Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.31 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THU HẰNG

ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH
NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THU HẰNG

ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH
NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẨN KHOA HỌC
TS. ĐINH THỊ MAI


HÀ NỘI – năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô Học viện Khoa học Xã hội, đặc biệt là
Khoa Luật học đã dạy dỗ và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu làm nền
tảng cho việc thực hiện luận văn này.
Tôi đặc biệt cám ơn cô giáo TS. Đinh Thị Mai đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
để tôi có thể hoàn tất luận văn cao học này.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp và những người
đã giúp tôi trả lời bảng câu hỏi khảo sát làm nguồn dữ liệu cho việc phân tích và
cho ra kết quả nghiên cứu của luận văn cao học này.
Cuối cùng, tôi hết lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình đã động
viên và tạo động lực để tôi hoàn thành luận văn này một cách tốt đẹp.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong đề tài này được thu thập và sử dụng một cách trung thực. Kết quả nghiên
cứu được trình bày trong luận văn này không sao chép của bất cứ luận văn nào và
cũng chưa được trình bày hay công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào khác
trước đây.
Tác giả luận văn

Đặng Thị Thu Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT
CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN .........................................6
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................................6
1.2. Đặc điểm của áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ...10
1.3. Các nội dung của hoạt động áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn .................................................................................................................21
1.4. Các tiêu chí đánh giá kết quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn .................................................................................................................34
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ
HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HAI CẤP
TỈNH PHÚ YÊN ......................................................................................................38
2.1. Một số đặc điểm tình hình có liên quan .............................................................38
2.2. Kết quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn của Tòa
án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên .............................................................................39
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân .........................................................................45
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC HÌNH
PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH PHÚ YÊN .............................................................57
3.1. Quan điểm về bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn .................................................................................................................57
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn .................................................................................................................60
KẾT LUẬN ..............................................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADPL


Áp dụng pháp luật

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

HTHP

Hệ thống hình phạt

LHS

Luật hình sự

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

PLHS

Pháp luật hình sự


TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

THA

Thi hành án

THADS

Thi hành án dân sự

THAHS

Thi hành án hình sự

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bới vì pháp luật là công cụ hữu hiệu
để giữ vững an ninh, duy trì và bảo vệ trật tự xã hội, Điều 12 Hiến pháp quy định:
"Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật , không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa". Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp cưỡng chế nhưng biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất đó là hình phạt nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết
định. BLHS năm 2015 quy định: “Hình phạt không chỉ nhằm trường trị người, pháp
nhân thương mại phạm tội mà còn giao dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các
quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân
thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.
BLHS năm 2015 quy định hệ thống hình phạt bao gồm: 07 hình phạt chính
và 07 hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính gồm các hình phạt tù có thời hạn và
các hình phạt tù nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ, trục xuất. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
được quy định trong BLHS hiện hành mở rộng hơn so với các BLHS trước đây,
điều đó thể hiện nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự của Nhà nước ta trong
việc xử lý tội phạm, tính nhân đạo trong việc xử lý người phạm tội, giúp họ trở
thành người lương thiện có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa
họ phạm tội mới. Đồng thời đề cao công tác phòng ngừa và đấu tranh tội phạm, đảm
bảo các phán quyết của cơ quan pháp luật đúng pháp luật và được thực thi và bảo vệ
đầy đủ các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013.
Tuy nhiên, trong thực tiễn việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với các hình
phạt tù có thời hạn. Nguyên nhân là do pháp luật hình sự quy định về các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn còn nhiều bất cập, vướng mắc, có nhiều cách

1



nhận thức và vận dụng khác nhau dẫn đến việc áp dụng và thi hành các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trên thực tế chưa được thống nhất nhưng
chưa có văn bản nào kịp thời hướng dẫn. BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện hơn BLHS năm 1999. Nhưng cho đến nay, không ít cán bộ làm
công tác áp dụng pháp luật tại tỉnh Phú Yên vẫn chưa nhận thức được một cách
đúng đắn, đầy đủ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn trong việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước
ta nên việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong giải
quyết các vụ án hình sự là hết sức hạn chế.
Trước yêu cầu và nhiệm vụ cải cách tư pháp của Đảng theo tinh thần Nghị
quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị
quyết số 48-NQ/TƯ ngày 24/05/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 với nội dung
“Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao
hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm
hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối
với một số loại tội phạm…”, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, những bất
cập quy định của pháp luật, những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng
cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định của pháp luật.
Xuất phát từ thực trạng nói trên, tác giả lựa chọn đề tài “Áp dụng các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” để viết luận
văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Áp dụng hình phạt trong công tác xét xử cử Tòa án luôn là chủ đề quan tâm
và nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Những nghiên cứu đó góp phần quan trọng


