Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Quản lý nhà nước về chất lượng nông sản từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.22 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGỌC HƯNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHẤT LƯỢNG
NÔNG SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGỌC HƯNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHẤT LƯỢNG
NÔNG SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MINH PHÚ

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Minh Phú.
Luận văn cao học này là sản phẩm của quá trình tìm tòi, nghiên cứu và
trình bày của tác giả về đề tài luận văn. Mọi số liệu, quan điểm, quan niệm
của các tài liệu và các nhà nghiên cứu khác được trích dẫn theo đúng quy
định. Các số liệu trong luận văn là số liệu trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Học viên

Trần Ngọc Hưng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG NÔNG SẢN VÀ
QLNN VỀ CHẤT LƯỢNG NÔNG SẢN ...................................................... 8
1.1. Khái niệm, vai trò và yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nông sản ............ 8
1.2. Quản lý Nhà nước về chất lượng nông sản .............................................. 17
1.3. Kinh nghiệm một số nước trong QLNN về chất lượng nông sản ............ 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QLNN VỀ CHẤT LƯỢNG NÔNG SẢN 35
2.1. Khái quát chung về tình hình địa lý tác động đến vấn đề nghiên cứu ..... 35
2.2. Thực trạng QLNN về chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
......................................................................................................................... 39
2.3. Đánh giá thực trạng công tác QLNN về chất lượng nông sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi .............................................................................................. 55
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN CÓ
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QLNN VỀ CHẤT LƯỢNG NÔNG SẢN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI ................................................................. 60

3.1. Quan điểm, định hướng QLNN về chất lượng nông sản từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ngãi của Đảng, Nhà nước ta ............................................................... 60
3.2. Mục tiêu, định hướng QLNN về chất lượng nông sản của tỉnh Quảng
Ngãi đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030: ................................................ 61
3.3. Giải pháp đảm bảo thực hiện có hiệu lực, hiệu quả QLNN về chất lượng
nông sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ........................................................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

QLNN

: Quản lý nhà nước

ATTP

: An toàn thực phẩm

BVTV

: Bảo vệ thực vật

TTHC

: Thủ tục hành chính


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số hiệu
bảng
2.1

Tên bảng

Trang

Tình hình chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh

38

Quảng Ngãi giai đoạn 2016 -2018
2.2

Kết quả giải quyết TTHC trong lĩnh vực quản lý chất

51

lượng nông sản tỉnh Quảng Ngãi
2.3

Hệ thống các TTHC trong lĩnh vực quản lý chất lượng

52

nông sản tỉnh Quảng Ngãi
2.4

Số cơ sở sản xuất kinh doanh nông sản bị xử phạt vi

phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

54


DANH MỤC HÌNH
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Sơ đồ tổ chức bộ máy QLNN về chất lượng nông sản

26

hình
1.1

ở Việt Nam
2.1

Sơ đồ tổ chức bộ máy QLNN về chất lượng nông sản

42

tỉnh Quảng Ngãi
2.2

Cơ cấu tổ chức của Chi Cục Quản lý chất lượng nông

lâm và thủy sản tỉnh Quảng Ngãi

44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý chất lượng nông sản là vấn đề, khâu quan trọng của hoạt động sản
xuất kinh doanh Ngành Nông nghiệp của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ; nó không chỉ
tạo ra chuỗi giá trị thương hiệu về nông sản đối với các nhà kinh doanh nông nghiệp
mà còn là yếu tố để nông sản một quốc gia hội nhập, cạnh tranh với các nước trên thế
giới. Mặt khác, quản lý chất lượng nông sản là góp phần bảo vệ sức khỏe con người,
nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường và tài nguyên, thiên nhiên.
Với ý nghĩa nêu trên, thời gian qua; Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành Trung
ương đã ban hành hệ thống chính sách, pháp luật cơ bản đầy đủ về quản lý chất
lượng nông sản như: Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm
trong tình hình mới; Luật An toàn thực phẩm năm 2010; Luật Chất lượng sản phẩm
hàng hóa năm 2007; Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 (nay là Nghị
định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/2/2018) của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật an toàn thực phẩm; Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày
14/11/2013 (nay là Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018) của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; Chỉ thị số 13/CT-TTg
ngày 09/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước
về an toàn thực phẩm; Quyết định số 809/QĐ-TTg ngày 30/5/2011 của Thủ tướng
chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường năng lực quản lý chất lượng nông, lâm, thủy
sản và muối giai đoạn 2011 – 2015 và Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 04/01/2012
của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai
đoạn 2011-2015 và tầm nhìn 2030,... làm cơ sở pháp lý để các ngành, địa phương
từng bước nâng cao, cải thiện chất lượng nông sản, đáp ứng nhu cầu cuộc sống của

người dân, doanh nghiệp kinh doanh về nông sản và hiệu quả hoạt động của bộ máy
quản lý nhà nước (QLNN) về chất lượng nông sản; tuy nhiên, do tác động của nền
kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều thách thức, nguy cơ trong hoạt động quản lý chất
lượng nông sản như: Bộ máy, nguồn nhân lực quản lý chất lượng nông sản chưa đáp
ứng yêu cầu QLNN, vụ việc vi phạm nghiêm trọng về chất lượng nông sản diễn ra

