Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra tội giết người theo luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.42 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG XUÂN LƯU

THU THẬP, ĐÁNH GIÁ, SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS VÕ THỊ KIM OANH

Hà Nội - 2019


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính mạng con người là vô giá, bất khả xâm phạm, được pháp luật bảo vệ.
Điều 19 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con
người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Cụ thể hóa
quy định của Hiến pháp, BLHS nước ta quy định tội phạm giết người là loại tội đặc
biệt nghiêm trọng, có mức hình phạt cao nhất là tử hình. Hành vi giết người không
chỉ tước đi mạng sống con người một cách trái pháp luật mà còn gây ra những hậu
quả khác cho gia đình, người thân của họ, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây bất
bình, hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân. Chính vì vậy mọi hành vi
phạm tội giết người đều phải được điều tra, làm rõ và xử lý nghiêm minh. Để đấu
tranh với tội phạm giết người cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành nhiều các biện
pháp khác nhau trong đó hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong giai
đoạn điều tra đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc chứng minh sự thật của vụ án.


Bình Phước là một tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là cầu
nối của vùng với Tây Nguyên và Campuchia có 240 km đường biên giới với Vương
quốc Campuchia. Dưới sự lãnh đạo toàn diện của các cấp các ngành trong những
năm qua các cơ quan tiến hành tố tụng mà nòng cốt là lực lượng Công an tỉnh đã có
nhiều nỗ lực cố gắng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và
tội phạm giết người nói riêng. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Phước: Trong 05 năm qua Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước đã tiến hành xét xử sơ
thẩm 138/253 vụ án giết người (chiếm 54,5 % tổng số vụ án thuộc thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Tòa án tỉnh) với 250/406 bị cáo (chiếm 61,6 % tổng số bị cáo bị Tòa
án tỉnh xét xử sơ thẩm). Từ số liệu trên cho thấy tội phạm giết người trên địa bàn
tỉnh Bình Phước chiếm tỷ lệ lớn trong các loại tội phạm và có chiều hướng diễn biến
khá phức tạp. Tuy nhiên các vụ án giết người Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung cho
Viện kiểm sát hay Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra
chiếm tỷ lệ không hề nhỏ. Lý do trả hồ sơ điều tra bổ sung là cần bổ sung chứng cứ,
nhiều vụ án phải gia hạn thời hạn điều tra, có vụ án kéo dài nhiều năm mới giải
quyết được… cho thấy các cơ quan tiến hành

1


tố tụng còn bộc lộ những hạn chế như: Không thu thập đầy đủ kịp thời các loại
chứng cứ, vi phạm thủ tục thu thập chứng cứ, không đánh giá đúng giá trị của từng
chứng cứ và xác định chính xác mối liên hệ giữa các chứng cứ trong tổng thể hệ
thống toàn diện chứng cứ trong từng vụ án giết người cụ thể, còn có sự khác nhau
trong nhận thức, trong phương pháp phân tích đánh giá chứng cứ giữa những người
tiến hành tố tụng của vụ án… Do đó, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận về hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong các vụ án giết
người, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng
chứng cứ trong các vụ án giết người trên địa bàn tỉnh Bình Phước đề xuất các giải
pháp để nâng cao chất lượng, kết quả hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm

giết người trên địa bàn tỉnh Bình Phước là yêu cầu rất bức thiết. Đó chính là lý do
tác giả chọn vấn đề: “Thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra tội giết
người theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” làm đề
tài Luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có một số một số công trình khoa học và đề tài công
bố liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài như:
* Những công trình lý luận chung của Luật tố tụng hình sự
- Trần Quang Tiệp, Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm
2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
- Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự năm 2017, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Anh – Phan Trung Hoài, Bình luận khoa học bộ luật tố tụng
năm 2015, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
* Những công trình liên quan trực tiếp tới đề tài nghiên cứu:
- Nguyễn Văn Đương, Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều
tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học năm 2000, Học
viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
- Hoàng Trung Thực, Hoạt động thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong


điều tra các vụ án hình sự theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân công an


tỉnh Thanh Hóa - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2015,
Học viện cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
- Võ Minh Cảnh, Hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ của lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Bình Dương trong

