Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.2 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Phạm Văn Hiền

Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn
tỉnh Lâm Đồng

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

BUÔN MA THUỘT - 2019

1


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Phạm Văn Hiền

Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

PGS.TS. LÊ VĂN LONG


Buôn Ma Thuột - 2019

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công
trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước pháp luật về đề tài của mình.

Người cam đoan

Phạm Văn Hiền

3


Mục lục
Chương 1
Những vấn đề lý luận, pháp lý về công chứng và quản lý nhà nước về
công chứng
1.1 Những vấn đế lý luận về công chứng và quản luản lý nhà nước về công
chứng.(trang 9)
1.2 Cơ sở pháp lý về quản lý nhà nước về công chứng ( trang 25)
Chương 2
Thực trạng quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động đến hoạt động đến hoạt động
quản lý nhà nước về công chứng. ( trang 31)

2.2 Thực trạng công tác quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tại tỉnh
Lâm Đồng (trang 33)
Chương 3
Quan điểm và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về công chứng từ
thực tiễn tỉnh Lâm Đồng
3.1 Quan điểm bảo đảm quản lý nhà nước về công chứng ( trang 57)
3.1 Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về công chứng (tramg 60)
Kết luận
Danh mục các bảng biểu
Bảng 2.1: Kế hoạch chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công
chứng và tự chủ tài chính (trang 36)
Bảng 2.2: Tổ chức hành nghề công chứng (trang 47)
Bảng 2.3: Kết quả hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng (trang
48).

4


Mở đầu
1.Tính cấp thiết đề tài.
Lịch sử ra đời công chứng trên thế giới có từ khá sớm cùng với các
thiết chế khác trong bộ máy nhà nước. Trải qua quá trình thay đổi của các
cuộc cách mạng lớn của lịch sử thế giới công chứng giữ vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội như trong quan hệ đất đai, hôn nhân gia đình, thừa kế.
Từ năm 1858 -1954, đã hình thành và phát triển công chứng ở Việt
Nam ngay sau khi người Pháp đến Đông Dương và quá trình thực dân hóa ở
đây, người Pháp đã sáng lập và thiết chế công chứng Pháp tại Đông Dương.
Các công chứng viên chủ yếu là người Pháp mà chưa có công chứng viên
người Việt Nam.
Sau năm 1954 ở Miền Nam, chính quyền Sài Gòn vẫn duy trì mô hình

công chứng của Pháp tại Việt Nam và tổ chức lại 3 phòng công chứng cũ của
người Pháp thành một phòng công chứng và bổ nhiệm công chứng viên là
người Việt Nam thay các công chứng viên là người Pháp, Phòng công chứng
đặt dưới sự quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp của Việt Nam Cộng Hòa.
Phòng công chứng này hoạt động đến trước ngày Miền Nam được giải phóng
( 30/4/1975).
Cách mạng tháng Tám thành công ( 1945) bộ máy thực dân phong kiến
đập tan, cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới, ngày 15/11/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời của Nước Việt Nam Dân
chủ Công hòa ban hành Sắc lệnh 59/SL về việc ấn định thể lệ thị thực của các
giấy tờ, đặt nền móng cho sự phát triển công chứng. Ngay từ thời kỳ đầu xây
dựng đất nước trải qua 74 năm xây dựng đất nước đến nay, hệ thống công
chứng của nước ta đã có những bước phát triển đáng kể, đánh dấu Luật công
chứng 2006 và Luật công chứng 2014 với nhiều chế định có bước đột phá có
nhiều mặt ưu điểm, có tác động tích cực góp phần trong việc phát triển kinh tế

5


xã hội, bên cạnh đó luật công chứng mới ban hành cũng bộc lộ nhiều bất bất
cập như: Phát triển các tổ chức công chứng, thanh tra, kiểm tra; quy trình bổ
nhiệm công chứng viên,… Đặc biệt là từ khi có chủ trương xã hội hóa công
chứng, cùng với sự phát triển kinh tế theo hướng hội nhập yêu cầu công tác
quản lý nhà nước nói chung và lĩnh vực công chứng nói riêng cần có cách
thức, phương pháp mới bắt kịp sự thay đổi sự phát triển của hoạt động công
chứng. Trong công tác quản lý nhà nước ngoài đảm bảo theo quy định pháp
luật hiện hành còn cần phải xem xét tình phù hợp từng vùng, miền, điều kiện
kinh tế xã hội, đô thị, nông thôn,…
Xuất phát từ thực tế trên học viên chọn đề tài “ Quản lý nhà nước về
công chứng từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng” làm đề tài nghiên cứu với mong

muốn đánh giá thực trạng nguyên nhân và tìm ra một số giải pháp trong công
tác quản lý nhà nước về công chứng của tỉnh Lâm Đồng, góp phần tăng
cường quản lý nhà nước, hướng tới xây dựng hoạt động công chứng trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng chuyên nghiệp, hiện đại, góp phần xây dựng tổ chức công
chứng Việt Nam tiên tiến, hội nhập công chứng khu vực và thế giới.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định công chứng được từ những ngày đầu hình thành cho đến nay
đã có những thay đổi gắn liền hình thành và phát triển bộ máy nhà nước ta
qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và được thể hiện qua các văn bản pháp luật
khác nhau để phù hợp. Trên cơ sở quy định pháp luật và tình hình thực tiễn
quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng tại các địa phương trên cả nước, đã
có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này cụ thể như sau:
-Đề tài về cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và
hoạt động công chứng ở Việt Nam do Bộ Tư pháp làm chủ đề tài tổ chức
nghiên cứu và nghiệm thu. Đề tài đã nghiên cứu toàn diện, sâu sắc và bao
quát về công chứng thông qua nêu lên những vấn đề lý luận về công chứng
như khái niệm, vị trí, vai trò của công chứng, các trường phái công chứng trên