2


trong việc bảo đảm áp dụng các hình phạt của hệ thống Tòa án. Trong những năm
qua, có nhiều công trình nghiên cứu được công bố có nội dung liên quan đến đề tài
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn, có thể nêu một số công trình như sau: Luận án
tiến sĩ của tác giả Chu Thị Thu Trang: “Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của
các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam”, năm 2009; Luận văn thạc
sĩ của tác giả Võ Hồng Nam ; “Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh”, năm 2014; Luận văn thạc sĩ của
tác giả Đinh Tấn Long: “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam”, năm 2017...Các công trình nghiên
cứu khoa học nêu trên là tài liệu bổ ích, có giá trị sử dụng trong quá trình nghiên
cứu, gợi mở cho tác giả những ý tưởng khoa học và đặc biệt là có giá trị đối với
những người làm công tác áp dụng pháp luật.
Vì vậy, việc nghiên cứu về hoạt động áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên sẽ mang tới những cái nhìn mới
mẻ về vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn, đánh giá thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn tại tỉnh Phú Yên, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế và những
nguyên nhân của nó để đề xuất những giải pháp hoàn thiện những quy định về các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong Bộ luật Hình sự Việt nam hiện hành
và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện BLHS và bảo đảm áp dụng đúng các hình

3


phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trước yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các loại hình phạt này của Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam; thực
tiễn áp dụng các loại hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong phán
quyết, xét xử tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trên phạm vi tỉnh Phú Yên trong thời gian 05
năm từ 2014 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự và về vấn đề cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về

Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền; đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân và vì dân. Đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp, theo tinh
thần Nghị quyết 48NQ/TW và 49NQ/TW của Bộ Chính trị về vấn đề cải cách tổ
chức và hoạt động của TAND và các cơ quan tư pháp trong giai đoạn hiện nay,
nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của lộ trình cải cách tư pháp.

4


Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: Phân tích, tổng hợp,
so sánh, lịch sử và lôgic, phương pháp thống kê, trong đó chú trọng các phương
pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài là công trình nghiên cứu cơ bản và toàn diện ở cấp độ luận văn thạc sĩ
luật học, phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và những bất cập của
pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
để góp phần hoàn thiện PLHS, đáp ứng nhu cầu công cuộc cải cách Tư pháp hiện
nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn hoạt động áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú
Yên, luận văn nêu những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn để các cơ quan có
thẩm quyền sớm có hướng dẫn áp dụng pháp luật một cách thống nhất và đề xuất
một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án
hình sự của TAND.
Phần nội dung của luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho cá nhân,
cán bộ công chức Tòa án và các cơ quan làm công tác áp dụng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, phần nội dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn.
Chương 2: Thực trạng áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH
NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm, phân loại các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn
Tội phạm và hình phạt là hai chế định cơ bản của Luật hình sự Việt Nam,
chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hình phạt (trách nhiệm hình sự) là công
cụ pháp lý của Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mối quan
hệ giữa tội phạm và hình phạt là biểu hiện của mối quan hệ nhân quả trong cắp
phạm trù nhân quả trong phép biện chứng. Tức là người phạm tội phải chịu hậu quả
về hành vi vi phạm pháp luật do mình thực hiện. BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung
năm 2009 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội. Hình
phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định mức hình phạt cụ thể”. Kế
thừa và phát huy BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 quy định hình phạt như sau:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định
trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân

thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp
nhân thương mại đó”
Do đó, hình phạt được xem là công cụ pháp lý hiệu quả nhất trong công tác
đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, là thước đo thái độ lên án của Nhà nước đối với
á nhân hay pháp nhân thương mại có hành vi phạm tội, là tiêu chí của công lý và
công bằng xã hội. Do đó, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội thì phải chịu
một hoặc một số hình phạt nhất định (hình phạt chính và hình phạt bổ sung) tùy
theo tính chất và mức độ, tính chất của hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình gây
ra, tùy thuộc vào đặc điểm riêng và tâm sinh lý của mỗi người mà mức độ tác động
của hình phạt cũng khác nhau. Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt đối với người,
6