1


khắp nơi, làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nông sản trong và
ngoài nước, đến sức khỏe, tính mạng và khả năng lao động, chất lượng cuộc sống
của con người.
Quảng Ngãi là một tỉnh Duyên Hải Miền Trung, có cơ cấu Ngành Nông
nghiệp chiếm tỷ lệ cao với lực lượng sản xuất nông nghiệp chiếm hơn 47%. Thực
hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về quản lý chất
lượng nông sản, những năm qua, tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo, quản lý như: Chỉ thị số 21-CT/TU ngày 21/3/2017 của Tỉnh ủy về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới, Quyết
định số 250/QĐ-UBND ngày 14/11/2012 của UBND tỉnh phê duyệt Kế hoạch thực
hiện Chiến lược Quốc gia An toàn thực phẩm giai đoạn 2012 - 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh, Kế hoạch số 6295/KH-UBND ngày 03/11/2016 của
Chủ tịch UBND tỉnh về đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016
-2020,... nhằm từng bước nâng cao chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh; song, hiện
nay tình hình sản xuất, kinh doanh nông sản kém chất lượng, mất an toàn vệ sinh
thực phẩm, hàng nông sản giả, hàng nông sản nhái, hàng cấm sử dụng vẫn còn xảy
ra và đang là nỗi lo, là bức xúc của Nhân dân và ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc
tăng sản lượng, năng suất và giá trị các loại sản phẩm hàng hóa của Ngành Nông
nghiệp tỉnh nhà. Bên cạnh đó, bộ máy tổ chức của cơ quan quản lý chất lượng nông
sản trên địa bàn tỉnh chưa được kiện toàn và củng cố; các văn bản phân công nhiệm vụ,
phân cấp về quản lý chất lượng nông sản chưa được rà soát, sửa đổi bổ sung kịp thời để

đáp ứng yêu cầu quản lý xuyên suốt, hệ thống từ tỉnh đến cơ sở; cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chất lượng nông sản chưa
được đầu tư đúng mức; năng lực đội ngũ làm công tác quản lý chất lượng nông sản
tại địa phương chưa được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, nhất là nghiệp vụ
xử lý vi phạm hành chính về vi phạm chất lượng nông sản... làm cho công tác
QLNN về chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế, bất cập.
Đứng trước yêu cầu cấp thiết phải có các giải pháp, biện pháp hữu hiệu kịp
thời nhằm khắc thực trạng nêu trên; tác giả quyết định chọn vấn đề “Quản lý nhà
nước về chất lượng nông sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm Luận văn Thạc
sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính với mong muốn tìm hiểu một cách có hệ

2


thống từ phương diện lý luận đến thực tiễn, từ đó đề xuất, kiến nghị những giải
pháp, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này, góp phần xây dựng thương
hiệu chất lượng nông sản và nâng cao tính cạnh tranh của nông sản tỉnh, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo vệ sức khỏe, chất lượng cuộc sống Nhân dân.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Ở các nước như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc,... có một vài công trình
nghiên cứu về vai trò của Nhà nước trong quản lý chất lượng nông sản từ nhiều gốc
độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu này đều có chung một kết luận, đó là việc
kiểm soát, nâng cao chất lượng nông sản không thể thiếu vai trò hạt nhân của Nhà
nước và cũng chỉ ra một số hạn chế cụ thể trong việc quản lý chất lượng nông sản
của Nhà nước như nguồn nhân lực còn hạn chế về kiến thức chuyên môn, không có
đủ kinh phí, nhân lực, cơ sở vật chất,... thực hiện việc quản lý, nhất là trong hoạt
động thanh tra, kiểm tra và giám sát.
- Ở Việt Nam; qua tìm hiểu, các công trình nghiên cứu QLNN về chất lượng
nông sản rất ít, chỉ có một vài công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến quản
lý chất lượng nông sản và QLNN về chất lượng nông sản như:

+ Tiến sĩ Đỗ Thị Bích Thủy (2009), Bài giảng Quản lý chất lượng nông sản.
Qua tác phẩm này, tác giả đã xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về quản lý chất lượng
nông sản (các khái niệm về chất lượng, chất lượng nông sản,...); tuy nhiên, vấn đề
quản lý chất lượng nông sản được nhìn nhận dưới gốc độ quản lý của nhà sản xuất
kinh doanh nông sản, chưa đề cấp đến hoạt động quản lý chất lượng nông sản của
Nhà nước, bởi các hoạt động quản lý chất lượng nông sản trong tác phẩm chỉ thể
hiện thông qua các hoạt động quản lý chất lượng của các nhà sản xuất kinh doanh
trên cơ sở áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng được công nhận.
+ Một số đề tài nghiên cứu, bài viết về quản lý chất lượng nông sản như: Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Phước (2014), Thực trạng và giải pháp
quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản; Lan Anh – Mạnh Thắng
(2016), Chất lượng nông sản – rào cản xuất khẩu của Việt Nam; Thiên Tú (2017),
Quản lý chất lượng nông sản: Mỏng nhân lực, vướng cơ chế; Tùng Lâm (2017), Nhiều
khó khăn trong quản lý chất lượng nông, lâm, thủy sản; An Nguyên (2018), Nâng cao
chất lượng nông sản, thực phẩm – mấu chốt giúp phát triển thị trường.

3


Đây là các bài viết nghiên cứu tập trung chỉ ra những khó khăn, vướng mắc
trong công tác quản lý chất lượng nông sản và từ đó, tác giả đề ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng nông sản; tuy nhiên, các bài viết nghiên cứu
này chưa khái quát, đi sâu tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý chất lượng nông
sản, vai trò, tầm quan trọng của công tác QLNN về chất lượng nông sản; chưa chỉ ra
những nguyên nhân cụ thể (khách quan, chủ quan) của những hạn chế, khó khăn
trong công tác quản lý chất lượng nông sản của Nhà nước,... và việc đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng nông sản còn mang tính chất
chung chung, chưa đưa ra các biện pháp cụ thể, phù hợp, mang tính định hướng.
- Ở tỉnh Quảng Ngãi; tính đến nay, chỉ có một bài viết của tác giả Mỹ Hoa
(2017), “Loay hoay giám sát chất lượng nông lâm thủy sản” và một số báo cáo thống