6


thế giới, ý nghĩa pháp lý và hình thức của văn bản công chứng, phạm vi các
việc công chứng vấn đề trách nhiệm công chứng, một số mô hình công chứng
trên thế giới; thực tiễn hoạt động công chứng tại Việt Nam, nêu lên các vấn đề
lịch sử hình thành và phát triển công chứng ở Việt Nam, phạm vi công chứng,
giá trị, ý nghĩa pháp lý của văn bản công chứng và tổ chức hành nghề công
chứng ở nước ta.
-Luận án tiến sỹ Luật học : Nghiên cứu pháp luật về công chứng một số
nước trên thế giới nhằm góp phần hoàn thiện luận cứ khoa học cho việc hoàn
thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, của tác giả Tuấn Đạo

Thanh năm 2008. Nội dung luận án trên cơ sở so sánh quy định của pháp luật
công chứng một số nước trên thế giới với pháp luật về công chứng ở Việt
Nam, đồng thời luận án đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về công
chứng, từ đó đưa ra một số luận cứ khao học làm cơ sở cho việc xây dựng
pháp luật ở Việt Nam.
-Luận văn thạc sỹ: Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực
trạng và các giải pháp của tác giả Phạm Thị Mai Trang. Luận văn đã thể hiện
những vấn đề lý luận và thực tiễn về công chứng và xã hội hóa công chứng,
đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề công
chứng và phân tích yêu cầu khách quan và thực tiễn xã hội hóa công chứng ở
Việt Nam, đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện chế định pháp luật
về xã hội hóa công chứng ở nước ta.
-Luận văn thạc sỹ: Hoạt động công chứng tại tỉnh Bắc Giang thực trạng
và các giải pháp của tác giả Đỗ Thị Loan năm 2015. Luận văn phân tích cơ sở
lý luận và phân tích đánh giá thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc
Giang, đồng thời cũng nêu lên một số bài học kinh nghiệm để phát huy những
ưu điểm và khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực công chứng ; trên cơ sở đó tác giả
đưa ra phương hướng, giải pháp thực hiện có hiệu quả hoạt động công chứng

7


phù hợp tại địa bàn tỉnh Bắc Giang và các tỉnh phụ cận có điều kiện kinh tế xã
hội tương tự Bắc Giang.
Những công trình được công bố trên đã nghiên cứu, củng cố nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn trên lĩnh vực công chứng của nước.Tuy nhiên việc
nghiên cứu về quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
thì chưa có công trình nào thực hiện.
3.Mục đích và nội dung nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ lý luận về quản lý công
chứng, pháp luật quản lý về công chứng, thực tiễn thực hiện pháp luật quản lý
công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Từ đó đánh giá thực trạng pháp luật
quản lý về công chứng cũng như thực hiện pháp luật quản lý về công chứng
trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua, những kết quả đạt được và
hạn chế cũng như nguyên nhân của chúng.Trên cơ sở đó kiến nghị những giải
pháp bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về công chứng nói chung, những
giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về công chứng trên địa bàn
tỉnh Lâm Đồng nói riêng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý
nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới. Để
thực hiện yêu cầu trên luận văn xây dựng cơ sở lý luận của pháp luật quản lý
nhà nước về công chứng thông qua việc xác định các khái niệm có liên quan
như: khái niệm công chứng; khái niệm quản lý nhà nước về công chứng; xác
định đặc điểm, nội dung, vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
pháp luật quản lý về công chứng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận quản lý về công
chứng, thực tiễn thực hiện pháp luật quản lý về công chứng trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài về mặt không gian được giới hạn trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng; Về mặt thời gian được giới hạn từ năm 2015 đến nay.

8


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đề tài là dựa trên quan điểm, đường lối, quản
điểm của đảng về quản lý hành chính nhà nước, xây dựng pháp luật quản lý
về quản lý công chứng và quan niệm xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt
Nam. Phương pháp sử dụng trong luận văn là so sánh, tổng hợp, thống kê,

phân tích, điều tra,…
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật quản lý nhà nước
về công chứng; đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật quản lý về công
chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua, từ đó nêu lên những
giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về công chứng nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở để các cơ quan, đơn
vị chức năng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nghiên cứu, vận dụng vào thực tế
quản lý công chứng.
7.Kết cấu luận văn.
Kết cấu luận văn bao gồm: Phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo luận văn này và bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công chứng và quản lý nhà nước
về công chứng.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn
tỉnh Lâm Đồng.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về công
chứng từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng

9


Chương 1. Những vấn đề lý luận về công chứng và quản lý nhà nước về
công chứng
1.1. Những vấn đề lý luận về công chứng và quản lý nhà nước về công
chứng.
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm về công chứng.
1.1.1.1. Quan niện về công chứng.

