VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ XUÂN MINH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐẠI LỘC,
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ XUÂN MINH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐẠI LỘC,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN THỊ LAN HƯƠNG
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào.
Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn
hợp lệ và đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tác giả
Hà Xuân Minh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA ...........................................................7
1.1. Lý luận chung về xóa đói, giảm nghèo và giảm nghèo bền vững........................7
1.2. Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ......................................................16
1.3. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về giảm nghèo bền vững .......21
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐẠI LỘC TRONG THỜI GIAN QUA
...................................................................................................................................31
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội có ảnh hưởng đến vấn đề
đói nghèo và thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc
...................................................................................................................................31
2.2. Khái quát tình hình đói nghèo của huyện Đại Lộc ............................................38
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện Đại
Lộc .............................................................................................................................43
2.4. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn
huyện Đại Lộc thời gian qua .....................................................................................46
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TỪ THỰC
TIỄN HUYỆN ĐẠI LỘC, TỈNH QUẢNG NAM .................................................59
3.1. Quan điểm, mục tiêu ..........................................................................................59
3.2. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc ..............................................................................63
3.3. Một số kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả việc thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững trong thời gian tới ................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
1.1
Chuẩn nghèo qua các giai đoạn
Trang
11
Kết quả điều tra hộ nghèo, cận nghèo năm 2016 theo
2.1
chuẩn nghèo giai đoạn (2016-2020) trên địa bàn huyện
39
Đại Lộc.
Kết quả điều tra hộ nghèo, cận nghèo năm 2017 theo
2.2
chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn
40
(2017-2020) trên địa bàn huyện Đại Lộc.
2.3
2.4
Tổng hợp kết quả giảm nghèo từ năm (2014-2018)
Tổng hợp kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo năm
2018.
41
42
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc không chỉ đối với một
quốc gia mà mang tính toàn cầu, là thách thức, cản trở lớn đối với sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc; nó gây ra những hậu quả nghiêm
trọng về kinh tế - xã hội và môi trường sinh thái. Vì vậy, trong những năm
gần đây nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã quan tâm tìm các giải pháp
nhằm giảm nghèo đói và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo giữa
các vùng, miền và các quốc gia trên toàn thế giới.
Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính
sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn
định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Nhờ đó, đã đạt nhiều
thành tựu quan trọng, trên các lĩnh vực như: giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người
có công, giáo dục, đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,
công tác gia đình và bình đẳng giới. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5 2%/năm; các huyện, xã đặc biệt khó khăn giảm 4%/năm theo tiêu chí chuẩn nghèo
của từng giai đoạn. Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước 58,1%; năm 2011 giảm còn
9,5%; năm 2013 còn 7,8% [21]; năm 2016 còn 8,23% [5] (theo chuẩn nghèo đa
chiều giai đoạn 2016 - 2020). Thành tựu xoá đói, giảm nghèo của Việt Nam trong
những năm qua đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, giữ vững sự ổn
định chính trị - xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, được Liên hiệp quốc
và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, giảm nghèo ở Việt Nam còn thiếu
bền vững, chưa hình thành cơ chế đồng bộ về giảm nghèo đa chiều, đa mục tiêu.
Đại Lộc là huyện miền núi nằm ở phía Bắc của tỉnh Quảng Nam, Đại Lộc có
vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển kinh tế xã hội. Nhân dân sống
chủ yếu bằng nghề nông lâm nghiệp. Trong những năm qua, các cấp, các ngành
trong huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
giảm nghèo; triển khai thực hiện đồng bộ các chủ trương, đường lối của Đảng,
1
chính sách của Nhà nước về công tác giảm nghèo; đã lồng ghép chương trình xoá
đói giảm nghèo với các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, ban hành các
chương trình, đề án kinh tế - xã hội, giảm nghèo, giải quyết việc làm… Nhờ vậy,
công tác giảm nghèo đã có những chuyển biết hết sức tích cực. Trong giai đoạn
(2016 – 2017 - 2018), tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm bình quân 5,75%/năm; tỷ lệ
hộ nghèo năm 2016 là 7,17%; năm 2017 là 5,66%; năm 2018 là 4,44%/năm (theo
chuẩn nghèo giai đoạn (2016 - 2020).
Tuy nhiên, công tác lãnh đạo, chỉ đạo có mặt còn hạn chế; chính sách hỗ
trợ trực tiếp cho người nghèo nhiều, dẫn đến tình trạng manh mún, dàn trải, chồng
chéo nguồn lực; một bộ phận người nghèo còn trông chờ ỷ lại vào chế độ chính
sách của Nhà nước; công tác tuyên truyền còn hạn chế; kết quả giảm nghèo chưa
vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn cao, nguy cơ tái nghèo còn lớn.