kê về công tác quản lý chất lượng nông sản từ năm 2013 đến năm 2018 của Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi; ngoài ra, chưa có công trình nghiên
cứu sâu, đầy đủ về công tác QLNN về chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh.
Tóm lại, ở Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, các công trình
nghiên cứu QLNN về chất lượng nông sản rất hạn chế; mặc dù có một vài công
trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến QLNN về chất lượng nông sản ở nhiều
mức độ khác nhau nhưng thật sự chưa có một công trình, đề tài nghiên cứu hoàn
chỉnh, đi sâu vào nghiên cứu hoạt động QLNN về chất lượng nông sản, nhất là khi
sự quan tâm đặc biệt của dư luận xã hội trước thách thức về tính cạnh tranh của
nông sản Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới, trước nguy cơ chất lượng
nông sản không đảm bảo, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống người
dân,… làm cho đề tài của tác giả trở nên cấp thiết hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm sáng tỏ và tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện các
quy định của pháp luật về hoạt động QLNN về chất lượng nông sản trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi; từ đó đưa ra những quan điểm, giải pháp, kiến nghị để nâng cao
hiệu quả QLNN về chất lượng nông sản nhằm cải thiện, đảm bảo chất lượng nông
sản, nâng cao chất lượng cuộc sống con người trên địa bàn tỉnh và tăng tính cạnh
tranh, giá trị nông sản của tỉnh trên thị trường trong nước và thế giới.

4


3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn công tác QLNN về chất
lượng nông sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác QLNN về chất lượng nông sản trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình thực

hiện,...
- Đề xuất, kiến nghị và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN
về chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cán bộ, công chức trong bộ máy QLNN về
chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; các văn bản pháp luật, cơ chế,
chính sách và các biện pháp triển khai thực hiện công tác QLNN về chất lượng
nông sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu, đánh giá công tác QLNN về chất lượng
nông sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chủ yếu dưới gốc độ triển khai thực hiện
công tác QLNN đối với lĩnh vực chất lượng nông sản;
- Về mặt không gian: Nghiên cứu sự QLNN về chất lượng nông sản tại tỉnh
Quảng Ngãi;
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng chất lượng nông sản và sự QLNN về
chất lượng nông sản tại tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công tác QLNN về chất lượng
nông sản.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, đề tài kết hợp sử dụng nhiều phương

5


pháp nghiên cứu như: Tổng hợp, phân tích; tham vấn chuyên gia; so sánh và thống

kê, dự báo. Ưu điểm của việc sử dụng phương pháp này là làm cho các phương
pháp riêng lẽ bổ sung lẫn nhau để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu và cho kết quả
chính xác, tin cậy.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các tài
liệu, công trình nghiên cứu trước đó; từ đó, kết nối các thông tin, đưa ra nhận định
để làm sáng tỏ những nội dung, vấn đề nghiên cứu. Yêu câu đối với phương pháp
này là tổng hợp phải được thực hiện trên cơ sở của việc phân tích khoa học các tài
liệu chính thống, có nguồn trích dẫn cụ thể, tin cậy với các thông tin, số liệu khảo
sát thực tế về tình hình kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến hoạt động QLNN về chất
lượng nông sản.
- Phương pháp tham vấn chuyên gia: Là phương pháp dựa vào sự tham khảo
ý kiến của những người có kiến thức, hiểu biết hay kinh nghiệm (chuyên gia) về các
vấn đề nghiên cứu. Đối với đề tài này, phương pháp tham vấn chuyên gia được sử
dụng để nêu thực trạng, khó khăn, vướng mắc trong công tác QLNN về chất lượng
nông sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và cơ sở để nghiên cứu áp dụng, triển khai
các công cụ QLNN về chất lượng nông sản có hiệu quả hơn.
- Phương pháp thống kê, dự báo: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả xử lý
các số liệu theo phương pháp thống kê trên cơ sở sử dụng phần mềm Excel. Kết quả
tính toán trên phần mềm Excel phản ánh trung thực về thực tiễn công tác QLNN về
chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh; là cơ sở để phân tích, đánh giá, luận giải,...
làm sáng tỏ, rõ nét hệ thống lý luận về QLNN đối với chất lượng nông sản. Còn đối
với phương pháp dự báo, tác giả sử dụng để đưa ra những nhận định khách quan,
tính tất yếu của xu thế phát triển của lý luận, thực tiễn, cũng như dự báo những vấn
đề thực tiễn có thể phát sinh trong công tác QLNN về nông sản để đề ra giải pháp,
biện pháp xử lý phù hợp, hiệu quả.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm rõ, bổ sung các khai niệm, vai trò và sự cần thiết khách quan
phải QLNN về chất lượng nông sản; quan điểm của Đảng, Nhà nước về quản lý
chất lượng nông sản và đặc biệt là làm rõ nội dung công tác QLNN về chất lượng


6


nông sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở đánh giá thực tiễn công tác QLNN về chất lượng nông sản, chỉ ra
những tồn tại, hạn chế và chất cập của công tác QLNN về chất lượng nông sản trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; để từ đó, đề xuất, kiến nghị các giải pháp về hoàn thiện
chính sách và tổ chức thực hiện QLNN về chất lượng nông sản có hiệu quả hơn.
7. Kết cấu của luận văn: Gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng nông sản và QLNN về chất lượng
nông sản.
Chương 2: Thực trạng QLNN về chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp đảm bảo thực hiện có hiệu lực, hiệu quả
QLNN về chất lượng nông sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