pháp nhân thương mại phạm tội không chỉ mang tính chất trừng trị mà yêu tố tiên
quyết và quan trọng là đảm bảo mục đích giáo dục họ nhận thấy được lỗi lầm để
sửa chữa, rèn luyện thành người có ích cho xã hội, không tiếp tục phạm tội. Điều 31
BLHS năm 2015 quy định : “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân
thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại
khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm”. Trên cơ
sở tổng kết công tác xét xử cùng với sự ngày càng đa đạng của hành vi phạm tội,
một số hành vi vi phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng chưa được quy
định trong BLHS hoặc sự chuyển hóa của tình hình mà hành vi của người phạm tội
khôngcòn gây nguy hiểm hoặc ít nguy hiểm cho đời sống xã hội. Do đó, BLHS năm
2015 quy định hệ thống hình phạt đối với người phạm tội gồm các hình phạt chính
và hình phạt bổ sung
1.1.2. Khái niệm áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn
Hệ thống hình phạt là tổng hợp các biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm
khắc nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS, căn cứ vào mức độ nghiêm

khắc của mỗi loại được sắp xếp thành một danh mục cụ thể theo trình tự nhất định
từ nhẹ đến nặng (hay ngược lại) và chỉ do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối
với ngưòi đã thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, hệ thống hình phạt theo PLHS
Việt nam đều có các dấu hiệu: phải được xây dựng một cách khoa học, cân đối và
hợp lý, làm cho việc quy định một cách chính xác chế tài của thể đối với các tội
phạm tương ứng trong phần riêng của BLHS; việc quy định trình tự của các loại
hình phạt trong hệ thống hình phạt tương ứng với sự phân chia tội phạm thành các
nhóm nhất định trong phần chung BLHS; trong hệ thống hình phạt thể hiện tính
chất và mức độ nguy hiểm khác nhau của từng loại hình phạt tương ứng với tính
chất và mức độ cho xã hội của của các nhóm tội phạm; trong hệ thống hình phạt thể
hiện rõ được tính chất và mức độ nghiêm khắc khác nhau của từng loại hình phạt
tương ứng với tính chất và mức độ cho xã hội của các nhóm tội phạm; trong hệ

7


thống hình phạt quy định một cách cụ thể, rõ ràng, chính xác, căn cứ và những điều
kiện áp dụng đối với từng loại hình phạt nói chung và những giới hạn của các loại
hình phạt tù có thời hạn nói riêng.
Theo PLHS Việt Nam, hệ thống hình phạt chia làm hai nhóm là: hình phạt
chính và hình phạt bổ sung. Căn cứ chủ yếu để phân biệt hình phạt chính với hình
phạt bổ sung là khả năng được áp dụng độc lập của loại hình phạt đối với mỗi tội
phạm. Về nguyên tắc, hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập, mỗi tội
phạm chỉ có thể bị tuyên một hình phạt chính. Hình phạt bổ sung là hình phạt không
thể tuyên độc lập, mà chỉ có thể tuyên kèm theo một hình phạt chính đối với mỗi
loại tội phạm và được quy định cụ thể đối với loại tội phạm đó . Khác so với hình
phạt chính, hình phạt bổ sung được áp dụng không phải đốỉ với tất cả các loại tội
phạm mà chỉ riêng có một số loại tội nhất định và cũng không phải hình phạt bổ sung
được áp dụng kèm theo bất kỳ loại hình phạt chính nào. Trong các loại hình phạt,
phạt tiền và trục xuất là hai loại hình phạt được quy định vừa là hình phạt chính vừa

là hình phạt bổ sung. Việc qui định các hình phạt bổ sung trong Bộ luật Hình sự Việt
Nam là một trong những yếu tố mở ra khả năng pháp lý giúp cho việc cá thể hoá hình
phạt, bảo đảm tác động có lựa chọn đối với người phạm tội tuỳ theo tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội. Nói một cách
khác với chức năng hỗ trợ hình phạt chính, hình phạt bổ sung giúp cho Toà án áp
dụng những biện pháp xử lý triệt để và công bằng đối với người phạm tội, để đạt
được mục đích tối đa của hình phạt. Đối với một tội phạm Tòa án chỉ được áp dụng
một hình phạt chính nhưng có thể áp dụng một số hình phạt bổ sung.
Điều 32 BLHS năm 2015 quy định đối với người phạm tội thì có hai nhóm
hình phạt chính (có 07 loại hình phạt: Cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG, trục xuất, tù có
thời hạn, tù chung thân và tử hình) và hình phạt bổ sung (có 07 loại hình phạt: cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, quản chế, cấm
cư trú hạn chế hoặc tước một số quyền công dân, hình phạt tiền và hình phạt trục
xuất khi không áp dụng hai hình phạt này là hình phạt chính. BLHS không có quy
định về khái niệm “Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn” nhưng