Với thực tế trên, việc nghiên cứu đề tài “ Thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam ” là mang tính cấp thiết,
nhằm tìm hiểu, đánh giá tình hình thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo của huyện
Đại Lộc, từ đó phân tích nguyên nhân và đề xuất các kiến nghị chính sách giúp huyện
Đại Lộc thực hiện hiệu quả hơn chính sách xoá đói giảm nghèo.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu lý thuyết liên quan đến thực hiện chính
sách xoá đói giảm nghèo
Từ những năm 1992 trở lại đây có rất nhiều các công trình nghiên cứu về xóa
đói giảm nghèo. Các cuộc nghiên cứu này nhằm chỉ ra những nguyên nhân, tiêu chí
đánh giá về đói nghèo ở Việt Nam. ‘’ Khảo sát mức sống ở Việt Nam ‘’ đã được
phối hợp tiến hành giữa Uỷ ban khoa học Nhà nước và Tổng cục thống kê, với sự
tài trợ của UNDP và SIDA trong thời gian từ tháng 10 năm 1992 đến tháng 10 năm
1993. Việc làm mức sống là khảo sát đầu tiên về mức sống của các hộ gia đình tiêu
biểu cho toàn quốc. Được làm tại Việt Nam bao trùm một diện rộng các chỉ số kinh
tế và xã hội. Các số liệu đã được thu thập khoảng từ 23.000 người sống tại 4.800 hộ
gia đình tiêu biểu cho các vùng nông thôn, thành thị ở các vùng địa lý khác nhau
của Việt Nam.
2
Thứ hai, các công trình nghiên cứu liên quan đến kinh nghiệm quốc tế và
trong nước:
- Đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học, các bài viết trên các
sách, báo, tạp chí về lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo, như:
- Hội nghị bàn về giảm đói nghèo trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
do ESCAP (Uỷ ban kinh tế - xã hội Châu Á - Thái Bình Dương) tổ chức tại Băng
Cốc - Thái Lan, tháng 9 năm 1993, đã đưa ra khái niệm chung về nghèo đói, thực
trạng của nghèo đói và những giải pháp chống nghèo đói trong khu vực.
- Hội nghị về phát triển xã hội do Liên hợp quốc chủ trì, tại Copenhaghen Đan Mạch, tháng 3 năm 1995, gồm các nguyên thủ quốc gia, đã tập trung thảo luận
vấn đề giảm nghèo đói, hoà hợp xã hội và nêu lên trách nhiệm của các tổ chức quốc
tế và các nước phát triển trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển thực hiện
xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa những nước giàu và nước nghèo.
- Hội nghị trực tuyến về giảm nghèo toàn quốc do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội tổ chức ngày 23 tháng 4 năm 2014, đã tập trung đánh giá kết quả
thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo giai đoạn (2005 – 2012), kết quả
thực hiện mục tiêu giảm nghèo năm 2013, mục tiêu nhiệm vụ công tác giảm nghèo
năm 2014 và định hướng đến năm 2015.