7


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG NÔNG SẢN
VÀ QLNN VỀ CHẤT LƯỢNG NÔNG SẢN
1.1. Khái niệm, vai trò và yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nông sản
1.1.1. Khái niệm về chất lượng nông sản
1.1.1.1. Khái niệm về nông sản
Theo các Hiệp định và Nguyên tắc WTO (Hiệp định Nông nghiệp) thì, nông
sản bao gồm các loại hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp, không bao

gồm các sản phẩm thuộc lĩnh vực thủy sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp. Còn theo
Wikipedia thì, nông sản là hàng hóa thông qua gây trồng và phát triển của cây
trồng. Cũng có tác giả cho rằng, nông sản là những sản phẩm hàng hóa được làm
ra từ tư liệu sản xuất là đất.
Khác với các khái niệm trên, tại Khoản 7 Điều 3 Nghị định 57/2018/NĐ-CP
ngày 17/4/2018 của Chính phủ quy định: “Nông sản là sản phẩm của các ngành
nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và diêm nghiệp”. Tuy nhiên, ở góc độ nghiên
cứu đề tài này, tác giả chọn khái niệm: Nông sản là các loại sản phẩm hàng hóa có
nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp, không bao gồm các sản phẩm thuộc lĩnh vực
thủy sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp. Tức là, nông sản chỉ bao gồm các loại sản
phẩm hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như: Lúa gạo, bột mỳ, sữa,
động vật tươi sống (trừ lĩnh vực thủy sản), cà phê, hạt điều, hồ tiêu, chè, rau, củ, quả
tươi,... (sản phẩm nông nghiệp cơ bản); bánh mì, bơ, dầu ăn, thịt,... (sản phẩm phái
sinh) và các sản phẩm chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như bánh kẹo, thuốc lá,
nước ngọt, bia, rượu,...
1.1.1.2. Khái niệm về chất lượng
Hiện nay, do trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau nên có
nhiều cách tiếp cận về khái niệm chất lượng; cụ thể:
- Theo quan điểm triết học, chất lượng là tính xác định bản chất nào đó của
sự vật, hiện tượng, tính chất mà nó khẳng định nó chính là cái đó chứ không phải là
cái khác hoặc cũng nhờ nó mà nó tạo ra một sự khác biệt với một khách thể khác.
Chất lượng của khách thể không quy về những tính chất riêng biệt của nó mà gắn

8


chặt với khách thể như một khối thống nhất bao chùm toàn bộ khách thể. Theo quan
điểm này thì chất lượng mang trong nó một ý nghĩa hết sức trừu tượng về sự hoàn
hảo, tốt đẹp, nó không phù hợp với thực tế đang đòi hỏi, nhất là hoạt động sản xuất
hàng hóa.

- Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, thì chất lượng là tổng thể những thuộc
tính cơ bản của sự vật (sự việc)..., làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật
(sự việc) khác. Theo cách định nghĩa này, thì chất lượng được đánh giá thông qua
các đặc trưng, đặc tính riêng biệt của sự vật (sự việc); đây cũng là một định nghĩa
chung chung, trừu tượng.
- Tiếp cận chất lượng theo nhà sản xuất: “Chất lượng là sự tuân thủ những
yêu cầu kinh tế, yêu cầu kỹ thuật và bản thiết kế lập ra”. Với quan niệm này, nhà
sản xuất gặp phải khó khăn trong việc tiếp cận nhu cầu sử dụng, tiêu thụ của người
tiêu dùng; đúng hơn, với nhà sản xuất thì chất lượng là theo thiết kế đề ra nhưng đôi
khi lại không phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
- Tiếp cận chất lượng theo người tiêu dùng và một số nước: “Chất lượng là
sự phù hợp với yêu cầu và mục đích của người tiêu dùng”; “chất lượng là tiềm năng
của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng (Tiêu
chuẩn của Pháp - NF X50 109) hay "Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối
với yêu cầu của người tiêu dùng" (Tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu - EOQC).
Với cách tiếp cận này, chất lượng được thể hiện thông qua sự thỏa mãn nhu cầu,
mục đích của người tiêu dung đối với một sản phẩm, nó không phản ánh được đặc
điểm, đặc trưng hay đặc tính của sản phẩm; đây là một hạn chế, vì nó tách rời các
tính chất bên trong (khách quan) với yếu tố bên ngoài (chủ quan).
- Để khắc phục hạn chế, tình trạng trên, Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa
ISO đã đưa ra định nghĩa về chất lượng sau: "Chất lượng là tập hợp các đặc tính của
một thực thể (đối tượng), tạo cho thực thể đó có khả năng thỏa mãn những nhu cầu
đã nêu ra hoặc tiềm ẩn". Cách tiếp cận này đang được các nước trên thế giới chấp
nhận và sử dụng rộng rãi (hai mặt bên trong và ngoài của thực thể được phản ánh).
Ở Việt Nam, khái niệm chất lượng được hiểu theo Tổ chức Quốc tế về Tiêu
chuẩn hóa ISO, đó là toàn bộ các đặc tính của một thực thể, tạo cho thực thể đó khả
năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và dự định (TCVN ISO 8402: 1999) hay

9



chất lượng là tập hợp các tính chất của một thực thể (đối tượng), tạo cho thực thể có
khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn (TCVN ISO 5814 : 1994).
1.1.1.3. Khái niệm về chất lượng nông sản
Từ những khái niệm về chất lượng nêu trên, xét ở khía cạnh lĩnh vực nông
sản, có thể khái quát: Chất lượng nông sản là tổng hợp các tính chất, thuộc tính cơ
bản của nông sản, tạo cho nông sản khả năng thỏa mãn những nhu cầu của người
tiêu dùng bao gồm những nhu cầu mong muốn được nêu ra và tiềm ẩn. Với khái
niệm này; chúng ta có thể nhận thấy chất lượng nông sản có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, chất lượng là thuộc tính, tính chất đặc trưng cơ bản của nông sản
và được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu nhất định, phù hợp với công dụng.
Thứ hai, chất lượng nông sản là một phạm trù kinh tế, kỹ thuật, xã hội nói lên
tính hữu ích của nông sản, nhằm phục vụ mục đích sử dụng của người tiêu dùng; do
vậy, nó phụ thuộc vào thị yếu của người tiêu dùng trong từng thời kỳ nhất định.
Thứ ba, chất lượng của nông sản được tạo thành ngay từ khâu thiết kế, xây
dựng phương án sản phẩm nông sản đến sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Trong
quá trình đó, khâu sản xuất là khâu quan trọng, quyết định nhất tạo nên chất lượng
nông sản và khâu tiêu dùng lại là khâu phản ánh chất lượng nông sản đầy đủ nhất.
Thứ tư, có ba chủ thể liên quan đến chất lượng nông sản, đó là nhà sản xuất,
nhà nước và người tiêu dùng. Với nhà sản xuất, mục tiêu là đáp ứng yêu cầu về chất
lượng nhưng phải mang lại lợi nhuận cao; người tiêu dùng luôn yêu cầu chất lượng
cao gắn với giá rẽ và nhà nước là người quyết định thế nào là một sản phẩm/nông
sản có chất lượng với những tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể mà cả nhà sản xuất, nhà
phân phối, người tiêu dùng phải tuân thủ, đồng thời đưa ra các công cụ, chế tài
(luật, nghị định) để giám sát, quản lý chất lượng nông sản.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành chất lượng nông sản
Chất lượng nông sản được cấu thành từ nhiều yếu tố và được thể hiện trên tất
cả các khâu từ nguyên liệu đến sản xuất, phân phối, tiêu thụ; tuy nhiên, ta có thể
chia thành các yếu tố cấu thành sau:
1.1.2.1. Chất lượng dinh dưỡng