Quá trình hình thành hoạt động công chứng gắn liền với sự phát triển của
xã hội loài người. từ thời kỳ cổ đại đến trung cổ, giữa người làm công chứng
và người lập văn tự thuê chưa được phân biệt rõ ràng. Ở thời kỳ cổ đại người
ta thấy những viên thư lại họ soạn thảo các khế ước theo một khuôn mẫu nhất
định. Lịch sử hình thành và phát triển nhà nước cũng cho thấy đã có thời kỳ
chưa có khái niệm công chứng một số tác giả nghiên cứu về công chứng cho
rằng có hai loại hình công chứng là tư chứng thư và công chứng thư. Điều này
được hiểu như sau:
Như vậy cho đến nay vẫn tồn tại một loại hoạt động chứng nhận, xác
nhận, cung cấp chứng cứ của bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào, nhằm phản ảnh
một sự kiện, hiện tượng mà họ cho là có thật, ví dụ : Cung cấp chứng cứ cho
Tóa án, xác nhận thời gian công tác, làm chứng cho việc giao tiền mua bán
nhà, làm chứng cho mua bán xe, làm chứng cho việc vay mượn,... Đây là một
loại chứng nhận vẫn tồn tại và có ý nghĩa thiết thực trong đời sống xã hội
nhưng không phải là hoạt động công chứng với danh nghĩa là một tổ chức
được nhà nước công nhận hoặc cho phép hoạt động.
Hình thức công chứng thư được hiểu công chứng chứng là lấy công
quyền làm chứng, sự chứng nhận ở đây mang tính quyền lực công, ngoài ra
còn có thể hiểu từ bản thân thuật ngữ công chứng đã mang ý nghĩa sự làm
chứng công khai, có dấu ấn công quyền, công chứng viên là người được nhà
nước bổ nhiệm thực hiện công việc này.

10


Công chứng với tư cách là một thể chế pháp lý đã hình thành ở nước ta
khá sớm, từ những năm 1930 dưới thời Pháp thuộc, nhưng mãi đến năm 1987,
thuật ngữ “công chứng” được sử dụng rộng rãi.
Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề quan trọng của hoạt
động quản lý nhà nước công chứng, có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và

thực tiễn, nó không những ảnh hưởng đến mô hình tổ chức cơ chế hoạt động
của công chứng mà căn cứ vào đó làm cơ sở xác định phạm vi, nội dung,
quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức giao cho nhiệm vụ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về công chứng. Trong quá trình hình thành và phát
triển hoạt động quản lý nhà nước ta về công chứng trong văn bản pháp luật có
khái niệm về công chứng như sau:
Thông tư 574/QLTPK năm 1987 của Bộ tư pháp quy định: Công
chứng nhà nước là một hoạt động của cơ quan nhà nước, nhằm mục đích
giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý
nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự
kiện đó có hiệu lực thực hiện. Hoạt động công chứng nhà nước làm sao phải
đảm bảo các điều kiện pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam
nhằm ngăn ngừa vi phạm pháp luật giúp cho việc giải quyết các tranh chấp
được thuận lợi, công bằng khách quan góp phần tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Nghị định số 45/HĐBT năm 1991 cũng nêu khái niệm hoạt động công
chứng cũng là việc xác thực các hợp đồng, giấy tờ mà pháp luật cho phép xác
nhận và mục đích cũng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, tổ chức,
đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Nghị định 31/CP của Chính phủ và Nghị định 75/2000/NĐ-CP của
Chính đchứng thực cho phù hợp quá trình phát triển của hoạt động giao dịch
dân sự và các yêu cầu pháp lý hợp pháp của cá nhân và tổ chức. Trong các lần

11


thay thế các văn bản quy phạm pháp luật trên cũng đã đưa ra khái niệm công
chứng một cách rõ ràng, hợp lý hơn từ cả nội dung công chứng chứng thực,
chủ thể thực hiện và giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Trong đó Nghị

định 75/2000/NĐ-CP đã phân biệt rõ hơn về hoạt động công chứng và hoạt
động chứng thực. Công chứng được xác định rất rõ là việc của Phòng công
chứng và chứng thực là việc của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân
dân cấp xã.
Luật công chứng năm 2006 ngoài việc kế thừa Nghị định 75/2000/NĐ-CP
trong việc xác định khái quát hơn về khái niệm công chứng, tuy nhiên lần
này luật xác định chủ thể công chứng, công chứng là việc của công chứng
viên, khác với các Nghị định ban hành trước là việc của cơ quan, đơn vị chứ
không phải quy định là cá nhân của công chứng viên theo quy định luật lần
này.
Luật công chứng quy định hiện hành một lần nữa kế thừa luật công công
chứng năm 2006 đã nêu khái niệm bao quát hơn, công chừng ngoài là việc
của công chứng viên trong việc xác nhận tính xác thực và tính pháp pháp của
các hợp đồng giao dịch trong dân sự mà còn quy định văn bản công chứng
không được trái đạo đức xã hội. Khái niệm lần này công chứng còn nêu cả
công chứng bản dịch giấy tờ từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt.
Luật công chứng năm 2014, khái niệm công chứng lần này ngoài việc
đảm bảo tính chính xác, hợp pháp còn nêu thêm tính đạo đức xã hội trong các
nội dung giao dịch của hoạt động công chứng không được trái. Đây cũng là
một vấn đề thực tiễn trong bối cảnh phát kinh tế của đất nước ta theo hướng
kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều mặt trái của nó như vấn đề đạo đức xuống
cấp, giá cả cạnh tranh thiếu hợp lý, lợi nhuận,…Do đó yếu tố đạo đức xã hội
cũng cần được đề cao và thể chế thành luật trong việc quản lý hoạt động công
chứng.