điều tra vụ án giết người, Luận văn Thạc sỹ luật học năm 2017, Học viện khoa học
xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Chạm, Hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong
điều tra tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo
Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Bình Phước, Luận văn Thạc
sỹ luật học năm 2017, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
Ngoài ra, còn có một số bài viết, bài nghiên cứu có liên quan như:
- Trần Quang Tiệp (2003), Một số vấn đề về chứng minh trong TTHS, Tạp chí
Kiểm sát số 9, Hà Nội.
- Hoàng Thị Minh Sơn (2008), Hoàn thiện một số quy định về thu thập, đánh
giá, sử dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự, Tạp chí luật học số 7/2008, tr 65-72.
Các công trình khoa học, luận văn, luận án và bài viết nêu trên chủ yếu đi sâu
nghiên cứu về mặt lý luận quá trình chứng minh trong điều tra VAHS hoặc quá trình
thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ tại một địa bàn nhất định với tội danh cụ thể.
Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học hay đề tài chính thức nào đi tìm hiểu
sâu để nghiên cứu và đề xuất các giải pháp cụ thể về hoạt động thu thập, đánh giá,
sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước.
Do đó, đề tài: “Thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án
giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” là một đề
tài mới, không trùng lặp với các đề tài đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ
trong điều tra vụ án giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh


Bình Phước; đề tài tìm ra những ưu điểm, những hạn chế khó khăn và nguyên nhân
để đề



xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác này trên địa bàn tỉnh trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên, tác giả cần đạt được các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung và lý luận cụ thể có liên quan đến tội
phạm giết người; hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra tội
phạm giết người; tình hình, đặc điểm hình sự tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh
Bình Phước.
- Khảo sát đánh giá thực trạng hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng
cứ trong điều tra vụ án giết người từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Bình
Phước từ đó rút ra nhận xét, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.
- Dự báo tình hình tội phạm giết người nói chung và đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ
án giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
nói riêng trong những năm tới .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn chính là thực trạng hoạt động thu
thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu sâu về hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng
chứng cứ trong điều tra vụ án giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Bình Phước.
- Không gian: Trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
- Thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận



Đề tài nghiên cứu dựa trên những cơ sở phương pháp luận của phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin; chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam, nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chính sách pháp luật nói
chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng trong đấu tranh phòng chống tội phạm
giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, đề tài còn được nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận cơ bản của các
ngành khoa học Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Lý luận chung về khoa học điều
tra hình sự, Chiến thuật điều tra hình sự, Phương pháp điều tra hình sự, Tội phạm
học... Đề tài cũng tiếp thu các luận điểm, luận chứng khoa học của các công trình
nghiên cứu đã nghiệm thu và được công bố, những kinh nghiệm từ thực tiễn thông
qua các hồ sơ vụ án, tài liệu sơ kết, tổng kết, hội thảo và của các lực lượng điều tra
viên, kiểm sát viên, thẩm phán khi thực hiện hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng
chứng cứ trong điều tra vụ án giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu đề tài đã đề ra, trong quá trình nghiên
cứu học viên còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu khảo sát, đánh giá;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp tọa đàm, trao đổi;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung lý luận về hoạt động thu thập,
đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người; là tài liệu nghiên cứu,
tham khảo của cán bộ, học viên các trường Công an nhân dân, các cơ sở đào tạo của
ngành kiểm sát và Tòa án trong quá trình học tập, nghiên cứu, trao đổi về hoạt động
thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ nói chung và quá trình thu thập, đánh giá, sử
dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn


Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao nhận thức và quy trình,
biện pháp công tác đối với các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền trong quá
trình thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ địa bàn tỉnh Bình phước và có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho các đơn vị, địa phương khác trong phạm vi cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
luận văn được cấu trúc thành 03 chương
Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng
cứ trong vụ án giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Quy định của pháp luật về thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ
trong điều tra vụ án giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn
áp dụng tại Bình Phước
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập, đánh giá, sử
dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ THU THẬP, ĐÁNH GIÁ,
SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI
1.1. Khái niệm thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong hoạt động
điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Chứng cứ và nguồn chứng cứ
- Khái niệm chứng cứ: Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, muốn xác
định sự thật khách quan và có cơ sở để kết luận đúng về hành vi phạm tội đã xảy ra
đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có tài liệu, chứng cứ