Theo quan niệm về nông sản nêu trên, thì nông sản là loại sản phẩm hàng
hóa với vai trò cung cấp chất dinh dưỡng cho con người, do vậy khi nói đến nông

10


sản người ta nghĩ đến chất lượng dinh dưỡng, chất lượng cho nhu cầu của sự phát
triển. Chất lượng dinh dưỡng nông sản là hàm lượng dinh dưỡng (%) chứa trong
nông sản và được cấu thành 02 yếu tố:
- Yếu tố số lượng: Là năng lượng tiềm tàng của nông sản tồn tại dưới dạng
các hợp chất hóa học. Năng lượng này cung cấp cho con người một hàm lượng dinh
dưỡng theo nhu cầu của sự phát triển về thể chất, trí tuệ và sức khỏe.
- Về chất lượng: Là sự cân bằng về thành phần dinh dưỡng trong nông sản
theo theo tiêu chuẩn nhất định, nó thể hiện sự có mặt của các chất vi lượng, nhóm
chất cần thiết đáp ứng nhu cầu sử dụng của con người.
Theo hai yếu tố trên, chất lượng dinh dưỡng là loại chất lượng quan trọng
nhất đối với nông sản, có thể lượng hóa được bằng các phương pháp định lượng
theo tiêu chuẩn quy định (thành phần chứa bao nhiêu %); tuy nhiên, một nông sản
có hàm lượng chất dinh dưỡng cao (thỏa mãn nhiều nhất các yếu tố dinh dưỡng như
nước, năng lượng, các muối khoáng, vitamin, các chất có hoạt tính sinh học khác,...)
chưa phải là tốt nhất và ngược lại, vì nó còn phụ thuộc vào mục đích sử dụng của
con người và văn hóa, phong tục tập quán.
1.1.2.2. Chất lượng vệ sinh
Nói đến chất lượng vệ sinh là nói đến tính chất an toàn của nông sản và có
thể hiểu, nông sản không được chứa các chất độc, hại (kim loại nặng, thuốc bảo vệ
thực vật, kháng sinh dùng trong chăn nuôi, các độc tố sinh học, ký sinh trùng...) đến
sức khỏe con người (chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm) cũng như gây ô nhiễm
môi trường thì đó là nông sản có chất lượng vệ sinh. Đây là một yêu cầu quan trọng
và bắt buộc đối với sản phẩm nông sản.
Chất lượng vệ sinh của nông sản bị ảnh hưởng nhiều yếu tố cả bản chất hóa

học bên trong lẫn môi trường bên ngoài (sinh học, vật lý, cách bảo quản, vận
chuyển, đóng gói,...) hoặc do sự kết hợp giữa yếu tố bên trong và bên ngoài. Chất
lượng vệ sinh của nông sản có thể tiêu chuẩn hóa bằng việc quy định về một
ngưỡng giới hạn cho phép, không được vượt quá dẫn đến độc hại, gây ảnh hưởng
đến sức khỏe con người và môi trường; đặc biệt, tiêu chuẩn về ngưỡng này phải
được quy định bằng một công cụ pháp luật cụ thể và áp dụng chung, rộng rãi.
Ngày nay, có một số người sẵn sàng đánh đổi chất lượng dinh dưỡng để để

11


lấy chất lượng vệ sinh (chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm) với nhiều lý do như:
Môi trường đất, không khí, nước bị ô nhiễm nhiều nơi; việc sử dụng quá nhiều
thuốc bảo vệ thực vật, chất hóa học trong sản xuất nông nghiệp; việc chế biến, bảo
quản, bày bán nông sản chưa thật sự an toàn và kiểm soát chặt chẽ,...
1.1.2.3. Chất lượng thị hiếu (chất lượng cảm quan)
Là chất lượng được đánh giá bằng mức độ ưa thích của con người trên cơ sở
các giác quan cảm tính. Đây là loại chất lượng quan trọng mà nhà sản xuất hướng
đến vì nó thỏa mãn nhu cầu, sự ưa thích, hấp dẫn của con người (mục tiêu của nhà
sản xuất); song, đây là một loại chất lượng mang tính chủ quan, nó biến đổi theo
không gian, thời gian và thị hiếu của người tiêu dùng.
Hiện nay, con người gắn chất lượng thị hiếu với nguồn gốc của nông sản
hoặc địa phương sản xuất nông sản (hành tím Bình Hải; hành, tỏi Lý Sơn; quế Trà
Bồng,...) hoặc tên truyền thống, phương pháp làm ra sản phẩm nông sản cũng là
một loại chất lượng thị hiếu.
1.1.2.4. Chất lượng sử dụng
Chất lượng sử dụng được thể hiện qua các yếu tố: Khả năng bảo quản; thuận
lợi trong quá trình sử dụng; phương diện kinh tế; phương diện thương mại và
phương diện pháp luật.
- Khả năng bảo quản: Là khả năng tự bảo bảo lâu dài của nông sản (thời hạn