- Lê Quốc Lý: Chính sách xóa đói giảm nghèo, thực trạng và giải pháp, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2012. Hà Quế Lâm: Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu
số nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002. Trần Thị Bích Hạnh: Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh
duyên hải miền Trung trong những năm qua và những giải pháp cho thời gian tới
(chuyên đề sách kinh tế - xã hội các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên những năm đầu
thế kỷ XXI - Thực trạng và xu hướng phát triển, PGS,TS. Phạm Hảo chủ biên). Võ
Thị Thu Nguyệt: Xóa đói giảm nghèo ở Malaixia và Thái Lan. Bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2010. Bùi Thị Lan, luận văn thạc sỹ Quản lý
Hành chính công: Chính sách xóa đói giảm nghèo ở một số huyện miền núi tỉnh Bắc
Giang trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội, 2013. Trương Bảo Thanh, luận văn thạc sỹ
khoa học kinh tế: Xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Quảng Bình - Thực trạng và giải pháp,
3
Hà Nội, 2002. Bùi Anh Tuấn, luận văn thạc sỹ Quản lý công: Chính sách giảm
nghèo bền vững trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế,
2015. Các tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản về nghèo đói và xóa đói giảm
nghèo, nghiên cứu quá trình thực thi chính sách giảm nghèo để đưa ra những giải
pháp thực hiện chính sách một cách hiệu quả nhất trên địa bàn nghiên cứu.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện chính sách xoá
đói giảm nghèo bèn vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc, Quảng Nam
Báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo trên
địa bàn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam hai năm (2016-2017), giải pháp giảm
nghèo và thời gian đến. Chương trình của huyện ủy Đại Lộc về thực hiện Nghị
quyết của tỉnh ủy Quảng Nam về đẩy mạnh công tác nghèo bền vững giai đoạn
(2016-2020). trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Quy định về thực hiện chính sách
khuyến khích thoát nghèo bền vững tỉnh Quảng Nam, giai đoạn (2017-2021). Kế
hoạch của huyện về giảm nghèo bền vững giai đoạn (206-2020)...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của
vấn đề nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo. Song, hiện chưa có công trình nào nghiên
cứu đầy đủ những vấn đề nghèo đói và giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện
Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam nơi bản thân công tác. Do đó, tôi lựa chọn vấn đề “ Thực
hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng
Nam ” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa Chính sách công. Kết quả nghiên cứu của
các công trình trên, đặc biệt là những vấn đề lý luận là những tư liệu khoa học quý
sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình viết luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc;
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện các chính sách giảm nghèo
bền vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam để từ đó tìm ra những
bất cập trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với huyện Đại
Lộc.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề xuất định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số, hướng đến
mục tiêu giảm nghèo bền vững trong những năm tiếp theo. Hệ thống hóa lại
một số vấn đề lý luận chung về đói nghèo và chính sách giảm nghèo bền vững.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ
thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
- Về thời gian: Đánh giá việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ
năm 2016 đến năm 2018. Quan điểm, mục tiêu và giải pháp thực hiện có hiệu quả
chính sách giảm nghèo bền vững đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật. Cơ sở lý luận là quan điểm, đường lối của Đảng về giảm nghèo bền vững; đặc
biệt là những quan điểm được nêu ra trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa
XI, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu từ góc nhìn chính sách công, sử dụng phương pháp
nghiên cứu việc ban hành và thực hiện chính sách để đánh giá việc hiện thực hoá
chính sách đó trong công tác xoá đói giảm nghèo bền vững của huyện Đại Lộc, từ
đó đánh giá hiệu quả chính sách. Đề tài sử dụng phương pháp biện chứng duy vật
biện chứng Mác - Lê nin làm nền tảng. Trên cơ sở đó, luận văn sử dụng kết hợp
5
phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, khảo sát và
nghiên cứu thực tế, thống kê và phân tích số liệu, quy nạp và diễn giải và các
phương pháp đặc thù của ngành chính sách công.
6. Ý nghĩa và những đóng góp khoa học của Đề tài
Góp phần hệ thống lại những vấn đề lý luận chung về giảm nghèo bền vững
và thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện.
Góp phần cụ thể hóa chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về
giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện. Bước đầu xây dựng một số giải pháp
nhằm thực hiện tốt và hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn
huyện Đại Lộc.
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà lãnh đạo, quản
lý ở địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững;
đồng thời, làm tài liệu tham khảo cho công tác học tập và giảng dạy tại Trung tâm
bồi dưỡng chính trị huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Góp phần hiện thực hóa Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa XI; Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai
đoạn (2016 – 2020); Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về
định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm (2011 – 2020).
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo; Luận văn được
kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững ở nước ta
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực
tiễn huyện Đại Lộc trong thời gian qua.
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở NƯỚC TA
1.1. Lý luận chung về xóa đói, giảm nghèo và giảm nghèo bền vững
1.1.1. Khái niệm đói, nghèo
1.1.1.1. Quan niệm về đói, nghèo
Đói, nghèo hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc mang tính toàn cầu, là thách
thức cản trở lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc. Đói,
nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền
kinh tế kém phát triển, mà còn tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy
nhiên, tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, thể chế chính trị xã hội và điều kiện kinh tế
của mỗi quốc gia nên tính chất, mức độ nghèo đói của từng quốc gia có khác nhau.
Đói, nghèo là một khái niệm có tính động, không bất biến mà phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia, ở từng giai đoạn nhất định.