để chứng minh hành vi xảy ra là tội phạm và người phạm tội. Chứng cứ là phương
tiện của việc chứng minh có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án hình sự. Việc xác
định đúng đắn khái niệm chứng cứ sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đề ra
các nguyên tắc, biện pháp hữu hiệu nhằm thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ
vào mục đích chứng minh trong vụ án hình sự.
Tại Điều 86 BLTTHS năm 2015 quy định như sau: “Chứng cứ là những gì có
thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm
căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm
tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án” [ Luật TTHS, tr.
39].
Như vậy, chứng cứ là những gì có thật, tức là chứng cứ luôn tồn tại một cách
khách quan khi vụ án hình sự xảy ra, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con
người. Chứng cứ phải được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và
là căn cứ duy nhất để CQĐT, VKS, TA xác định có hay không có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa trong
việc giải quyết vụ án.
Khác với Điều 64 BLTTHS 2003 Điều 86 BLTTHS năm 2015 không quy
định về “chủ thể” sử dụng chứng cứ trong khái niệm chứng cứ, đó chính là điểm
mới tiến bộ trong luật tố tụng hình sự tạo điều kiện cho những người tham gia tố


tụng, đặc biệt là người bị buộc tội, người bào chữa, bị hại... có thể tham gia vào
quá trình chứng


minh, giải quyết vụ án hình sự. Trong quá trình tiến hành tố tụng, không chỉ có các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được đưa ra chứng cứ, sử dụng
chứng cứ vào quá trình chứng minh tội phạm mà tất cả những người tham gia tố
tụng đều có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan. Đối với quy định quyền và

nghĩa vụ của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; nguyên đơn dân sự; bị
đơn dân sự; người bào chữa đều có quyền: “Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu,
đồ vật liên quan và yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng kiểm tra, đánh giá những chứng cứ ấy”. Đồng thời cũng bổ sung thêm
các quyền và nghĩa vụ cho người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị hại, đương sự cũng có quyền “thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ”.
Chứng cứ có vai trò rất quan trọng đối với việc chứng minh của cả cơ quan tố
tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra VAHS. Chứng cứ có những
thuộc tính sau đây:
Thứ nhất: Tính khách quan: Tính khách quan của chứng cứ là tính có thật, tức
là những thông tin chứa đựng trong các dấu vết, đồ vật, tài liệu, lời khai phản ánh về
VAHS phải tồn tại một cách khách quan đúng như thực tế vụ án đã xảy ra, không
phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người và con người có thể nhận thức được.
Những gì không có thật, không tồn tại khách quan thì không được coi là chứng cứ.
Con người phát hiện, thu thập và tìm ra chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá
để sử dụng nó.
Thứ hai: Tính liên quan: Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ
khách quan với những vấn đề phải chứng minh trong VAHS, giúp xác định một hay
nhiều tình tiết của vụ án góp phần làm rõ một phần hay toàn bộ những vấn đề phải
chứng minh trong VAHS.
Thứ ba: Tính hợp pháp: Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở chỗ, chứng
cứ phải được thu thập, xác định từ những nguồn và bằng biện pháp theo đúng trình
tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định.


- Nguồn chứng cứ
Hiện nay, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra khái niệm cụ
thể như thế nào là nguồn chứng cứ. Trong thực tiễn có nhiều cách khác nhau định

nghĩa về nguồn chứng cứ như “Nguồn chứng cứ là những sự vật chứa đựng chứng
cứ, tức là chứa đựng các thông tin, tư liệu tồn tại trong thực tế khách quan, liên quan
đến vụ án và được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định” [5, tr.166] hay
“Nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng những thông tin phản ánh trung thực về VAHS,
được Luật TTHS quy định” [4, tr.59]. Tại Khoản 1, Điều 87 của BLTTHS 2015 đã
liệt kê các chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn cụ thể sau đây: Vật
chứng; lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử; kết luận giám định, định giá tài sản;
các loại biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; kết
quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; các tài liệu, đồ vật khác.
Vật chứng là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội,
những vật mang dấu vết tội phạm hoặc là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác
có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa nhất định trong
việc giải quyết vụ án. Trong thực tế cuộc sống cho thấy, vật chứng rất đa dạng, có
thể là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm,
vật là đối tượng của tội phạm,… có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội
hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết đúng đắn vụ án. Nói tóm lại, vật chứng trước
tiên phải tồn tại ở dạng vật chất, phải liên quan chặt chẽ và phản ánh được những sự
kiện khách quan của vụ án hình sự. Vật chứng có giá trị chứng minh rất cao trong
quá trình giải quyết VAHS. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng phải phát hiện kịp thời, thu giữ đầy đủ, bảo quản và xử lý theo đúng quy định
của pháp luật. Tuy nhiên, vật chứng không phải là nguồn chứng cứ duy nhất nên cần
được xem xét, đánh giá trong mối quan hệ với các nguồn chứng cứ khác.
Về lời khai, lời trình bày: Theo quy định lời khai được dùng làm chứng cứ
cũng rất đa dạng, nhưng quan trọng nhất vẫn là lời khai của bị can, bị cáo, bị hại,
người làm chứng… So với vật chứng, lời khai là nguồn chứng cứ mang tính chủ
quan và chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, trong nhiều vụ án,
việc chỉ