sử dụng) từ khi mua về và để trong điều kiện bảo quản bình thường đến lần đầu mở
ra sử dụng. Đây là đặc tính rất quan trọng để người tiêu dùng chọn với số lượng lớn.
- Thuận lợi trong quá trình sử dụng: Dễ bảo quản, dễ đóng gói, mở gói, dễ
cất giữ, đóng thành nhiều gói,...
- Phương diện kinh tế: Thể hiện qua giá bán lẻ, giá sĩ và giá phụ thuộc vào
chất lượng nông sản và tâm lý xã hội.
- Phương diện thương mại: Nông sản phải luôn có sẵn, dễ đổi hay trả lại nếu
không đạt yêu cầu tiêu chuẩn thiết kế đề ra.
- Phương diện pháp luật: Nhãn hiệu sản phẩm nông sản phải rõ ràng, chính
xác, nhãn phải ghi đúng ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, thành phần, khối lượng
tịnh, thể tích,...

12


1.1.2.5. Chất lượng công nghệ
Là toàn bộ hoạt động công nghệ tạo ra sản phẩm nông sản cuối cùng (từ
công đoạn đầu vào đến đầu ra) mà trong quá trình đó sẽ tạo ra chất lượng sử dụng
và chất lượng cảm quan. Công nghệ tiên tiến, hiện đại, phù hợp với lực lượng sản
xuất thì chất lượng công nghệ càng tốt, tạo ra sản phẩm nông sản có chất lượng.
1.1.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng nông sản
1.1.3.1. Với người tiêu dùng
Đối với người tiêu dùng, chất lượng nông sản được phản ánh thông qua “cảm
nhận”, “đánh giá”, “kinh nghiệm” và “tin tưởng”. Tùy vào mỗi loại nông sản khác
nhau, người tiêu dùng có các cách đánh giá chất lượng khác nhau:
- Cảm nhận: Đó là sự cảm nhận tính chất bề ngoài về nông sản như hình ảnh,
đặc điểm mô hình sản xuất, uy tín của doanh nghiệp,...
- Đánh giá: Là việc kiểm tra, đánh giá chất lượng nông sản thông qua các
đặc tính tiêu dùng như màu sắc, hương vị, độ tươi, sống,...
- Kinh nghiệm: Trong điều kiện thiếu thông tin về nông sản, người tiêu dùng

đánh giá chất lượng nông sản thông qua kinh nghiệm tiêu dùng sản phẩm nông sản
hoặc hiểu biết về nông sản (cảm nhận và đánh giá không thực hiện được).
- Tin tưởng: Đánh giá chất lượng nông sản thông qua thương hiệu của doanh
nghiệp, người sản xuất, nhà phân phối.
1.1.3.2. Với nhà sản xuất
Với nhà sản xuất, chất lượng nông sản được đánh giá trên cả ba phương diện
Marketin, kỹ thuật, kinh tế và được đánh giá trên các chỉ tiêu sau:
- Thuộc tính kỹ thuật: Nó phản ánh công dụng, chức năng (giá trị sử dụng)
của nông sản thông qua các chỉ tiêu kết cấu vật chất, thành phần cấu tạo và đặc tính
về cơ – lý – hóa của nông sản.
- Yếu tố thẩm mỹ: Đây là đặc trưng cho sự truyền cảm, thích thú, sự hợp lý
về hình thức, dáng vẻ, kích thước, sự hoàn thiện, tính cân đối, màu sắc, trang trí và
tính thời trang,...
- Tuổi thọ (thời gian sử dụng): Là yếu tố đặc trưng cho tính chất của nông
sản giữ được khả năng tồn tại, thích ứng hoặc làm việc bình thường theo đúng tiêu
chuẩn đã thiết kế trong một thời gian nhất định trên cơ sở đảm bảo các yêu cầu về

13


mục đích, điều kiện sử dụng và chế độ bảo dưỡng theo quy trình. Tuổi thọ là tiêu
chí quan trọng quyết định sự lựa chọn hay không lựa chọn của người tiêu dùng đối
với sản phẩm nông sản.
- Độ tin cậy: Được xem là yếu tố quan trọng nhất phản ánh chất lượng nông
sản và đảm bảo cho nhà sản xuất duy trì và phát triển sản xuất, phát triển thị trường
tiêu thụ.
- Độ an toàn của nông sản: An toàn ở đây là nói đến sức khỏe con người và
an toàn cho môi trường. Do đó, khi nông sản không đảm bảo các tiêu chí về độ an
toàn thì khó có thể chấp nhận của người tiêu dùng; đây cũng là yếu tố bắt buộc đối
với hầu hết các sản phẩm nông sản hiện nay.