Cùng với thời gian, quá trình nhận thức về đói, nghèo của con người ngày càng đa
dạng và phong phú, mở rộng và đầy đủ hơn. Hiện nay, chưa có sự thống nhất tuyệt
đối trong quan niệm về đói nghèo, bởi vì bản thân quan niệm này đã thay đổi rất
nhanh chóng trong suốt ba thập kỷ qua. Đầu những năm 70 của thế kỷ XX, đói,
nghèo chỉ được coi là sự đói, nghèo về tiêu dùng, với tư tưởng cốt lõi và căn bản
nhất để một người bị coi là đói, nghèo đó là sự “thiếu hụt” so với mức sống nhất
định. Mức thiếu hụt này được xác định theo các chuẩn mực xã hội và phụ thuộc vào
không gian và thời gian. Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, mức sống của con
người ngày càng cao hơn, những nhu cầu cho cuộc sống ngày càng nhiều hơn và
quan niệm về đói, nghèo cũng được mở rộng ra rất nhiều. Các yếu tố như nguồn lực
người nghèo, mối quan hệ xã hội, khả năng tham gia vào các hoạt động văn hóa, xã
hội và khả năng bảo vệ, chống đỡ các rủi ro đã được đưa vào nội dung của khái
niệm đói, nghèo. Trong báo cáo phát triển con người năm 1997, Chương trình phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) đã đề cập đến khái niệm đói, nghèo về năng lực, khác
7
với quan niệm đói, nghèo về thu nhập. Theo đó, đói, nghèo được tính đến điều kiện
khó khăn trong phát triển con người cơ bản. Trong báo cáo về tình hình thực hiện
mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc năm 2003, đã nhấn mạnh sự cần thiết đưa
phương pháp tiếp cận đói, nghèo trên cơ sở quyền lợi cơ bản của con người bao
gồm về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và dân sinh.
Ở Việt Nam, quan niệm đói, nghèo cũng ngày càng được mở rộng. Nếu như
những năm cuối thế kỷ XX nhu cầu hỗ trợ người nghèo chỉ giới hạn đến các nhu
cầu tối thiểu như ăn no, mặc ấm, thì ngày nay người nghèo còn có nhu cầu hỗ trợ về
nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa… tức là nhu cầu giảm nghèo và phát triển. Điều này
có nghĩa là, các chính sách phát triển kinh tế cần hướng về người nghèo. Tăng
trưởng kinh tế là cần thiết, nhưng lợi ích từ tăng trưởng không tự động chuyển đến
cho người nghèo. Người nghèo cần trở thành mục tiêu trong việc hoạch định các
chính sách phát triển.
Khi nghiên cứu đến vấn đề đói, nghèo, đã có nhiều cách định nghĩa khác
nhau của các học giả, các nhà khoa học. Hội nghị bàn về giảm đói nghèo trong khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương do ASCAP tổ chức tháng 9/1993 tại Băng Cốc
(Thái Lan) đã định nghĩa về nghèo như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân
cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những
nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
phong tục tập quán của địa phương”. Đây là khái niệm khá đầy đủ về đói, nghèo,
được nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam sử dụng.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhaghen
(Đan Mạch) tháng 3/1995 đã đưa ra định nghĩa về đói nghèo như sau: “Người
nghèo là người mà tất cả những thu nhập của họ nhỏ hơn 1USD/ngày, đây là số tiền
được coi như đủ mua những sản phẩm cần thiết để tồn tại”.
Theo quan niệm của Liên hợp quốc, nghèo có hai dạng: Nghèo tuyệt đối và
nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả
năng thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống về ăn (thiếu ăn nhưng
không đứt bữa), mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục. Nghèo tương đối là tình trạng một bộ
phận dân cư có mức sống dưới trung bình của cộng đồng địa phương hay một nước.
8
Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới, nghèo là bần cùng hoá về phúc lợi.
Theo nghĩa hẹp thì nghèo khổ được hiểu là sự thiếu thốn các điều kiện thiết yếu của
cuộc sống. Tuy vậy, nghèo khổ cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn từ khía cạnh về
phát triển toàn diện con người, tức là nghèo khổ xét theo gốc độ đa chiều là việc
loại bỏ các cơ hội và sự lựa chọn cơ bản nhất cho phát triển toàn diện con người.