12


1.1.1.2. Đặc điểm của công chứng:

Thứ nhất, Luật công chứng lần này quy định có sự khác biệt so với quy
định các nghị định ban hành lần trước về công chứng, một đặc điểm về chủ
chủ thể công chứng đó là việc do công chứng viên thực hiện công chứng so
với trước đó thì công chứng là việc của cơ quan hành chính nhà nước cụ thể là
Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã.
Công chứng viên do Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm chịu trách nhiệm tiếp
nhận hoặc lập các hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công
chứng đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch sau khi được chứng nhận có giá
trị pháp lý, là cơ sở đảm bảo các bên yêu cầu công chứng tham gia giao dịch
các bước tiếp theo.
Công chứng viên theo quy định của pháp luật hiện hành được quy định
công chứng viên hoạt động tại Phòng công công là tại đơn vị sự nghiệp của cơ
quan trực thuộc Sở tư pháp và công chưng viên thuộc Văn phòng công chứng
là doanh nghiệp hoạt động theo loại hình công ty hợp danh.
Thứ hai hoạt động của công chứng nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện
chứng nhận các giao dịch dân sự, cụ thể các hợp theo quy định pháp luật bắt
buộc công chứng ví dụ như hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử
dụng đất, chứng nhận thỏa thuận phân chia di sản thừ kế. Ngoài ra còn chứng
nhận giao dịch vụ việc khác cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng
mà không trai1 pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Hợp đồng giao dịch được lập theo yêu cầu công chứng và chứng nhận
các hợp đồng giao dịch theo quy định của pháp luật là tạo nên các văn bản
công chứng. Xác lập hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công
chứng là việc công chứng viên, bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình thực
hiện giúp người yêu cầu công chứng thể hiện được ý chí nguyện vọng của
mình được thỏa thuận bằng văn bản không vi phạm pháp luật, không trái đạo
đức xã hội hoặc tư vấn, góp ý để người yêu cầu công chứng thể hiện đầy đủ ý

13



chí, nguyện vọng của mình một cách rõ ràng, chính xác trong các văn bản họ
tự lập nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch họ tự lập.
Nói cách khác, hành vi của công chứng viên nhằm xác nhận tính xác thực,
tính hợp pháp của hợp đồng hoặc các giao dịch.
Công chứng rất cần đề cao tính chính xác của các văn bản, hợp đồng
giao dịch công chứng nó có ý nghĩa quan trọng cho việc bổ trợ công tác tư
pháp, công chứng đảm bảo phải có giá trị chứng cứ là nguồn chứng cứ quan
trọng cho các cơ quan tố tụng nhất là tổ tụng dân sự. Sở dĩ pháp luật coi văn
bản công chứng có giá trị chứng cứ cũng là do tính xác thực của các tình tiết
sự kiện trong văn bản đó đã được công chứng viên chứng nhận. Tính xác thực
trong thực hiện việc công chứng cần phải được xác định mà việc của công
chứng viên cần kiểm tra trong quá trình thực hiện các giao dịch hợp đồng dân
sự của các bên trong quá trình giao kết thực tế, các sự này phải được diễn ra
có thật mà công chứng viên là người chứng kiến và được thể hiện cụ thể là
bút tích của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Chứng nhận các hợp đồng
giao dịch theo qui định của pháp luật ( hoặc theo yêu cầu của cá nhân, tổ
chức) là việc công chứng viên, bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình xác
nhận tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch. Đây cũng có thể nói là điểm để
phân biệt hai trường phái công chứng hình thức và công chứng nội dung. Đặc
điểm này của công chứng hệ Latine quy định chức năng phòng ngừa các tranh
chấp trong hợp đồng giao dịch của công chứng.
Thứ ba hợp đồng giao dịch đã công chứng nó có giá trị chứng cứ và còn
có giá trị thực hiện. Văn bản công chứng được Công chứng viên lập theo trình
tự thủ tục quy định của pháp luật, ghi lại thời gian, không gian, ý chí nguyện
vọng cũng như năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng
bằng việc ràng buộc các bên phải thực hiện đúng các cam kết đã xác lập, đồng
thời có giá trị pháp lý cả với bên thứ ba.

14



Thứ tư trong hoạt động công chứng phải đảm bảo thống nhất do cơ
quan nhà nước quản lý đối với các tổ chức hành nghề công chứng. Hoạt động
công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp cung cấp chứng cứ cho hoạt động tư
pháp nhưng hoạt động mang tính dịch vụ, chứng nhận giao kết trong giao
dịch dân sự. Từ tính quan trọng này do đó việc quản lý nhà nước cho hoạt
động công chứng là vô cùng quan trọng để đảm bảo cho các tổ chức hành
công chứng và công chứng viên hành nghề thực hiện theo trong khuôn khổ
pháp luật nhằm mục đích sâu xa là hạn chế các thiệt hại cho người yêu cầu
công chứng và giúp ích cho công tác bổ trợ tư pháp.
Hiện nay theo Luật công chứng 2014 tổ chức hành nghề công chứng
bao gồm Phòng Công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thành
lập, là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp và Văn phòng côg chứng do
các công chứng viên đăng ký thành lập hoạt động loại hình công ty hợp danh
theo Luật doanh nghiệp. Cả hai mô hình đặt dưới sự quản lý nhà nước mà trực
tiếp là Sở Tư pháp.
1.1.1.3. Chủ thể, vai trò, giá trị của công chứng
Chủ thể của công chứng: Xác định chủ thể công chứng là việc rất quan
trọng trong việc tìm hiểu một lĩnh vực pháp luật nào đó. Quay lại khái niệm
công chứng cho ta thấy các chủ thể trong hoạt động công chứng đó là công
chứng viên; các tổ chức hành nghề công chứng; người yêu cầu công chứng và
đối tượng công chứng.
Chủ thể thứ nhất là Công chứng viên:Công chứng viên là người có đủ
tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 8 Luật Công chứng 2014, được Bộ trưởng
Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng như: Công dân Việt Nam
thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo
đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công
chứng viên; Có bằng cử nhân luật; Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm
trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật; Tốt nghiệp