- Tính tiện dụng: Đòi hỏi tính sẵn có, tính dễ vận chuyển, dễ bảo quản, dễ sử
dụng của nông sản và khả năng thay thế khi có những bộ phận bị hư hỏng.
- Mức độ gây ô nhiễm môi trường: Cũng giống với tiêu chí an toàn; mức độ
gây ô nhiễm môi trường được xem là bắt buộc đối với nhà sản xuất phải tuân thủ
khi sản xuất và đưa nông sản ra thị trường.
- Chỉ tiêu công nghệ: Nói đến đặc trưng cho quy trình tạo ra sản phẩm nông
sản chất lượng cao, tiết kiệm nhiên liệu, nhân công, chi phí thấp, hạ giá thành,...
- Tiêu chí kinh tế: Thể hiện mối quan hệ giữa ba yếu tố, đó là chi phí sản
xuất, giá cả và chi phí trong quá trình sử dụng. Một số doanh nghiệp sản xuất vì
xem trọng lợi nhuận mà cắt giảm chi phí đầu vào thông qua cắt giảm một số quy
trình kỹ thuật làm cho chất lượng nông sản giảm.
Ngoài ra, các tiêu chí về tên sản phẩm nông sản, nhãn hiệu nông sản, thương
hiệu nông sản, danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp sản xuất,... cũng thể hiện chất
lượng nông sản, chúng tác động rất lớn đến tâm lý người tiêu dùng.
1.1.3.3. Trong quản lý Nhà nước
Tiêu chí phản ánh chất lượng nông sản được thể hiện qua các quy định lượng
hóa về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm hàng hóa như chất lượng dinh dưỡng và chất
lượng vệ sinh của nông sản hoặc thông qua các quy định về quản lý bào bì, nhãn
hàng hóa, giấy chứng nhận sản xuất, giấy chứng nhận chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO.
- Đối với chất lượng dinh dưỡng: Đảm bảo các hàm lượng dinh dưỡng

14


(đường, bột, chết béo, khoáng chất, vitamin,...) của nông sản như đã thiết kế trong
quá trình sản xuất và phân phối, tiêu dùng. Nông sản không đảm bảo chất lượng
dinh dưỡng theo thiết kế gọi là nông sản kém chất lượng hoặc không chất lượng;
khi đó, Nhà nước sẽ dùng các công cụ pháp luật để xử lý.
- Đối với chất lượng vệ sinh: Trong quá trình quản lý, kiểm soát hàng hóa

nông sản, Nhà nước quan tâm đến chất lượng nông sản thông qua các tiêu chí về vi
sinh vật gây bệnh trong nông sản và các tồn dư hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật,
thuốc điều hòa sinh trưởng, kháng sinh, kim loại nặng (Cd, Hg, Pb, Cu, Ag,...) chứa
trong nông sản ở mức độ nào. Nếu trong giới hạn cho phép của quy định về tiêu
chuẩn thì nông sản đó có chất lượng; còn ngoài giới hạn cho phép thì nông sản đó
kém chất lượng, không chất lượng.
1.1.4. Vai trò của chất lượng nông sản
1.1.4.1. Với người tiêu dùng
Nông sản có chất lượng sẽ cung cấp cho con người hàm lượng dinh dưỡng
theo nhu cầu để phát triển về thể lực, trí lực, sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc
sống (nó còn thỏa mãn các nhu cầu về ẩm thực, thẩm mỹ của con người). Ngược lại,
nông sản kém chất lượng, không chất lượng sẽ gây hại, đe dọa đến môi trường, đến
sự phát triển của con người, đến sức khỏe, tâm lý và chất lượng cuộc sống.
1.1.4.2. Với nhà sản xuất, nhà phân phối
Đối với nhà sản xuất, nhà phân phối hàng nông sản, thì nông sản có chất
lượng là cơ sở, điều kiện để họ cạnh tranh với các nhà sản xuất, nhà phân phối khác
trên thị trường (sự cạnh tranh không phải trong nước mà cả thị trường các nước trên
thế giới). Khi hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa, thương mại quốc tế thì tính
cạnh tranh về sản phẩm hàng hóa nói chung và nông sản nói riêng có tính quyết
định đến sự tồn tại của các nhà sản xuất, nhà phân phối hàng nông sản. Đây là một
yêu cầu đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm nông sản phải đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng nông sản, tạo giá trị thương hiệu, đa dạng hóa các kiểu
mẫu để tạo niềm tin của người tiêu dùng, thu hút người tiêu dùng.
1.1.4.3. Trong quản lý Nhà nước
Khi hàng hóa nông sản đảm bảo chất lượng, thị trường nông sản ổn định,
tính cạnh tranh nông sản của các doanh nghiệp trong nước và thế giới được nâng

15



cao sẽ tạo tâm lý xã hội ổn định theo hướng tích cực, đời sống tinh thần, vật chất
Nhân dân được nâng cao, của cải vật chất mang lại từ sản xuất nông sản tăng, công
tác QLNN về nông sản, chất lượng nông sản giảm gánh nặng về ngân sách, nguồn
lực (tính tiết kiệm), tạo niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước trong việc
định hướng phát triển Ngành nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực và phát
triển, bảo vệ đất nước.
Vì nông sản là loại sản phẩm hàng hóa chứa nhiều chất dinh dưỡng cho sức
khỏe và sự phát triển của con người; do vậy, nông sản chất lượng là cơ sở để từng
bước cải thiện thể lục, trí lực đối với con người Việt Nam nói chung và lực lượng vũ
trang nói riêng trong quá trình trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
1.1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nông sản
1.1.5.1. Yếu tố giống cây trồng
Mỗi một loại giống cây trồng nông sản khác nhau thì cho chất lượng nông
sản khác nhau; dù tất cả các khâu tạo ra sản phẩm nông sản phần lớn là ứng dụng
khoa học, kỹ thuật, song yếu tố giống vẫn là yếu tố quyết định đến chất lượng nông
sản. Do vậy, chọn tạo các giống mới và các giống có thể thay thế để có được chất
lượng như mong muốn là một nhu cầu thực tiễn để nâng cao chất lượng nông sản.
1.1.5.2. Yếu tố ngoại cảnh
Các yếu tố ngoại cảnh như: Dinh dưỡng khoáng của cây trồng, nhiệt độ, độ
ẩm không khí và đất, ánh sáng, gió,... (yếu tố vật lý môi trường); côn trùng, vi sinh
vật, chuột, chim,... (yếu tố sinh vật) đều ảnh hưởng đến chất lượng nông sản. Chúng
có thể làm thay đổi đáng kể chất lượng nông sản của một giống cây trồng nào đó
khi nó tác động và được chia thành 02 nhóm: Các yếu tố ngoại cảnh trước thu hoạch
(lúc nông sản còn ở nương rẫy, đồng ruộng) và các yếu tố ngoại cảnh sau thu hoạch.
1.1.5.3. Công nghệ sau thu hoạch
Chất lượng nông sản luôn thay đổi, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố và công
nghệ sau thu hoạch (thu hoạch, vận chuyển và chăm sóc sau thu hoạch, tồn trữ, tiếp
thị,...), chất lượng nông sản cũng biến đổi bởi sự trao đổi chất, sự thoát hơi nước,
các tổn thương cơ giới, các vi sinh vật,...
- Thu hoạch nông sản phải đúng vào độ chín, lúc có nhiệt độ thấp trong ngày