Nghèo khổ đa chiều là nghèo khổ tổng hợp hay nghèo khổ con người. Nghèo khổ đa
chiều bao gồm nghèo về vật chất, nghèo về con người và nghèo về xã hội. Biểu hiện
của nghèo về con người là sức khoẻ yếu do không tiếp cận đến dinh dưỡng và chăm
sóc sức khoẻ đầy đủ; không có kiến thức (mù chữ) và trình độ chuyên môn, do
không được tiếp cận đến giáo dục. Biểu hiện của nghèo về xã hội chính là sự tách
biệt xã hội của những người nghèo, họ là những nhóm yếu thế và hầu như không có
tiếng nói trong xã hội. Cách tiệp cận về nghèo đói đa chiều giúp cho các nhà hoạch
định chính sách đưa ra các chính sách giảm nghèo bền vững hơn như hỗ trợ người
nghèo thoát nghèo không chỉ về vật chất, mà xoá nghèo về con người và nghèo về
xã hội. Ở Việt Nam giai đoạn (2016 – 2020), Chính phủ đã áp dụng tiêu chí tiếp cận
nghèo đa chiều.
Tuy có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng có thể khái quát quan niệm về
đói, nghèo được thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
+ Không có hoặc ít được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu
của cuộc sống con người.
+ Mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư địa
phương.
+ Thiếu hoặc không có cơ hội lựa chọn để tham gia vào quá trình phát triển
của cộng đồng.
Cần khẳng định rằng: Đói có thể xóa được, nhưng nghèo chỉ có thể giảm chứ
không thể xóa được. Giảm nghèo là một phạm trù lịch sử vì nghèo vẫn luôn tồn tại
trong xã hội, do sự khác biệt về năng lực, thể chất, nguồn gốc thu nhập chính đáng,
địa vị xã hội giữa các cá nhân. Vì thế chỉ có thể từng bước giảm nghèo chứ chưa thể
tiến tới xóa nghèo.
9
1.1.1.2. Chuẩn nghèo
Chuẩn nghèo hay còn gọi là đường nghèo, ngưỡng nghèo hoặc tiêu chí nghèo
là công cụ để phân biệt người nghèo và người không nghèo.
Theo từ điển tiếng Việt thì: “Chuẩn có nghĩa là cái chọn làm căn cứ để đối
chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một
đơn vị đo lường; cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc đúng theo thói
quen trong xã hội”. Như vậy, “chuẩn” mang tính định lượng. Từ đó, ta có thể hiểu
chuẩn nghèo nghĩa là mốc giới hạn do Nhà nước hay tổ chức quốc tế quy định về
mức thu nhập mà nếu ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là nghèo, còn ai vượt
qua giới hạn đó thì họ không phải là người nghèo. Chuẩn nghèo là công cụ để phân
biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỷ lệ hộ nghèo
có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và
ngược lại. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói là công cụ quan trọng để xác định
mức độ và tình hình đói nghèo. Đây là khái niệm “động”, nó khác nhau giữa các
quốc gia, giữa những tổ chức quốc tế và thay đổi theo thời gian.
- Chỉ số xác định đói nghèo của thế giới: Chuẩn nghèo có sự biến động theo
thời gian và không gian. Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra thước đo nghèo đói như
sau: Các nước công nghiệp phát triển 14USD/ngày/người; các nước Đông Á:
4USD/ngày/người; các nước thuộc Mỹ latinh và vùng Caribê 2USD/ngày/người;
các nước đang phát triển 1USD/ngày/người; các nước nghèo, một số người được coi
là đói nghèo: thu nhập dưới 0,5USD/ngày/người [28, tr 19]. Tuy nhiên, các quốc gia
đều đưa ra chuẩn đói, nghèo riêng của nước mình và thường thấp hơn chuẩn đói
nghèo mà WB khuyến nghị. Chẳng hạn, Mỹ đưa ra chuẩn đói nghèo là thu nhập
dưới 16.000 USD đối với một bộ phận gia đình (04 người) trong 1 năm, tương ứng
11,1 USD/ngày/người. Trung Quốc chuẩn nghèo là 960 NDT/năm/người, tương
đương 0,33 USD/ngày/người [28, tr 20].
- Chuẩn đói, nghèo ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội là cơ quan thường trực thực
hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xóa đói giảm nghèo, đã tiến hành rà soát chuẩn
nghèo qua các thời kỳ. Đã có 06 lần công bố chuẩn nghèo đói cho từng khu vực khác
nhau, được điều chỉnh theo từng giai đoạn, phù hợp với sự phát triển của đất nước.
10
Chuẩn nghèo là công cụ để đo lường và giám sát nghèo đói. Một thước đo
nghèo đói tốt sẽ cho phép đánh giá tác động các chính sách của Chính phủ tới nghèo
đói, cho phép đánh giá nghèo đói theo thời gian, tạo điều kiện so sánh với các nước
khác, và giám sát chi tiêu xã hội theo hướng có lợi cho người nghèo. Hầu hết chuẩn
nghèo dựa vào thu nhập hoặc chi tiêu. Những người được coi là nghèo khi mức sống
của họ đo qua thu nhập hoặc chi tiêu thấp hơn mức tối thiểu chấp nhận được, tức là
thấp hơn chuẩn nghèo.