đánh giá lời khai mà đưa ra quyết định có hay không hành vi phạm tội trong nhiều

trường hợp sẽ mang tính chủ quan và rất dễ dẫn đến oan sai. Lời khai ban đầu do cơ
quan điều tra thông qua các biện pháp nghiệp vụ mà có được, sau đó trong quá trình
xét xử toà án tiếp tục kiểm tra tính hợp pháp của nguồn chứng cứ này. Lời nhận tội
của bị can, bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng chỉ có thể được coi là chứng cứ
nếu phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập trong vụ án. Không được dùng
lợi nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất trong vụ án để kết tội họ. Mọi
lời khai của bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, so sánh, đối chiếu với các chứng
cứ khác
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay, tháo gỡ
những vướng mắc do thực tiễn đặt ra, BLTTHS 2015 đã bổ sung 03 loại nguồn
chứng cứ mới: Về dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh
hoặc dạng
tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử.
Loại chứng cứ này thường xuất hiện trong các vụ án liên quan đến công nghệ thông
tin, mạng viễn thông như đánh bạc qua mạng, sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, những phương tiện điện tử thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản…
Việc thu thập loại chứng cứ này cũng đòi hỏi phải sử dụng nhiều biện pháp nghiệp
vụ và giám định chuyên ngành mới xác lập được chứng cứ điện tử. Thực tiễn đấu
tranh chống tội phạm cho thấy: các đối tượng đã lợi dụng triệt để sự phát triển
nhanh chóng, mạnh mẽ của khoa học, công nghệ để ứng dụng vào việc thực hiện và
che dấu hành vi phạm tội, nên để giải quyết đúng đắn các vụ án hình sự, việc thu
thập các chứng cứ điện tử là rất quan trọng. Giá trị chứng minh của chứng cứ là dữ
liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi,
phát tán dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện
tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.
Về kết luận giám định, kết luận định giá tài sản: Thực tiễn giải quyết các vụ
án hình sự liên quan đến tài sản như: trộm cắp tài sản, hủy hoại tài sản, các vụ án về
giao thông… các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải trưng cầu định giá
tài sản làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án. Đối với kết luận giám định là văn bản
do



cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức giám định thành lập để kết luận chuyên môn về
những vấn đề được yêu cầu trong quyết định trưng cầu giám định. Kết luận định giá
tài sản là văn bản do Hội đồng định giá tài sản lập để kết luận về giá của tài sản
được yêu cầu. Biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm:
Những tình tiết được ghi trong biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin
về tội phạm được lập theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự có thể được coi là
chứng cứ.
Về kết quả thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự: Ủy thác tư pháp chính là
việc yêu cầu bằng văn bản của các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam yêu cầu các
cơ quan tiến hành tố tụng tương ứng của nước ngoài tương trợ tư pháp về hình sự
của nước ngoài theo Điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương đã ký kết hoặc
đã tham gia.
Như vậy, so với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm 3 nguồn
chứng cứ gồm: Kết luận giám định; Kết luận định giá tài sản; Kết quả thực hiện ủy
thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác. Quy định là cần thiết và phù hợp trong bối
cảnh tội phạm ngày nay phát triển ngày càng tinh vi, phức tạp và đã vượt ra ngoài
biên giới quốc gia. Tuy nhiên, những gì “có thật” được liệt kê như trên nhưng không
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì không
có giá trị pháp lý và cũng không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.
Điều này cho thấy, chứng cứ có một vai trò quan trọng, thông qua đó cơ quan tư
pháp tìm ra sự thật của vụ án, góp phần hiệu quả vào công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm hiện nay.
1.1.2. Khái niệm thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong hoạt động điều
tra vụ án hình sự
Quá trình giải quyết VAHS thực chất là quá trình thu thập, đánh giá và sử
dụng chứng cứ để chứng minh có tội phạm xảy ra hay không? chứng minh sự có tội
hoặc vô tội của một con người cụ thể. Tất cả các sự việc và tình tiết của vụ án phải
phù hợp với hiện thực khách quan. Việc nghiên cứu, xác định, đánh giá các sự kiện,

tình tiết của vụ án xảy ra được tiến hành trên cơ sở của các chứng cứ và chỉ bằng


cách dựa vào các chứng cứ mới làm sáng tỏ được những vấn đề cần chứng minh
trong VAHS.


Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận chứng cứ về mặt tố tụng
hình sự, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ, cơ quan tiến hành
tố tụng, chủ thể tiến hành tố tụng có thể nghiên cứu, xem xét đầy đủ và toàn diện các
tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý
sự thật khách quan. Như vậy, quá trình chứng minh trong VAHS thực chất là quá
trình giải quyết chứng cứ, mọi giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự đều xuất phát
từ chứng cứ. Vì vậy, chứng cứ có vị trí đặc biệt quan trọng trong lý luận cũng như
trong thực tiễn của hoạt động tố tụng hình sự. Việc nhận thức đúng vấn đề chứng cứ
sẽ là cơ sở lý luận vững chắc, định hướng đúng đắn cho quá trình thu thập, nghiên
cứu, kiểm tra, đánh giá chứng cứ.
Thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong hoạt động điều tra vụ án hình sự
là một chuỗi các hoạt động được thực hiện nhằm đạt được mục đích là làm sáng tỏ
sự thật của vụ án và các hoạt động đó được tiến hành trên cơ sở khoa học, cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin về quy luật của các hiện tượng, sự
việc trong thế giới khách quan và con đường nhận thức các sự vật, hiện tượng ấy. Cụ
thể:
- Thu thập chứng cứ: Thu thập chứng cứ là tổng hợp các hành vi phát hiện,
ghi
nhận, thu giữ, củng cố và bảo quản chứng cứ.
Để thu thập chứng cứ, CQĐT, VKS và TA có quyền triệu tập những người
biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án,
trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra
khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết có ý nghĩa làm sáng tỏ vụ án.
Những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều
có thể thu thập và đưa ra tài liệu, đồ vật, trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ
án hình sự.
Hoạt động thu thập chứng cứ gồm các bước sau đây: Phát hiện chứng cứ là
hoạt động đầu tiên của quá trình thu thập chứng cứ. Đó là việc người tiến hành thu
thập chứng cứ quan sát, nghiên cứu, xem xét, kiểm tra những nơi xảy ra sự việc


phạm tội, tìm kiếm, gặp gỡ những người biết về sự việc phạm tội, hoặc trưng cầu
giám định


nhằm phát hiện vật chứng, dấu vết, các thông tin, tài liệu… có liên quan đến vụ án
đang ở đâu, tồn tại dưới dạng nào?
Ghi nhận và thu giữ chứng cứ là bước tiếp theo của hoạt động thu thập chứng
cứ mà cụ thể là việc xác định, mô tả, ghi chép, xác nhận đặc điểm, tính chất, số
lượng, chất lượng, phân loại vào biên bản và thu giữ các thông tin, tài liệu hoặc vật
chứng có liên quan đến VAHS theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Củng cố chứng cứ là việc tiến hành bổ sung về nội dung và hình thức đảm bảo
cho chứng cứ có giá trị chứng minh cao.
Bảo quản chứng cứ là cơ quan có thẩm quyền sắp xếp, trông coi và đưa vào
lưu giữ các tài liệu, vật chứng… từ khi thu giữ đến khi sử dụng theo đúng quy định
của pháp luật, không để bị hư hỏng, mất mát, sai lệch hay bị tiêu hủy.
- Đánh giá chứng cứ: Đánh giá chứng cứ là quá trình nghiên cứu, xem xét
một cách toàn diện với từng chứng cứ cùng toàn bộ hệ thống chứng cứ đã thu thập
được trong mối quan hệ biện chứng với nhau để xác định nó đã giúp làm sáng tỏ vấn
đề gì trong vụ án trên cơ sở đó có kết luận về sự thật vụ án đã xảy ra, kết luận về tội
phạm và người phạm tội trong VAHS.
Mỗi chứng cứ phải được đánh giá toàn diện để xác định tính hợp pháp, xác