và kịp thời đưa nông sản vào chỗ râm mát để nông sản có chất lượng dinh dưỡng và

16


chất lượng cảm quan tốt nhất khi bán.
- Vận chuyển và chăm sóc sau thu hoạch: Sự va chạm giữa các nông sản,
giữa nông sản với phương tiện vận chuyển, giữa nông sản với các bao bì,... cũng
làm ảnh hưởng đến chất lượng của nông sản; do vậy, cần vận chuyển nhẹ nhàng,
đóng gói, sử dụng các loại bao bì hợp lý đối với từng nông sản.
- Tồn trữ nông sản: Cần tạo môi trường tồn trữ nông sản hợp lý, nhất là yêu
cầu về ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ, chất bảo bảo; nếu các điều kiện này không đảm
bảo sẽ làm giảm chất lượng nông sản.
- Tiếp thị nông sản: Nếu nông sản trung bày và bán trong thời gian dài tại nơi
bán lẽ và những nơi không đảm bảo yêu cầu thì nông sản sẽ héo, chết,... Đây là sự
giảm sút nghiêm trọng về chất lượng nông sản.
1.1.5.4. Công nghệ chế biến
Nói đến công nghệ chế biến, chúng ta cần quan tâm đến quy trình chế biến;
dụng cụ, trang thiết bị, nhà xưởng chế biến; con người tham gia trong quá trình chế
biến; các nguyên liệu, phụ gia trong quá trình chế biến. Nếu các yếu tố này tham gia
tạo ra sản phẩm nông sản đảm bảo chất lượng vệ sinh thì nông sản có chất lượng,
hạn chế các độc tố chứa trong nông sản.
1.2. Quản lý Nhà nước về chất lượng nông sản
1.2.1. Khái niệm về quản lý chất lượng nông sản
Để tiếp cận đầy đủ khái niệm về QLNN về chất lượng nông sản, trước hết
cần làm rõ khái niệm về quản lý chất lượng nông sản và QLNN; cụ thể:
- Theo Tổ chức Tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO), thì quản lý chất lượng
là tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung nhằm xác định chính
sách chất lượng, mục đích trách nhiệm và thực hiện chúng bằng những phương tiện
như lập kế hoạch, điều kiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng

trong khuôn khổ hệ thống chất lượng hoặc theo ISO 9000 : 2000 thì quản lý chất
lượng là hoạt động phối hợp với nhau để điều hành, kiểm soát một tổ chức về chất
lượng.
Với quan điểm tiếp cận quản lý chất lượng này, chúng ta có thể hiểu: Quản
lý chất lượng nông sản là hoạt động của một tổ chức có mục đích nhằm định hướng
phát triển, nâng cao và kiểm soát hiệu quả chất lượng nông sản thông qua hệ thống

17


tiêu chuẩn chất lượng.
- Theo Giáo trình Lý luận Hành chính nhà nước của Học viện Hành chính do
PGS. TS Nguyễn Hữu Hải năm 2010 thì “QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc
biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật, chính sách để điều chỉnh
hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan
trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển của xã hội”. Đây là khái niệm mang tính lý luận và thực tiễn trong công
tác nghiên cứu hoạt động QLNN về ngành, lĩnh vực.
1.2.2. Khái niệm QLNN về chất lượng nông sản
Trên cơ sở khái niệm về quản lý chất lượng nông sản, QLNN nêu trên, có thể
hiểu: QLNN về chất lượng nông sản là hoạt động của các cơ quan nhà nước sử
dụng các công cụ pháp luật, chính sách về kinh tế - xã hội, kỹ thuật thích hợp để
điều hành, kiểm soát chất lượng nông sản trong quá trình sản xuất kinh doanh và
xuất nhập khẩu; kịp thời điều chỉnh, ngăn chặn các thiệt hại về tài sản cho Nhà
nước, đảm bảo quyền lợi và uy tín quốc gia, quyền lợi và sức khỏe của Nhân dân do
nông sản không đảm bảo chất lượng gây ra.
1.2.3. Sự cần thiết QLNN đối với chất lượng nông sản
Trong hoạt động QLNN thì việc QLNN về chất lượng nông sản mang tính
định hướng và đảm bảo cho hoạt động chất lượng có tác động tích cực đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, đất nước. Ngày nay, đứng trước nền kinh tế

thị trường đòi hỏi các nước phải chủ động xây dựng, chứng nhận các tiêu chuẩn
chất lượng nông sản (quản lý chất lượng nông sản trong nước và nhập khẩu) và
quản lý hiệu quả chất lượng về nông sản phù hợp với điều kiện, tiêu chuẩn sản
phẩm của của nước nhập khẩu nhằm tăng tỷ lệ xuất khẩu và tăng tính cạnh tranh
của các mặt hàng nông sản. Với ý nghĩa này, hàng nông sản Việt Nam muốn vào
các thị trường các nước thì phải đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn đã được chứng
nhận và Nhà nước với vai trò quản lý giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất
kinh doanh nông sản từng bước cải tạo, đổi mới hệ thống công nghệ sản xuất để
phát triển, nâng cao và kiểm soát chất lượng nông sản thông qua các chính sách
pháp luật phù hợp.
Nhờ tính định hướng của Nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh

18


×