Trong giai đoạn (2016 – 2020), Việt Nam đã áp dụng tiêu chí tiếp cận đo
lường nghèo đa chiều, bao gồm, (i) các tiêu chí về thu nhập (chuẩn nghèo và chuẩn
cận nghèo) và (ii) tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản; trong đó,
có 05 dịch vụ xã hội cơ bản là: y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch và vệ sinh; thông tin
và 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản là: y tế; bảo hiểm
y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở;
diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ
sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
Từ năm 1993 đến năm 2017, chuẩn nghèo ở nước ta đã thay đổi 06 lần. Từ năm
1993 đến năm 2015, thay đổi 05 lần được nêu trong bảng 1.1.
Bảng 1.1. Chuẩn nghèo qua các giai đoạn (Quy đổi ra gạo và VNĐ)
(Bình quân người hàng tháng)
Khu vực
Nông thôn
Nông thôn
đồng bằng và
miền núi và
trung du
hải đảo
-
-
Dưới 25kg
Dưới 20kg
Dưới 15kg
(≈ 90.000đ)
(≈ 70.000đ)
(≈ 55.000đ)
2001 - 2005
150.000đ
100.000đ
80.000đ
2006 - 2010
260.000đ
200.000đ
-
-
2011 - 2015
500.000đ
400.000đ
-
-
Thành thị
Nông thôn
Giai đoạn
1993 - 1995
1996 - 2000
Dưới 20kg
Dưới 15kg
Nguồn: Tài liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
11
Trong giai đoạn (2016 – 2020), chuẩn nghèo Việt Nam áp dụng tiêu chí tiếp
cận đo lường nghèo đa chiều. Theo đó, Chuẩn hộ nghèo khu vực nông thôn, là hộ
đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: (i) Có thu nhập bình quân đầu ngườ/tháng từ đủ
700.000 đồng trở xuống; (ii) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000
đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 tiêu chí đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản. Chuẩn hộ nghèo khu vực đô thị, là hộ đáp ứng một trong
hai tiêu chí sau: (i) Có thu nhập bình quân đầu ngườ/tháng từ đủ 900.000 đồng trở
xuống; (ii) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000
đồng và thiếu hụt từ 03 tiêu chí đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản [43].
1.1.2. Xóa đói, giảm nghèo và giảm nghèo bền vững
1.1.2.1. Khái niệm Xóa đói, giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là một trong 08 trụ cột của Mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ (MDGs) đã được 189 quốc gia phê chuẩn và là một trong mười vấn đề của
phát triển xã hội đã được Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội tại
Copenhaghen tháng 5 năm 1995 thông qua.
Như vậy, có thể thấy xoá đói giảm nghèo là một trong những vấn đề xã hội
được các quốc gia đặt vào vị trí ưu tiên cần được giải quyết trong phát triển xã hội;
là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội ở các quốc
gia trên thế giới; là tổng thể các hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm thực hiện
mục đích hỗ trợ những điều kiện cơ bản (như ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, tiếp
xúc văn hóa xã hội…) để người nghèo có thể tồn tại và phát triển dần đạt đến mức
trung bình như các thành viên khác trong cộng đồng; làm cho bộ phận dân cư đói
nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi đói nghèo, biểu hiện ở tỷ lệ phần
trăm và số lượng người đói nghèo giảm xuống.
Cũng như khái niệm đói nghèo, khái niệm xóa đói giảm nghèo chỉ là tương
đối. Bởi đói nghèo có thể tái sinh hoặc khi khái niệm đói nghèo và chuẩn đói nghèo
thay đổi. Do đó, việc đánh giá mức độ xóa đói giảm nghèo phải được đánh giá trong
một thời gian, không gian nhất định. Do cách đánh giá và nhìn nhận nguồn gốc khác
12
nhau nên cũng có nhiều quan niệm về xóa đói giảm nghèo khác nhau:
+ Nếu hiểu đói nghèo là dạng đình đốn của phương thức sản xuất đã bị lạc
hậu song vẫn còn tồn tại thì xóa đói giảm nghèo chính là quá trình chuyển đổi sang
phương thức mới tiến bộ hơn.