15


khóa đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc hoàn
thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định của luật công chứng; Đạt
yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; Bảo đảm sức khỏe để
hành nghề công chứng.
Chủ thể thứ hai là người yêu cầu công chứng: Người yêu cầu công chứng
là chủ thể được diễn ra trong quá trình gia dịch công chứng, chủ thể này tự
nguyện yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng thực hiện xác nhận công việc
của mình mà theo quy định pháp luật cần có xác nhận của công chứng viên
của các tổ chức hành nghề công chứng hoặc tự mình thấy việc đó pháp luật
không buộc phải xác nhận nhưng muốn cho sự yên tâm các vụ việc dân sự
giao dịch trong sống của mình cần xác nhận của công chứng viên. Người yêu
cầu công chứng theo quy định pháp luật công công là các cá nhân là công dân
Việt Nam hay người nước ngoài, tổ chức của Việt Nam hay tổ chức nước
ngoài.
Chủ thể thứ ba là tổ chức hành nghề công chứng: Tổ chức hành nghề
công chứng theo quy định pháp luật hiện hành đó là Phòng công chứng, đơn
vị sự nghiệp trực thuộc Sở tư pháp và Văn phòng công chứng là doanh nghiệp
hoạt động theo Luật doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp của Văn phòng
công chứng phải là công ty hợp danh. Hai chủ thể công chứng này đều thực
hiện một nhiệm vụ giống nhau trong việc chứng nhận các hợp đồng giao dịch
công chứng. Tuy nhiên kinh phí hoạt động và hoạch toán doanh thu khác
nhau. Phòng công chứng hoạch toán theo Luật ngân sách nhà nước, Văn
phòng công chứng hoạch toán theo Luật doanh nghiệp.
Chủ thể thứ tư là đối tượng công chứng: Đối tượng được công
chứng là bao gồm hợp đồng, giao dịch, bản dịch các văn bản khi được công
chứng có giá trị pháp lý kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu, có

hiệu lực thi hành với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải

16


quyết theo quy định pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng,
giao dịch có thỏa thuận khác. Những văn bản công chứng có giá trị chứng cứ;
chứng minh và bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn
bản được dịch.
Vai trò của công chứng:
Hoạt động công chứng đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng giao dịch, đáp ứng
nhu cầu của nhân dân trong kinh tế thị trường, góp phần góp phần tạo lập môi
trường pháp lý thuận lợi và tin cậy các hoạt động đầu tư kinh doanh, thương
mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng vào tiến
trình cải cách hành chính và cải cách tư pháp, cụ thể các điểm sau:
Thứ nhất, công chứng bảo đảm và tăng cường tính công khai, minh bạch
trong các hợp đồng, giao dịch: Những thỏa thuận các bên trong hợp đồng giao
dịch được cơ quan chuyên môn có thẩm quyền, khách quan, công tâm đánh
giá, xem xét chứng nhận, giúp thỏa thuận của các bên được công khai, minh
bạch hóa. Từ đó các bên có căn cứ, cơ sở để tôn trọng thực hiện các cam kết,
thỏa thuận đã ký, ngăn chặn các giao dịch bất hợp pháp.
Thứ hai, công chứng tháo gỡ ách tắc trong những trường hợp đặc biệt:
Công chứng là một hoạt động dịch vụ đặc biệt, ngoài việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình như một tổ chức nghề nghiệp tại trụ sở làm việc,
công chứng được thực hiện tận nơi theo yêu cầu nếu có lý do chính đáng
không đi lại được ( Tạm giam, tạm giữ, thi hành hình phạt tù, ốm đau, bệnh
tật,…).
Thứ ba, công chứng phòng ngừa các rủi ro, tranh chấp ngăn chặn và

hạn chế tình trạng lừa đảo: Trong những năm gần đây, hiện tượng lừa đảo,
tranh chấp liên quan đến đất đai có chiều hướng gia tăng với tính chất tinh vi,
phức tạp. Các giao dịch qua công chứng phần nào phát hiện các loại giấy tờ

17


giả mạo, chủ thể tham gia giao dịch đảm bảo tính pháp lý, văn bản công
chứng đảm bảo chặt chẽ góp phần hạn chế các rủi ro khi xảy ra tranh chấp.
Thứ tư, hoạt động công chứng là một chức năng bổ trợ tư pháp giúp
cho một số cơ quan tư pháp, cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong quá
trình thực hiện một số nhiệm vụ của mình. Nhất là cơ quan tư pháp văn bản
công chứng là nguồn cơ sở chứng cứ rất quan trọng trong quá trình giải quyết
tranh tụng trong thực hiện giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, hôn nhân gia
đình,…
Thứ năm, công chứng là tạo chứng cứ hỗ trợ cho hoạt động của các cơ
quan tài phán: Văn bản công chứng là vũ khí có hiệu lực, có giá trị pháp lý, là
chứng cứ tin cậy giúp cho cơ quan trọng tài và cơ quan tòa án giải quyết công
bằng, khách quan các tranh chấp dân sự, thương mại trong thực tiễn. Văn bản
công chứng là nguồn bằng chứng cho các cá nhân nắm giữ bằng chứng này để
chứng minh khi xảy ra các tranh chấp, bởi văn bản công chứng vừa là có giá
trị chứng cứ và đồng thời nó cũng có giá trị thực hiện.
Giá trị của văn bản công chứng:
Văn bản công chứng theo quy định pháp luật công chứng hợp động được
chứng nhận thì có hiệu lực thi hành cho các bên tham gia giao dịch, những
trường hợp một trong các bên không thực hiện nghĩa vụ của mình theo thỏa
thuận trong hợp đồng giao dịch thì sẽ giải quyết theo quy định pháp luật.
Trong khi đó luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật tố
tụng cũng quy định rất rõ ràng giá trị văn bản công chứng là giá trị chứng cứ
mà các bên tham gia giao dịch không phải chứng minh. Điều này khẳng định

