắt theo quyết định truy nã. Thủ tục tạm
giữ bao gồm: Quyết định tạm giữ; các công việc mà người thi hành quyết
định tạm giữ phải thực hiện trước hoặc sau khi tạm giữ người.
Quy định về tạm giữ được quy định tại Quy chế về tạm giữ, tạm giam
ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7 năm 11 năm 1998,
bao gồm: Quy định về việc quản lý nhà tạm giữ, người bị tạm giữ; Quy định
về chế độ đối với người bị tạm giữ.
Để bảo đảm cho công tác kiểm sát giam giữ, tránh vi phạm quyền tự
do, bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, tại khoản 3 Điều 86 của Bộ
luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã quy định: Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi

ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp.
Khi ra quyết định tạm giữ, nếu người bị tạm giữ có con chưa thành niên
dưới 14 tuổi và thân nhân là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc,
thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải giao những người đó cho người thân thích
hoặc cho chính quyền địa phương chăm sóc.
Cơ quan ra lệnh tạm giữ phải thông báo cho người bị tạm giữ những
biện pháp đã được áp dụng để chăm sóc con nhỏ, người thân già yếu, tàn tật
và bảo quản nhà cửa, tài sản của người bị tạm giữ.
- Điều 80, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định cụ thể về
trường hợp “bắt bị can, bị cáo để tạm giam”.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, bắt bị can, bị cáo để tạm giam không
phải là biện pháp ngăn chặn duy nhất, vì thế không phải mọi bị can, bị cáo
đều bị bắt để tạm giam.
15


+ Thẩm quyền:
Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định; Trường hợp cơ quan điều tra ra
lệnh thì lệnh bắt bị can để tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn trước khi thi hành.
Ngoài ra, quy định việc xem xét để phê chuẩn lệnh bắt người của Cơ
quan điều tra trước khi thi hành còn giúp hạn chế tình trạng lạm dụng quyền
được áp dụng biện pháp ngăn chặn để tác động một cách trái pháp luật đến
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vì những mục đích cá nhân.
Những lệnh bắt người không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng
cấp sẽ không có giá trị thi hành.
Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng,

Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp
quyết định; Chánh án, Phó chánh án tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các
cấp.
+ Điều kiện áp dụng:
Khi bắt phải lập biên bản bắt người. Các quy định về thủ tục bắt người
chặt chẽ như trên nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân của người ra lệnh bắt và
người thi hành lệnh bắt, bảo đảm bắt đúng người phạm tội cần bắt và những
quyền chính đáng của người bị bắt, đồng thời cũng nhằm loại trừ những hành
động của bọn lưu manh giả danh cán bộ đến bắt người hòng chiếm đoạt tài
sản của công dân.
- Điều 81, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định trường hợp “bắt
người trong trường hợp khẩn cấp”.
16


Hành vi chuẩn bị phạm tội nói trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại lợi
ích của Nhà nước và công dân nhưng nó đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị
đe dọa rất nghiêm trọng.
Có như vậy mới bảo đảm tính xác thực và giá trị của lời tố giác tội
phạm.
Trường hợp người bị hại hoặc người khác đã xác nhận về kẻ thực hiện
tội phạm nhưng họ không phải là người trực tiếp chứng kiến lúc tội phạm
đang diễn ra mà nghe người khác kể lại, mô tả lại đặc điểm nhận dạng của
người phạm tội, thì không được bắt khẩn cấp. Xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó trốn.
Những căn cứ để xét và đi đến quyết định cần bắt để ngăn chặn ngay
việc người phạm tội trốn gồm các trường hợp sau đây: đang có hành động bỏ
trốn hoặc đang chuẩn bị bỏ trốn; không có nơi cư trú rõ ràng; có nơi cư trú
nhưng ở quá xa; là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; chưa xác định
được thân nhân người đó (căn cước lý lịch không rõ ràng).

Để có quyết định đúng đắn trong việc bắt khẩn cấp theo trường hợp thứ
hai này, cơ quan điều tra cần thẩm tra, xác minh kịp thời lời xác nhận, tố giác
của người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm, đồng thời phải
kiểm tra căn cước lai lịch và lấy lời khai của người bị tố cáo là kẻ phạm tội.
Chú ý đề phòng sự nhầm lẫn của người phát hiện, tố giác hoặc sự vu khống.
Nếu người nào lợi dụng quyền phát hiện, tố giác tội phạm để vu khống cho
người khác (bịa đặt là người khác phạm tội rồi báo cáo với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền) sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều kiện này đòi hỏi phải có căn cứ để cho rằng nếu không bắt ngay,
người bị nghi thực hiện tội phạm nói trên rất có thể sẽ trốn hoặc có hành động
17


tiêu hủy tài liệu, chứng cứ. Các tình tiết được coi là căn cứ để ngăn chặn việc
người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn cũng tương tự như các tình tiết được
trình bày trong trường hợp khẩn cấp thứ hai.
Nếu người bị nghi thực hiện tội phạm không có biểu hiện bỏ trốn
nhưng lại có hành động chuẩn bị tiêu hủy chứng cứ hoặc đang tiêu hủy chứng
cứ thì cũng cần quyết định bắt khẩn cấp ngay.
Mặc dù các trường hợp khẩn cấp mang tính chất rất cấp bách, cần phải
ngăn chặn ngay hành vi phạm tội, hoặc hành vi trốn tránh pháp luật của người
phạm tội nhưng việc nhận biết các hành vi đó không dễ dàng, thường phải
tiến hành theo dõi, thẩm tra, xác minh mới biết được. Vì vậy, Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định công dân không được quyền bắt người trong trường hợp
khẩn cấp nhưng có trách nhiệm giúp đỡ cơ quan điều tra kịp thời phát hiện và
bắt ngay những kẻ phạm tội để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích chính
đáng của công dân.
+Điều kiện áp dụng:
Mọi công dân khi phát hiện hoặc nghi vấn một người nào đó đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm, khi phát hiện trong người hoặc tại chỗ ở của

người khác có ấu vết của tội phạm, khi gặp lại kẻ trước đó đã gây ra tội phạm
mà mình trực tiếp chứng kiến… thì cần lập tức báo ngay cho cơ quan điều tra
để kịp thời thẩm tra, xác minh và có biện pháp giải quyết. Nếu xét thấy có đủ
căn cứ và cần thiết thì cơ quan điều tra quyết định bắt khẩn cấp. Mọi công dân
cũng cần giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo dõi, giám sát chặt chẽ
người bị nghi thực hiện tội phạm, không để cho họ có điều kiện chạy trốn,
phân tán, cất giấu hoặc tiêu hủy chứng cứ.

18


×