thực và liên quan đến vụ án, bảo đảm đủ để giải quyết các vấn đề trong VAHS.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm là những chủ thể có
thẩm quyền xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm,
sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả tình
tiết của vụ án.
Chứng cứ trong VAHS nằm trong mối quan hệ biện chứng có liên quan mật
thiết với nhau. Xác định được mối quan hệ đó là điều kiện cần thiết đối với việc xác
định sự thật khách quan trong vụ án hình sự. Việc đánh giá chứng cứ phải dựa vào
các cơ sở như: Phải dựa trên các quy định của LHS như những quy định về tội
phạm, cấu thành tội phạm, quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự… để làm cơ sở đánh giá những chứng cứ đã thu thập trong vụ án,
phải dựa trên các quy định của LTTHS để xác định tính hợp pháp của các chứng cứ
cũng như giá


trị chứng minh của các chứng cứ. Ngoài ra phải dựa vào niềm tin nội tâm, trình độ,
năng lực, kinh nghiệm, sự hiểu biết về xã hội cũng như trách nhiệm và lương tri của
người tiến hành tố tụng.
- Sử dụng chứng cứ: là hoạt động của người tiến hành tố tụng nhằm sử dụng
những tài liệu đủ tính pháp lý thu được trong quá điều tra VAHS để chứng minh có
hay không có hành vi phạm tội, làm rõ sự thật vụ án.
Đây là hoạt động mang tính quyết định của điều tra viên trong quá trình điều
tra VAHS. Việc lựa chọn, cân nhắc sử dụng chứng cứ, trong từng thời điểm và
trường hợp cụ thể như: lấy lời khai của đối tượng, hỏi cung bị can, đối chất, nhận
dạng hay hoàn thành hồ sơ để truy tố, xét xử… phần nào quyết định sự thành công
hay thất bại của quá trình chứng minh một hành vi phạm tội, là cơ sở để đưa ra kết
luận có hay không có hành vi phạm tội.
1.2. Khái niệm tội giết người, đặc điểm tội giết người theo pháp luật hình
sự
1.2.1. Khái niệm tội giết người

Tội giết người là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tước đoạt trái pháp luật
quyền sống của con người. Nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nhân lực quan
trọng nhất của xã hội, gây tác động ngược lại đối với sự phát triển bình thường của
xã hội.
Hiện nay tội phạm giết người đang diễn ra rất phức tạp, cùng với sự gia tăng
về số vụ xảy ra, tính chất mức độ nghiêm trọng, thủ đoạn gây án ngày càng manh
động, trắng trợn hơn, gây tác động xấu cho tình hình ANTT.
Qua nghiên cứu quy định về lịch sử quy định tội phạm giết người ở Việt
Nam, cho thấy: Tội giết người đã được quy định từ lâu trong Quốc triều hình luật
(Luật hình triều Lê) tại chương: Đạo tặc, từ Điều 415 đến Điều 417 và từ Điều 420
đến Điều 422 với các hành vi phạm tội cụ thể và hình phạt tương ứng dành cho
những người thực hiện hành vi đó. Ví dụ như: Điều 417 quy định: Nô tỳ mà giết
chủ, thì đều phải tội chém. Hay Điều 420 quy định: Kẻ giết tới 3 người trong một
gia đình, hay xả thây người ta, thì xử tội chém bêu đầu; tòng phạm xử tội chém.
Như vậy, lịch sử


đã quy định rất cụ thể, chi tiết về tội giết người và áp dụng hình phạt nghiêm khắc
đối với người thực hiện hành vi giết người.
Khi Nhà nước chưa tiến hành pháp điển hoá luật hình sự thì trong các văn
bản pháp luật hình sự tội giết người được quy định tại Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân ban hành
ngày
21/10/1970. Tuy nhiên, hành vi giết người được quy định tại Pháp lệnh này tương
đối đơn giản. Ví dụ: Hành vi giết người được Pháp lệnh quy định như sau: “Kẻ nào
giết người thì bị phạt tù…”.
Đến năm 1985 khi BLHS đầu tiên của nước ta được ban hành lúc này hành vi
giết người được quy định tại Điều 101 như sau: “Người nào giết người thuộc một
trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù
chung thân hoặc tử hình …”. Đến BLHS 1999 tội giết người được kế thừa theo quy

định của BLHS 1985 tại Điều 93.
BLHS 2015 (sửa đổi 2017) Chương XIV quy định về các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe danh dự, nhân phẩm của con người cụ thể Điều 123 quy định Tội
giết người như sau:
Khoản 1 quy định: Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết 02
người trở lên; b) Giết người dưới 16 tuổi; c) Giết phụ nữ mà biết là có thai; d) Giết
người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà,
cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước
đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận
cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng
nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết
người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy
hiểm; q) Vì động cơ đê hèn.
Khoản 2 quy định như sau: Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.