văn bản công chứng nó rất có ý nghĩa cho các bên tham gia giao dịch trong
việc bảo vệ quyền lợi của mình khi xảy ra các tranh chấp.
Như vậy văn bản công chứng có các giá trị như sau:
Thứ nhất là văn bản công chứng có giá trị thi hành: Có thể khẳng định
rằng, văn bản công chứng ( các hợp đồng giao dịch) được thực hiện nếu chỉ

18


đơn thuần với mục đích tạo chứng cứ sẽ không có được ví trí, vai trò lớn như
hiện nay trong đời sống xã hội. Bởi vì, nếu chỉ với mục đích tạo chứng cứ, sẽ
không cần thiết phải duy trì thiết chế này khi mà việc xác lập bằng chứng có
thể được thực hiện bởi những cơ chế khác chẳng hạn như Luật sư, hay thừa
phát lại với chức năng lập vi bằng (hơn nữa, ngay tính bản thân một giao kết tự
nguyện, đúng pháp luật đã có giá trị ràng buộc các bên tham gia giao kết đó
phải chấp hành).
Khi tham gia vào các giao dịch dân sự, các bên đều mong muốn thỏa
thuận đã ký kết phải được tôn trọng thực hiện. Nếu sự thỏa thuận các bên được
xác lập bằng một cơ chế khác hơn so với các cơ chế thông thường thì cơ chế
này phải ưu việt hơn, phải đảm bảo chắc chắn hơn cho việc thực hiện các thỏa
thuận này. Với thiết chế công chứng, yêu cầu này các bên được đáp ứng. Đó
chính là cơ chế giá trị thi hành của văn bản công chứng. Giá trị thi hành văn
bản công chứng thể hiện ở chỗ không chỉ có giá trị bắt buộc thi hành với các
bên tham gia giao kết mà cả đối với các cơ quan nhà nước có liên quan. Trong
trường hợp một bên trong khế ước không thực hiện đúng như thỏa thuận, bên
kia có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền liên quan áp dụng biện pháp
cưỡng chế cần thiết buộc bên kia thi hành mà không cần phải đặt lại vấn đề
xem xét hiệu lực của hợp đồng đó. Vì vậy, theo luật của các nước theo hệ công
chứng La tinh, văn bản công chứng có giá trị như một công chứng thư, có giá
trị pháp lý bắt buộc thi hành không cần phải qua phán quyết của Tòa án.

Văn bản công chứng đã được chứng nhận theo quy định pháp luật thì có
giá trị thi hành cho các bên tham gia giao dịch. Việc xảy ra tranh chấp trong
giao kết hợp đồng thì các có quyền yêu cầu tòa án giải quyết các nội dung
tranh chấp không thể tự thỏa thuận được.
Giá trị thi hành ở đây không đơn thuần chỉ là quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia hợp đồng , giao dịch mà còn có giá trị thi hành đối với các chủ
thể liên quan. Như cơ quan thuế; cơ quan tài nguyên môi trường; Văn phòng

19


đăng ký quyền sử dụng đất … đối với các hợp đồng, giao dịch liên quan đến
tài sản là bất động sản hoặc các cơ quan tổ chức khác,..
Thứ hai là văn bản công chứng có giá trị chứng cứ: Chứng cứ là mấu chốt
trong việc giải quyết một tranh cãi, tranh chấp, bất đồng… khi trong việc đó
thiếu những căn cứ để xác định quyền , lợi ích hoặc các sự kiện pháp lý. Để
khẳng định quyền, lợi ích hoặc sự kiện pháp lý đó, thì cần phải có một bằng
chứng, chứng minh sự tồn tại của nó, nếu không sẽ bị coi là không có sự tồn
tại của quyền, lợi ích hoặc sự kiện pháp lý đó.
Chứng cứ là cái cụ thể ( như lời nói hoặc việc làm, vật làm chứng, tài
liệu, hình ảnh, nhân chứng…) chỉ rõ điều đó có thật. Về mặt bản chất, văn bản
công chứng luôn mang tính chất xác thực của chứng cứ, do luôn phải thực hiện
theo những thể thức, trình tự mà pháp luật bắt buộc. Nhờ vậy mà những tình
tiết , sự kiện trong văn bản công chứng (Các hợp đồng giao dịch) luôn phải
đảm bảo tính xác thực. Không những thế, tính xác thực của bất cứ tình tiết, sự
kiện nào trong văn bản công chứng ( các hợp đồng, giao dịch) còn phải đáp
ứng tiêu chí phù hợp các quy định của pháp luật nội dung và không trái đạo
đức xã hội.
Chính vì vậy hợp đồng giao dịch đã được công chứng phản ảnh một
cách xác thực nhất và hợp pháp nhất về những tình tiết, sự kiện chứa đựng

trong nó ( về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch; đối tượng, hình thức
của hợp đồng, giao dịch; thời gian, địa điểm, nội dung thể hiện ý chí và thống
nhất ý chí của các bên, sự tự nguyện, xác thực về tính hợp pháp, về bản chất
thực của những thỏa thuận mà các bên đương sự thiết lập). Đó là lý do tại sao
mà văn bản công chứng luôn có độ tin cậy, chính xác cao và không thể bác bỏ
trong quá trình sử dụng làm chứng cứ. Hệ quả tất yếu là bản thân những tình
tiết, sự kiện được ghi nhận trong văn bản công chứng không cần phải được
đánh giá lại tính xác thực, mặc nhiên xem nó là chứng cứ không phủ nhận.