8


vấn đề này được đưa ra trong các tài liệu khoa học pháp lý, được nhiều nhà khoa
học sử dụng và được thực tiễn thừa nhận.
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn không được quy định
trong BLHS nhưng đã được đề cập rất nhiều trong nhiều tài liệu khoa học pháp lý
của nhiều chuyên gia pháp lý và người làm công tác áp dụng pháp luật. Quy chế
pháp lý về quyền con người, quyền công dân là tổng thể các quyền con người,
quyền công dân được ghi nhận trong các điều ước quốc tế, trong hiến pháp, các đạo
luật của quốc gia và được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Khi xác lập quy chế
pháp lý về quyền con người và quyền công dân, nhà nước cần tuân theo những
nguyên tắc xuất phát từ quyền con người. Quy định các quyền công dân cần thể
hiện được các yêu cầu, đòi hỏi của nhân quyền, đó là các nguyên tắc chủ đạo, là nền

tảng, là định hướng. Xuất phát từ chủ trương không ngừng phát triển quyền con
người, Nhà nước Việt Nam đã và đang xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
để bảo đảm các quyền con người được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ nhất.
Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, các quyền tự do về cá nhân. Xuất phát
từ quyền tự do là một khái niệm mô tả tìnhh trạng cá nhân không bị sự ép buộc, có
cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý chí, nguyện vọng của chính mình.
Do đó, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là các hình phạt không
buộc người phạm tội phải cách ly ra khỏi môi trường sống bình thường, hầu như
không có sự ép buộc hoặc hạn chế nào; tuy nhiên, họ cũng phải bị tước bỏ hay hạn
chế một số quyền và lợi ích nhất định. Trên cơ sở quy định khái niệm hình phạt và
các hình phạt đối với người phạm tội được quy định tại các Điều 30 và 32 BLHS
năm 2015 có thể đưa ra khái niệm về “ các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn” như sau: “các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là các
hình phạt chính nằm trong HTPL được quy định trong BLHS do Tòa án quyết định
áp dụng đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hay hạn chế một số quyền và lợi ích
nhất định của họ nhưng các hình phạt này không buộc người bị kết án phải cách ly
khỏi xã hội”

9


1.2. Đặc điểm của áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn
1.2.1. Đặc điểm của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn xét về bản chất nó là các
hình phạt nên nó cũng mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt được quy định tại
Điều 30 BLHS là: biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy
định trọng Bộ luật này, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội và nhằm tước bỏ
hoạc hạn chế quyền, lợi ích của người đó. Tuy nhiên, để thấy được tính ưu việt, nổi

trội và chính sách khoan hồng của Nhà nước ta thì các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn có những điểm riêng biệt trong sự so sánh với các hình phạt chính
là hình phạt tù có thời hạn, những điểm khác biệt đó được thể hiện như sau:
- Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn không buộc người bị
kết án phải cách ly khỏi môi trường sống bình thường, hầu như không có sự ép buộc
hoặc hạn chế nào; tuy nhiên, họ cũng phải bị tước bỏ hay hạn chế một số quyền và
lợi ích nhất định. Có một số người sau khi thi hành án phạt tù xong họ lại tiếp tục có
hành vi phạm tội mà lần phạm tội sau có thế có tính chất và mức độ của hành vi
nghiêm trọng hơn lần trước; Có một số người nếu hướng thiện thì gặp khó khăn
trong việc tái hòa nhập cộng đồng. Do đó, đối với một số tội phạm mà tính chất,
mức độ và hành vi nguy hiểm là ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, có
nơi cư trú rõ ràng, trong quá trình điều tra, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn
hối lỗi, đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hay phần lớn hậu quả do hành vi phạm tội
của mình gây ra thì không cần thiết phải áp dụng các hình phạt tù có thời hạn, thay
vào đó có thể áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn để họ
được cải tạo trong môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát, giúp đỡ của gia
đình, cơ quan nhà nước, tổ chức nơi họ sinh sống, làm việc để họ thấy được sự
khoan hồng của pháp luật cố gắng khắc phục sửa chữa để trở thành người có ích
cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
- Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm
tội có mức độ nghiêm khắc thấp hơn so với các hình phạt chính là hình phạt tù có