Khoản 3 quy định: Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến
05 năm.
Khoản 4 quy định: Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01
năm đến 05 năm.
Như vậy, BLSH không quy định cụ thể thế nào là tội giết người nhưng trên
cơ sở quy định về tội phạm tại Điều 8 BLHS và trên cơ sở quy định của Điều 123
BLHS 2015 sửa đổi 2017 có thể đưa ra khái niệm tội giết người như sau: “Tội giết
người là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, cố ý gây ra cái
chết cho người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện và xâm phạm đến quyền được bảo hộ tính mạng của con người”.

1.2.2. Đặc điểm tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Trong quá trình tiến hành tố tụng một VAHS nói chung và trong hoạt động
điều tra tội phạm nói riêng, để đảm bảo giải quyết vụ án một cách chính xác, khách
quan, toàn diện và đầy đủ thì một trong những yêu cầu quan trọng là phải hiểu rõ về
bản chất của hành vi phạm tội cũng như những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của loại
tội phạm đó. Chính vì vậy, để đấu tranh phòng chống tội phạm giết người có hiệu
quả, vấn đề đầu tiên là phải xác định rõ những dấu hiệu pháp lý của tội phạm này
hay nói cách khác là hiểu rõ những đặc điểm của tội này.

Những đặc điểm đó bao

gồm:
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm giết người
Tội giết người là một tội nguy hiểm nhất trong nhóm tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người vì nó xâm phạm trực tiếp đến một
khách thể đặc biệt quan trọng là quyền được sống của con người. Quyền sống là
quyền cơ bản nhất của con người. Cuộc sống con người bắt đầu từ khi họ sinh ra và
chấm dứt cho đến khi họ chết. Khoa học pháp lý khẳng định sự sống của con người
được xác định từ khi con người được sinh ra (đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ cất tiếng khóc
chào đời) cho đến khi sự sống hoàn toàn chấm dứt đối với người đó. Người chết là
người mà không còn hoạt động sống như tim ngừng đập, thần kinh ngừng hoạt
động. Cần phân biệt người chết với người chết dần từng bộ phận, nếu còn một số bộ
phận hoạt động


thì vẫn coi là người sống. Vì vậy, khi người phụ nữ mang thai (cái thai còn đang
trong bụng người mẹ) thì hành vi phá thai không phạm vào tội giết người, nhưng
khi cái thai đó ra khỏi bụng người mẹ, đứa trẻ chào đời và vì một lí do nào đó mà
một người đã thực hiện hành vi giết đứa trẻ thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội giết người; ngược lại, sau khi sự sống đã chấm dứt đối với một người thì các

hành vi xâm hại đến thi thể nạn nhân cũng không bị xem là xâm phạm quyền được
sống và không phạm vào tội giết người.
Khách thể của tội phạm giết người trực tiếp xâm phạm quyền sống của con
người. Đối tượng tác động của tội phạm giết người chính là thân thể của con người
đang sống.
Thứ hai, về mặt khách quan của tội phạm giết người
Mặt khách quan của tội phạm là những yếu tố được thể hiện ra bên ngoài tội
phạm. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, thời
gian, địa điểm, phương thức phạm tội, phương tiện và công cụ tiến hành tội phạm,
hậu quả do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Các Mác đã từng nói: “Ngoài những hành vi của mình ra, tôi hoàn toàn
không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó” [Các
Mác và Ăngghen toàn tập, tập 1 NXB Sự thật, Hà Nội năm 1978]. Nếu một người
có ý định giết người nhưng chưa thể hiện ý định đó ra thế giới khách quan bằng
hành vi cụ thể thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự; chỉ khi nào họ bắt tay
vào việc thực hiện ý định giết người, nghĩa là ý định của họ đã được thể hiện ra bên
ngoài bằng hành vi khách quan thì họ mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong mặt khách quan của tội phạm giết người phải có các dấu hiệu: Hành vi,
hậu quả, mối liên hệ giữa hành vi và hậu quả. Hành vi trong mặt khách quan của tội
giết người là hành vi tước đoạt sinh mạng của người khác trái pháp luật, trong hành
vi phạm tội, người phạm tội đã biểu hiện được ý chí phạm tội ra thế giới khách
quan. Hành vi này là hoạt động có ý thức và ý chí, có tính nguy hiểm cao cho xã hội
và là hành vi trái pháp luật hình sự.