20


Trong hoạt động tố tụng, chứng cứ đóng vai trò quyết định trong việc làm
sang tỏ các quan hệ, khúc mắc , nhầm lẫn, tranh chấp cần giải quyết và làm cơ
sở để
Việc giải quyết các vụ án trong tố tụng dân sự cơ quan tòa án thu thập
chứng cứ là một thủ tục rất quan trọng để tiến hành giải quyết các vụ việc dân
sự mà các đương sự phải giao nộp cho cơ quan tố tụng để mình tự bảo về
quyền lợi của mình.
Lịch sử công chứng là lịch sử phát triển của chứng cứ, chứng viết ( văn
bản) đã dần dần thay thế chứng cứ lời nói (miệng). Vì chứng cứ lời nói(
miệng) dễ có những sai sót do trí nhớ hoặc dụng ý của nhân chứng, dân gian
có câu “Lời nói gió bay.
Chứng cứ chia thành hai loại: Chứng cứ vật chất( văn bản, vật chứng, tìa
liệu, hình ảnh,…) và chứng cứ lời nói(miệng).
Văn bản công chứng là văn bản do công chứng viên đang làm việc, hành
nghề tại một tổ chức công chứng chứng nhận. Theo Luật công chứng hiện
hành quy định: Hợp đồng giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ;
những tình tiết sự kiện trong hợp đồng giao dịch được công chứng không phải
chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố vô hiệu.

Tại Điều 81 của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định về những tình tiết,
sự kiện không phải chứng minh, trong đó có quy định “ những tình tiết, sự
kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp”.
Tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về những tình tiết,
sự kiện không phải chứng minh, trong đó có quy định “Những tình tiết, sự kiện
đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp;…”.
Trong các nghị định về công chứng trước đây cũng xác định rõ điều này
như: Nghị định 45-HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng bộ trưởng về tổ chức
và hoạt động của công chứng nhà nước đã quy định: “ Các hợp đồng và giấy tờ
đã được công chứng có giá trị chứng cứ”; Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996

21


của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước quy định:
“Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy
ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường
hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu”; Khoản 2 Điều 14 Nghị định số
75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực
quy định: Văn bản công chứng, văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ
trường hợp được thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không theo quy định
tại Nghị định này hoặc bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
Trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và năm 2015 cũng đã có sự phân
biệt giữa giá trị chứng cứ và giá trị chứng minh: Những tình tiết sự kiện không
phải chứng minh, thì thì đương nhiên chúng có ngay giá trị chứng cứ thì không
thể phản bác được, vì nó là chân lý. Còn những tình tiết, sự kiện phải chứng
minh, thì chúng chỉ có giá trị chứng cứ sau khi những tình tiết sự kiện đó đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định, công nhận. Những tình tiết,
sự kiện đã được ghi trong văn bản và văn bản đó đã được công chứng gọi là
văn bản công chứng, về mặt lý luận, thực tế và thông lệ quốc tế văn bản công

chứng có giá trị chứng cứ hay nói cách khác những tình tiết sự kiện đã được
ghi trong văn bản công chứng, thì không phải chứng minh. Bởi khi công
chứng, người thực hiện công chứng phải tuân theo các quy định của pháp luật
về công chứng và các quy định khác có liên quan và khách quan, trung thực,
trong trường hợp biết hoặc phải biết việc công chứng hoặc nội dung công
chứng là trái pháp luật, đạo đức xã hội, thì không thực hiện công chứng.
Công chứng viên, dù là công chức nhà nước làm việc tại Phòng công
chứng hay là Công chứng viên làm tại các Văn phòng công chứng đều là một
chức danh tư pháp được nhà nước trao quyền thực hiện việc chứng nhận hợp
đồng, giao dịch đó.
So với các hợp đồng, giao dịch khác không được công chứng ( ví dụ: Hợp
đồng do Luật sư tư vấn, soạn thảo và làm chứng) thì các hợp đồng, giao dịch

22


này không có giá trị chứng cứ mà vẫn phải chứng minh, nó chỉ trở thành
chứng cứ sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định. Tuy nhiên,
văn bản công chứng không có giá trị chứng cứ nếu văn bản đó không hợp
pháp, thực hiện không đúng thẩm quyền, hoặc không tuân theo quy định của
pháp luật về công chứng, hoặc bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Hay nói cách khác,
văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cho đến khi có ý kiến phản bác đưa ra
được chứng cứ ngược lại và phải tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận quản lý nhà nước về công chứng
1.1.2.1.Khái niệm quản lý nhà nước về công chứng.
Quản lý là thao tác, cách thức của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản
lý nhằm đạt được mục đích mà chủ thể đề ra. Bản chất của quản lý là một loại
lao động để điều khiển lao động xã hội ngày càng phát triển, các loại hình lao
động phong phú, phức tạp thì hoạt động quản lý càng có vai trò quan trọng.
Còn có quan niệm quản lý nhà nước cho rằng quản lý nhà nước là cách