10


thời hạn. Theo hệ thống PLHS hiện hành thì các hình phạt được quy định trong
LHS, được sắp xếp theo một trật tự nhất định (từ nhẹ đến nặng hoặc ngược lại) tùy
thuộc vào tính nghiêm khắc của mỗi loại hình phạt quy định. Theo quy định tại
Điều 32 BLHS năm 2015 cho thấy trật tự xắp xếp của HTHP được phân chia theo
thang bậc từ nhẹ nhất đến nặng nhất ( từ cảnh cáo – tử hình). Theo đó, cảnh cáo là

loại hình phạt nhẹ nhất, ít nghiêm khắc nhất trong các hình phạt chính và được xắp
xếp đứng vị trí đầu tiên trong điều luật; tiếp đến là thứ tự của các hình phạt: Phạt
tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn tuy có mức độ ít nghiêm khắc hơn đối với các hình phạt chính là hình
phạt tù có thời hạn, đảm bảo các quyền cơ bản của con người nhưng người phạm tội
và bị kết án cũng phải bị tước bỏ hoặc hạn chế hoặc một số quyền nhất định theo
quy định của pháp luật. Ví dụ: Hình phạt cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ
thống hình phạt, hầu như không có bị hạn những quyền lợi về nhân thân và quyền
lợi về tài sản … của người bị kết án nhưng cảnh cáo là sự lên án, khiển trách công
khai của Nhà nước đối với tội phạm và người phạm tội; biện pháp răn đe, trừng trị
đối với họ thì Nhà nước phải gây cho một số tổn thất nhất định về mặt tinh thần để
họ thấy được hậu quả mà mình phải gánh chịu do đã thực hiện hành vi phạm tội
hoặc Nhà nước hạn chế một số quyền, lợi ích hợp pháp về tinh thần và vật chất của
người phạm tội như hình phạt cải tạo không giam giữ và giao cho họ cho “cơ quan,
tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó
thường trú, giám sát, giáo dục” và gia đình người đó có trách nhiệm phối hợp cùng
với chính quyền địa phương cấp xã trong việc giáo dục người phạm tội; đồng thời
trong thời gian chấp hành án họ có thể bị khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng từ
5% đến 20% để sung công quỹ nhà nước. Hình phạt tiền và hình phạt trục xuất là
hai hình thức phạt có thể được áp dụng khi là hình phạt chính, khi là hình phạt bổ
sung. Xét vể nội dung và giá trị các tác động của hình phạt, phạt tiền tước bỏ một số
quyền lợi vật chất của người bị kết án, tác động đến kinh tế (tình hình tài sản) của
họ và thông qua đó nhằm đạt những mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa
chung của hình phạt, mức phạt tiền được áp dụng tùy theo mức độ nguy hiểm của

11


hành vi mà họ gây ra, đồng thời có xem xét đến tình hình tài sản của người phạm tội
và sự biến động cuả giá nhưng tối thiểu không được thấp hơn 1.000.000đồng; còn

hình phạt trục xuất là buộc người nước ngoài phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam. Còn đối với hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn là” buộc
người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất
định”. Đối với hình phạt tù không thời hạn thì được áp dụng đối với người phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Hình phạt tử hình
chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong
nhóm các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người,…
tuy nhiên, trong một số trường hợp người bị kết án hình phạt tử hình cũng được ân
giảm và hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân. Từ mức độ nghiêm
khắc của từng loại hình phạt cụ thể đã được phân tích trên cho thấy đối với các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đảm bảo tốt hơn quyền con người,
quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, đồng thời cũng phù
hợp với xu thế chung của thế giới là tiến đến xóa bỏ hình phạt tử hình, mở rộng
phạm vi áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, phù hợp với
định hướng yêu cầu cải cách tư pháp được Nghị quyết 49-NQ/TW đặt ra nhiều yêu
cầu đối với việc hoàn thiện, đổi mới chính sách hình sự như: giảm hình phạt tù, mở
rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại
tội phạm, quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới
xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập
quốc tế v. v..
- Điều kiện áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy
định khá chặt chẽ: Việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và xem xét
đến các tình tiết: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân
thân tốt, có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng, phạm tội nhưng không gây
thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn, đã tự nguyện bồi thường hoặc tác động người
thân trong gia đình bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội

12



của mình gây ra,… Đó là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều
51 BLHS năm 2015. Theo đó, chỉ có những trường hợp phạm tội mà người thực
hiện tội phạm có các điều kiện nêu trên thì mới được áp dụng các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn. Điều đó cho thấy tính chặt chẽ và cá thể hóa TNHS trong
PLHS hiện hành.
- Chủ thể thi hành các phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất đa
dạng: Nếu việc thi hành các hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn được giao
cho một cơ quan chuyên trách thực hiện thì việc thi hành các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn không phải là cơ quan chuyên trách về công tác thi
hành án hình sự mà được giao cho nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nơi người bị
kết án cư trú, làm việc kết hợp với gia đình tham gia vào việc cải tạo, giáo dục
người phạm tội như: chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
người bị kết án cư trú hoặc làm việc, cơ quan THADS (đối với hình phạt tiền) hoặc
ngay cả là HĐXX (đối với hành phạt cảnh cáo)…
2.2.2. Các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về hình phạt không
tước tự do
2.2.2.1. Quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt cảnh cáo
- Khái niệm cảnh cáo:
Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất, ít nghiêm khắc nhất trong các hình phạt
chính nói chung và các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng
và được xếp vị trí đầu tiên trong hệ thống các loại hình phạt . Theo Điều 34 BLHS
năm 2015 quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”. Cảnh
cáo là hình phạt khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án tuyên đối với người
bị kết án. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất vì nó không tước bỏ hoặc hạn chế bất cứ
quyền lợi nào của người bị kết án mà chỉ chịu tổn thất về tinh thần. Hình phạt cảnh
cáo chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau:
- Chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng được quy định tại
khoản 1 Điều 9 BLHS: “là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội


13


không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”. Tuy nhiên,
quy định ở phần chung của BLHS lại không phù hợp với phần các tội phạm cụ thể
làm cho công tác áp dụng pháp luật của các cơ quan và người tiến hành tố tụng gặp
rất nhiều khó khăn vướng mắc và cũng là một phần làm cho việc áp dụng các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất ít được áp dụng trong thực tiễn. Ví
dụ: tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có
công nuôi dưỡng minh (Điều 185) , khoản 1 điều này quy định mức hình phạt từ
cảnh cáo, phạt CTKGG hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm; khoản 2 của điều luật
lại quy định khung hình phạt cao nhất là 05 năm tù. Như vậy, các tội này vừa là tội
phạm ít nghiêm trọng và vừa là tội phạm nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1
Điều 9 BLHS.
- Tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện “chưa đến mức miễn trách
nhiệm hình sự”. Quy định này chưa phù hợp làm cho các cơ quan và người tiến
hành tố tụng không phân biệt được ranh giới giữa “căn cứ miễn trách nhiệm hình
sự” được quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015 và phải chịu trách nhiệm hình sự
đối với loại tội phạm ít nghiêm trọng nhưng cũng chưa có bất cứ văn bản nào
hướng dẫn làm cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng lúng túng và không đưa
ra được phán quyết miễn trách nhiệm hình sự cho người đã có hành vi phạm tội.
- Hình phạt cũng được áp dụng đối với một số tội phạm mà điều luật không
quy định mức hình phạt cảnh cáo nhưng Tòa án được áp dụng Điều 54 BLHS để
chuyển khung hình phạt được quy định tại khoản 1 và 2 điều này, trong trường hợp
có các điều kiên được quy định tại khoản 1 và 2 nhưng khung hình phạt đó là nhẹ
nhất, “thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn” và lý do phải được ghi rõ trong bản án.
- Hậu quả pháp lý của hình phạt: cảnh cáo là khiển trách, lên án công khai của

Nhà nước đối với người phạm tội, gây ra cho họ những tổn hại nhất định về mặt
tinh thần. Theo quy định tại Điều 70 BLHS thì người áp dụng các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được đương nhiên xóa án sau 01 năm kể từ ngày