Hành vi “tước đoạt sinh mạng” trong tội giết người được thực hiện bằng hành
động phạm tội. Các hành động này có thể chỉ là một động tác giản đơn diễn ra trong
một thời gian ngắn hoặc là những hành động phức tạp là tổng hợp của nhiều động
tác khác nhau.
Hậu quả trong cấu thành tội giết người là sự thiệt hại về tính mạng do hành vi

phạm tội gây ra. Hậu quả trực tiếp của tội phạm là gây ra cái chết cho nạn nhân, nếu
hậu quả giết người đã xảy ra thì tội phạm đã hoàn thành. Trong trường hợp hậu quả
chết người không xảy ra vì các lí do khách quan khác nhau thì tội phạm chưa đạt.
Trong tội giết người, phạm tội chưa đạt có hai trường hợp sau đây:
+ Giết người chưa đạt chưa hoàn thành: Người phạm tội vì những nguyên
nhân khách quan nên chưa thực hiện hết các hành vi cần thiết để gây ra hậu quả chết
người (như hành vi: nhặt dao để đâm, lắp đạn vào súng để bắn nhưng các hành vi
này đều bị ngăn chặn kịp thời).
+ Giết người chưa đạt đã hoàn thành: Người phạm tội đã thực hiện hết các
hành vi cần thiết để tước đoạt tính mạng người khác nhưng vì lí do khách quan nào
đó mà hậu quả chết người đã không xảy ra, nạn nhân không chết. (ví dụ: ném lựu
đạn nhưng lựu đạn lép nên không nổ, nổ súng bắn nhưng bắn không trúng nạn
nhân).
Hậu quả của Tội giết người là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người gây ra
cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng
của con người. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất - hậu quả
chết người khác. Nghiên cứu hậu quả của Tội giết người xảy ra trong mỗi vụ án có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Để xác định
đúng hậu quả ta phải xem xét mối liên hệ nhân quả giữa hành vi khách quan của tội
phạm và hậu quả xảy ra, giữa hành vi tước đoạt tính mạng người khác một cách trái
pháp luật và hậu quả xảy ra phải có mối liên hệ nhân quả, hành vi đó phải chứa đựng
khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người đối với chính nạn nhân. Hành vi
phải có mối quan hệ nội tại, tất nhiên đối với hậu quả; hậu quả đã xảy ra phải đúng
là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả do hành vi phạm tội của
người phạm tội gây ra. Thực tế xét xử đã chứng minh không phải bất cứ một hành vi


phạm tội nào (dù chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người)
cũng đều gây ra hậu quả chết người, trong nhiều vụ án hậu quả chết người xảy ra do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Thực tiễn, có vụ án do các cơ quan tiến hành tố tụng

đã không xác định đúng mối liên hệ nhân quả dẫn đến làm oan sai người vô tội. Vì
thế, khi cân nhắc, đối chiếu một cách toàn diện và biện chứng mọi tình tiết khách
quan của vụ án cần phải đặc biệt chú ý đến mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả để xét xử cho chính xác.
Các dấu hiệu khác trong mặt khách quan như: thời gian, địa điểm và hoàn
cảnh phạm tội không có tính chất bắt buộc trong cấu thành tội giết người. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp các dấu hiệu này có ý nghĩa bắt buộc trong định khung
hoặc quyết định hình phạt.
Thứ ba, về mặt chủ quan của tội giết người
Thực tiễn cho thấy có những hành vi khách quan giống nhau gây hậu quả
chết người cũng xảy ra nhưng có trường hợp người phạm tội đã phạm tội giết người
và có trường hợp lại không phạm phải tội này vì diễn biến bên trong của tội phạm
khác nhau. Vì vậy, việc xác định mặt chủ quan trong tội giết người rất quan trọng.
Mặt chủ quan bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của mọi tội phạm. Tội giết người
luôn luôn được thực hiện bằng lỗi cố ý. Chủ thể của tội giết người có thể thực hiện
tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp hoặc với lỗi cố ý gián tiếp. Điều 10 BLHS 2015 quy
định: “cố ý phạm tội là phạm tội trong trường hợp sau đây: Người phạm tội nhận
thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi
đó và mong muốn hậu quả xảy ra; tuy không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc
cho hậu quả xảy ra”. Căn cứ vào nội dung của điều luật, ta thấy:
Về mặt lí trí: các chủ thể của tội giết người đều biết rằng hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, đều thấy trước hành vi của họ sẽ hoặc có thể gây hậu quả chết
người.
Về mặt ý chí: Nếu chủ thể mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra thì họ
phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Nếu họ có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra thì họ
phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp.



×