+ Nếu hiểu đói nghèo là do phân phối thặng dư trong xã hội một cách bất
công đối với người lao động, do chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa thì xóa đói giảm
nghèo chính là quá trình xóa bỏ chế độ sở hữu và chế độ phân phối này.
+ Nếu hiểu đói nghèo là hậu quả của tình trạng chủ nghĩa thực dân đế quốc
kìm hãm sự phát triển ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thì xóa đói giảm nghèo là quá
trình các nước thuộc địa, phụ thuộc giành lấy độc lập dân tộc để trên cơ sở đó phát
triển kinh tế - xã hội.
+ Nếu hiểu đói nghèo là do sự bùng nổ gia tăng dân số vượt quá tốc độ phát
triển kinh tế thì phải tìm mọi cách để giảm gia tăng dân số lại.
+ Còn nếu hiểu đói nghèo là do tình trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế thì xóa đói giảm nghèo chính là tạo việc làm, tạo xã
hội ổn định và phát triển.
Việt Nam là nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong nền kinh tế này, tồn tại và đan xen nhiều trình độ sản xuất và hình
thức sở hữu khác nhau; trình độ sản xuất cũ, lạc hậu vẫn còn, trong khi trình độ sản
xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo. Do đó, dẫn đến có sự giàu nghèo
khác nhau trong các tầng lớp dân cư.
Từ quan niệm trên có thể hiểu: Xóa đói giảm nghèo ở nước ta chính là từng
bước thực hiện quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu trong xã hội
lên trình độ sản xuất mới cao hơn.
Ở góc độ người nghèo: Xóa đói giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp
đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách
nhanh nhất, giúp họ có nhiều khả năng lựa chọn hơn nhằm từng bước thoát khỏi
tình trạng đói, nghèo.
13
Trong tiến trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo có mối
quan hệ biện chứng. Tăng trưởng kinh tế tạo ra cơ sở, điều kiện vật chất để xóa đói
giảm nghèo. Ngược lại xóa đói giảm nghèo là nhân tố đảm bảo sự tăng trưởng kinh
tế mang tính bền vững. Tuy nhiên, trong mối quan hệ này thì xóa đói giảm nghèo
vẫn là yếu tố chịu sự chi phối, phụ thuộc vào yếu tố tăng trưởng kinh tế. Trong nền
kinh tế, nếu tăng trưởng kinh tế chịu tác động của các quy luật kinh tế như: quy luật
cung cầu, quy luật giá trị, cạnh tranh, lợi nhuận, năng suất lao động… thì xóa đói
giảm nghèo lại chịu tác động quy luật phân hóa giàu nghèo, vấn đề phân phối và thu
nhập, vấn đề lao động và việc làm, các chính sách xã hội… Trong quá trình vận
động các yếu tố, các quy luật tác động lên tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm
nghèo theo nhiều chiều hướng, có khi trái ngược nhau. Do vậy, để đảm bảo được
tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo đòi hỏi Nhà nước có sự can thiệp sao cho
sự tác động của các quy luật có hướng đồng thuận. Đây là vấn đề không hề đơn giản
và không phải quốc gia nào cũng làm được trong quá trình phát triển.
1.1.2.2. Khái niệm về giảm nghèo bền vững
Theo PGS,TS. Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam thì
giảm nghèo bền vững là : “…không thể giúp người nghèo bằng cách tặng nhà, tặng
phương tiện sống. Bởi vì, đây là cách giảm nghèo, xóa nghèo nhanh nhưng chỉ tức
thời, không bền vững. Muốn giảm nghèo, xóa nghèo bền vững thì Nhà nước, cơ
quan chức năng cần phải cấp cho người nghèo một phương thức phát triển mới mà
tự họ không thể tiếp cận và duy trì. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ
các yếu tố gây rủi ro chứ không chỉ là sự nỗ lực khắc phục hậu quả sau rủi ro. Đặc
biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo này phải được xác lập trên nguyên tắc ưu tiên cho các
vùng có khả năng, điều kiện thoát nghèo nhanh và có thể lan tỏa sang các vùng lân
cận”
Theo cách hiểu chung hiện nay thì không thể giúp người nghèo bằng
cách tặng nhà, tặng phương tiện sống. Bởi vì, đây là cách giảm nghèo, xóa
nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời, không bền vững. Muốn giảm nghèo, xóa
nghèo bền vững thì Nhà nước, cơ quan chức năng cần phải cấp cho người
14
nghèo một phương thức phát triển mới mà tự họ không thể tiếp cận và duy trì.