14


chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản
án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn này. Đối với người từ
đủ 16 đến dưới 18 tuổi thì thời hạn được xóa án tích sau 06 tháng kể từ ngày chấp
hành xong hình phạt và không thực hiện hành vi phạm tội mới
- Thể thức thi hành: Do cảnh cáo là khiển trách, lên án công khai của Nhà
nước đối với người phạm tội nên cơ chế thi hành án cảnh cáo không giống như cơ
chế thi hành các hình phạt khác. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn khác chỉ được đưa ra thi hành khi bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng hình
phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa và do HĐXX tuyên án. Điều 363
BLHS hiện hành quy định hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa là
phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 71 Luật THAHS. Tuy nhiên, BLTTHS lại
quy định Tòa án tuyên hình phạt cảnh cáo buộc phải có mặt của người phạm tội,
trong trường hợp người phạm tội vắng mặt vì điều kiện khách quan, bất khả kháng
thì Tòa án có được tuyên hình phạt này tại phiên tòa hay không? Thực tiễn vướng
mắc cho đến nay vẫn chưa có văn bản dưới luật nào hướng dẫn.
2.2.2.2. Quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền là hình phạt chính
- Khái niệm hình phạt tiền:
BLHS năm 2015 chưa đưa ra khái niệm hình phạt tiền. Theo quy định tại
Điều 35 BLHS năm 2015 có thể đưa ra khái niệm “phạt tiền là hình phạt có tính
chất kinh tế, nhằm vào tài sản của người phạm tội, buộc người phạm tội phải nộp
một khoản tiền . Như vậy, sự tước bỏ một số quyền, lợi ích của người phạm tội đối
với loại hình phạt này là tước đoạt một khoản tiền nhất định của người phạm tội, tự
tước một phần lợi ích vật chất này cũng thể hiện được tính nghiêm khắc của hình

phạt và tương xứng với hành vi phạm tội, đảm bảo tính nghiêm minh và công bằng
xã hội, phù hợp với tính thần trong các Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW và Nghị quyết số
49/NQ-TW) Đảng ta khẳng định: “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện
trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng hình phạt tiền, hình
phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm”. BLHS năm 2015 đã mở

15


rộng cả về tội phạm và hình phạt tiền, cụ thể được quy định tại Điều 35 BLHS thì
Tòa án được áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng và rất nghiêm trọng.
-

Hình phạt tiền được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện sau:

Theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 35 BLHS năm 2015 thì phạt tiền được
áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp: “người phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định” và “người phạm tội rất
nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, công cộng, an toàn
công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định”nhưng phải xem xét
đến tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, đến nhân thân của người phạm tội,
tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xem xét đến tình hình tài sản và
khả năng thu nhập của người phạm tội và biến động về giá là đảm bảo tính khả thi
của hình phạt và khả năng chấp hành án của người bị kết án, thông thường Tòa án
tuyên người phạm tội phải nộp tiền một lần và ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp
luật . Nếu họ không có tài sản, không có khả năng tài chính thì hình phạt này có ưu
điểm vượt trội đến đâu, có thể hiện được tính khoan hồng của chính sách hình sự thì
cũng không có tính khả thi và làm cho các cơ quan thi hành án hình sự khó có thể thi

hành bản án và người bị kết án cũng không thể nào tự nguyện thi hành bản án, như
vậy ảnh hưởng đến cuộc sống của người bị kết án và của cả gia đình họ và thời gian
được xóa án tích của họ bị kéo dài hơn, không đảm bảo được quyền và lợi ích của
họ.
Mức phạt tiền tối thiểu không được thấp hơn 1.000.000đồng (khoản 3 Điều
35), mức tối đa được quy định tại các điều luật quy định đối với mỗi loại tội phạm
cụ thể . Đối với người có hành vi phạm tội từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phải “có thu
nhập hoặc có tài sản riêng” và mức phạt tiền đối với họ “không quá ½ mức tiền
phạt mà điều luật quy định” (Điều 99). Điều đó cũng thể hiện chính sách khoan
hồng, nhân đạo của Nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội.
- Về thể thức thi hành: cũng như các hình phạt khác trong HTHP của PLHS
thì hình phạt tiền được thi hành ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp

16


luật và cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan thi hành án hình phạt này (khoản 1
Điều 36 Luật THADS) có trách nhiệm thi hành để thu tiền phạt của người bị kết án
nộp vào ngân hàng nhà nước.
- Hậu quả pháp lý của hình phạt tiền: phạt tiền là hình phạt có tính chất kinh
tế, nhằm vào tài sản của người phạm tội, buộc người phạm tội phải nộp một khoản
tiền . Như vậy, hậu quả của hình phạt là tước đoạt một khoản tiền nhất định của
người phạm tội. Theo quy định tại Điều 70 BLHS thì người bị phạt tiền (từ đủ 18
tuổi trở lên) được xóa án tích sau 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt
chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án và không thực hiện
hành vi phạm tội mới trong thời hạn này. Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi
thì thời hạn được xóa án tích sau 06 tháng kể từ ngày chấp hành xong hình phạt và
không thực hiện hành vi phạm tội mới
- Chủ thể thi hành: chủ thể thi hành án đối với hình phạt tiền có sự khác biệt
hon so với các hình phạt khác. Cơ quan thi hành án đối với loại hình phạt này lại là