thức thực thi quyền lực của các cơ quan nhà nước nhằm đạt được mục đích đã
định sẵn trước đó để làm sao đảm bảo một sự ổn định nhất định trong các mặt
của đời sống xã hội như: An ninh trật tự, am sinh xã hội, kinh tế, …
Quản lý nhà nước về công chứng là hoạt động mang tính chất quyền lực
hành chính của Nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp
luật quy định thực hiện. Quản lý nhà nước về công chứng nhằm tác động lên
quá trình tổ chức và hoạt động công chứng để cho quá trình này diễn ra trong
khuôn khổ của pháp luật và đạt mục đích định trước. Cụ thể là góp phần bảo
đảm an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ
khác, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, quản lý hành chính tư pháp.
1.1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về công chứng
Thứ nhất quản lý nhà nước về công chứng đảm bảo tính quyền lực.

23


Quản lý nhà nước về hoạt động công chứng cũng như các đối tượng bị
quản lý khác cũng mang tính quyền lực nhà nước để thực hiện việc quản lý
này từ việc xây dựng thể chế, quản lý về tổ chức nhân sự, quy trình bổ thành
lập, giải thể các tổ chức hành nghề công chứng, bổ nhiệm Công chứng viên
cũng đều cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Ngoài ra
tính quyền lực nhà nước cũng được thể hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra
và xử lý vi phạm đối với tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên
của tổ chức hành nghề công chứng khi xảy ra vi phạm. Tổ chức hoạt động
công chứng với nhiệm vụ chủ yếu là chứng nhận các hợp hợp đồng giao dịch
liên quan đến nhiều đến tài sản của cá nhân và tổ chức do vậy việc sử dụng
quyền lực nhà nước để kiểm soát hoạt động này là khách quan tất yếu của xu
hướng xã hội phát triển.
Thứ hai quản lý nhà nước về công chứng có tính chuyên môn hóa và

thứ bậc cao: Hoạt động công chứng là thực hiện chứng nhận các giao dịch dân
sự, kinh tế, thương mại, đất đai và liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên môn
pháp luật khác do đó đòi hỏi lực lượng quản lý nhà nước lĩnh vực này phải có
trình độ chuyên môn cao về pháp luật thì mới đáp ứng đước yêu cầu quản lý
nhà nước về công chứng. Bên cạnh đó trong công tác quản lý cũng phải sắp
xếp theo yêu cầu thứ bậc trong phân cấp, phân quyền quản lý để đáp ứng
được công việc quản lý đề ra.
Thứ ba là quản lý nhà nước cũng mang tính chủ động, sáng tạo và linh
hoạt: Cũng như mọi hoạt động quản lý khác mỗi cơ quan chức năng mỗi cấp
cũng phải nêu cao tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt mềm dẻo trong công
tác quản lý. Thực hiện chức năng nghiệp vụ công chứng quy trình thủ tục
tương đối chặt chẽ, tài liệu liên quan về chứng minh quyền nhân thân và
quyền tài sản đòi hỏi nhiều thủ tục giấy tờ chứng minh, trong khi đó quy định
chi tiết về các thủ tục này pháp luật chưa điều chỉnh cụ thể do đó trong quá
trình thụ lý giải quyết cần có tính linh động nhất đinh của công chứng viên.

24


Do đó thực hiện kiểm công tác nghiệp vụ cơ quan quản lý cần xem xét tính
chất này.
Thứ tư là quản lý nhà nước tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng
Công tác quản lý nhà nước phải thực hiện thường xuyên liên tục và đồng
thời cũng hoạch định chính sách quản lý công chứng phải đảm bảo tầm nhìn,
định hướng nhất định, đảm bảo tính ổn định cho việc hoạt động các tổ chức
hành nghề công chứng thì công tác quản lý mới đảm bảo tính hiệu quả của nó.
1.2. Cơ sở pháp lý về quản lý nhà nước về công chứng.
Nội dung quản lý nhà nước về công chứng chủ yếu là hướng đến các tổ
chức hành nghề công chứng với các mục tiêu đề ra như thể chế về công
chứng; tổ chức phố biến pháp luật về công chứng; kiểm tra thanh tra hoạt

động công chứng; xử lý vi phạm về hoạt động công chứng; giải quyết khiếu
nại tố cáo về hoạt động công chứng; Quản lý và thực hiện hợp tác quốc tế về
công chứng, cụ thể như sau:
1.2.1. Ban hành pháp luật về công chứng, phát triển nghề công chứng.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành là
một nhiệm vụ quan trọng, tạo cơ sở cho hoạt động quản lý nhà nước, đảm bảo
quản lý đạt kết quả, đúng định hướng và phục vụ tốt nhu cầu của nhân dân.
Do đó từ sau cách mạng tháng Tám cho đến nay, nhà nước đã ban hành nhiều
văn bản để điều chỉnh quản lý hoạt động công chứng như : Sắc lệnh số 59
ngày 15/11/1945 về ấn định thể lệ thị thực giấy tờ; thông tư số 574/QLTPK
ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác công chứng nhà nước cho đến
Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức
và hoạt động công chứng nhà nước; Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ
chức hoạt động công chứng nhà nước; Nghị định số 75/CP ngày 08/12/2000
của Chính phủ về công chứng, chứng thực, Luật công chứng năm 2006 và nay
là luật công chứng 2014; Bộ luật Dân sự ( 1995, 2005, 2015); Luật đất đai
(2003,2013); Luật nhà ở (2005, 2014); Quyết định 2104/QĐ-TTg năm 2012

25


×