cơ quan thi hành án dân sự mà không phụ thuộc vào hình phạt tiền được áp dụng là
hình phạt chính hay hình phạt bổ sung. Điều 36 Luật THADS quy định về thẩm
quyền ra quyết định thi hành đối với phần bản án là hình phạt tiền thuộc về Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
2.2.2.3. Quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt cải tạo không giam giữ
- Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ:
Cải tạo không giam giữ là hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định, hình phạt cải tạo
không giam giữ khác với hình phạt tù có thời hạn ở chỗ hình phạt cải tạo không
giam giữ không buộc người bị kết án phải cách ly họ ra khỏi môi trường sống bình
thường, nơi trước khi phạm tội họ sống, công tác mà vẫn để họ tham gia lao động,
học tập và sinh hoạt có tổ chức và kỷ luật trong môi trường sống thích hợp “Tòa án
giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm
việc, học tập hoặc UBND cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia
đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc UBND cấp

17


xã trong việc giám sát, giáo dục người đó” (khoản 2 Điều 36). Trong hệ thống hình
phạt, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù nhưng nặng
hơn hình phạt tiền và cảnh cáo.Việc quy định hình phạt này trong hệ thống hình
phạt tạo điều kiện cho Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với những trường hợp
phạm tội mà nếu áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc hình phạt tiền thì chưa đủ
nghiêm khắc nhưng nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì lại quá nghiêm khắc và
không cần thiết trong khi người phạm tội hoàn toàn có khả năng tự cải tạo, không
cần cách ly họ khỏi xã hội [44, tr.280-281].
- Cải tại không giam giữ chỉ được áp dụng khi đủ các điều kiện sau: Người bị
kết án về tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, có thái độ
thật thà khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, phải có nơi làm việc ổn định hoặc

nơi thường trú rõ ràng mà xét thấy không cần thiết cách lý họ khỏi xã hội mà vẫn
đảm bảo được mục đích của hình phạt thì Tòa án mới áp dụng hình phạt cải tạo
không giam giữ.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chấp hành tốt các chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia lao động, học tập,
cải tạo, sinh hoạt tập thể, không vi phạm kỷ luật. Nếu người bị kết án di chuyển chổ
ở hoặc làm việc thì phải báo cáo với Tòa án, với cơ quan, tổ chức đang giám sát,
giáo dục biết.
- Về thể thức và chủ thể thi hành: cũng như các hình phạt khác trong HTHP
của PLHS thì hình phạt cải tạo không giam giữ được thi hành ngay trong thời hạn
07 ngày kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và Chánh án Tòa án xét
xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc quyết định ủy thác cho Tòa án khác
ra quyết định thi hành án. Như vậy, “Thẩm quyền ra quyết định thi hành án phạt
cải tạo không giam giữ thuộc về Chánh án Tòa án xét xử sơ thẩm hoặc Chánh án
Tòa án được ủy thác” (điều 72 Luật THAHS). “Trong thời hạn 03 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện có nhiệm vụ triệu tập người phải chấp hành án đến cơ quan thi hành án
để ấn định thời gian người chấp án có mặt tại trụ sở UBND cấp xã” (điều 73 Luật

18


THAHS). Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày triệu tập người chấp hành án đến cơ
quan thi hành án hình sự cấp huyện phải giao hồ sơ cho UBND cấp xã, đơn vị quân
đội được giao giám sát, giáo dục. Hiệu quả thi hành của hình phạt này phụ thuộc
vào vai trò giám sát, giáo dục của UBND cấp xã và gia đình người chấp hành án
cũng có vai trò tác động khá quan trọng trong việc giúp đỡ họ trở thành người
lương thiện.
- Hậu quả pháp lý: Theo quy định tại Điều 70 BLHS thì người bị phạt cải tạo
không giam giữ được xóa án tích sau 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt

chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án và không thực hiện
hành vi phạm tội mới trong thời hạn này. “Trong thời gian chấp hành án, người bị
kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ
và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc
khấu trừ thu nhập được thực hiện hằng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án
có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án”
(khoản 3 Điều 36). “ Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có
việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải
thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo
không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một
ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần. Không áp dụng biện pháp lao động phục
vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người
già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt
nặng. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy
định tại Luật thi hành án hình sự” (khoản 4 Điều 36).
2.2.2.4. Quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt trục xuất
- Khái niệm về hình phạt trục xuất
Khái niệm hình phạt trục xuất được quy định: Trục xuất là buộc người nước
ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong
từng trường hợp cụ thể.

19


×