Bên cạnh đó là sự hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ các yếu tố gây rủi ro chứ không
chỉ là sự nỗ lực khắc phục hậu quả sau rủi ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo
này phải được xác lập trên nguyên tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng, điều
kiện thoát nghèo nhanh và có thể lan tỏa sang các vùng lân cận. Tác giả luận
văn cũng đồng ý với quan niệm trên về giảm nghèo bền vững và cho rằng:
Giảm nghèo bền vững là một quá trình chuyển một bộ phận người
nghèo từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều
kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi hộ gia đình nghèo.
Nói cách khác giảm nghèo bền vững là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người
nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh
nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi
tình trạng nghèo.
Giảm nghèo có tính tương đối, bởi nghèo có thể tái sinh khi giải pháp giảm
nghèo chưa bền vững hoặc chuẩn nghèo đã có sự thay đổi, hoặc có những biến động
khác tác động đến đời sống xã hội như khủng hoảng, lạm phát, thiên tai… Do đó,
việc đánh giá mức độ giảm nghèo cần được xem xét trong một không gian, thời
gian nhất định.
1.1.2.3. Các tiêu chí đánh giá giảm nghèo bền vững
Để đánh giá mức độ bền vững trong giảm nghèo, không thể chỉ đánh giá dựa
trên số lượng người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo giảm xuống mà phải
căn cứ trên nhiều tiêu chí khác nhau như:
- Thu nhập thực tế của người nghèo, hộ nghèo được cải thiện, vượt qua được
chuẩn nghèo, hạn chế tối đa tình trạng tái nghèo về thu nhập nếu gặp rủi ro hoặc sự
thay đổi của chuẩn nghèo.
- Được tạo cơ hội và có khả năng tiếp cận đầy đủ với các nguồn lực sản xuất
được xã hội tạo ra, các dịch vụ hỗ trợ người nghèo và được quyền tham gia và có
tiếng nói của mình đối với các hoạt động lập kế hoạch phát triển kinh tế, giảm
15
nghèo cho bản thân và địa phương.
- Được trang bị một số điều kiện "tối thiểu" để có khả năng tránh được tình
trạng tái nghèo khi gặp phải những rủi ro khách quan như thiên tai, lũ lụt, dịch
bệnh... hoặc sự thay đổi của chuẩn nghèo.
- Được đảm bảo tiếp cận bình đẳng về giáo dục dạy nghề và chăm sóc sức
khoẻ, để về lâu dài người nghèo, người mới thoát nghèo và con em họ có được kiến
thức, kinh nghiệm làm ăn, tay nghề nhằm tạo ra thu nhập ổn định trong cuộc sống.
1.2. Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
1.2.1. Thực hiện chính sách trong chu trình chính sách công
Thuật ngữ “Chính sách công” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một
số quan niệm sau:
Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành
(Peter Aucoin, 1971).
Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một
nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục
tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978).
Chính sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas
R.Dye, 1984).
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của
chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và
mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy
định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft
and Furlong, 2004).
Chính sách công là một trong những công cụ được Nhà nước sử dụng để
quản lý, điều hành nền kinh tế - xã hội theo định hướng, được Nhà nước ban hành
để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống
kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Được Nhà nước sử dụng để khuyến
khích việc sản xuất, đảm bảo hành hóa, dịch vụ công cho nền kinh tế, khuyến khích
cả với khu vực công và khu vực tư; quản lý nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu
16
lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường. Khi nói tới chính
sách công là bao gồm những dự định của nhà hoạch định chính sách và các hành vi
thực hiện những dự định đưa lại kết quả thực tế.
Vì vậy, chính sách công được hiểu là “những hành động ứng xử của Nhà
nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều
hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”.
Tổ chức thực hiện chính sách là một khâu hợp thành chu trình chính sách, là
toàn bộ quá trình chuyển hoá ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực
với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng.
Tổ chức thực hiện chính sách là trung tâm kết nối các bước trong chu trình
chính sách thành một hệ thống, nhất là với hoạch định chính sách. So với các khâu
khác trong chu trình chính sách, tổ chức thực hiện chính sách có vị trí đặc biệt quan
trọng, vì đây là bước hiện thực hoá chính sách trong đời sống xã hội.
Nếu đưa vào thực thi một chính sách tốt không những mang lại lợi ích to lớn
cho các nhóm đối tượng thụ hưởng mà còn góp phần làm tăng uy tín của Nhà nước
trong quá trình quản lý xã hội. Tuy nhiên, để có được một chính sách tốt các nhà
quản lý phải trải qua một quá trình nghiên cứu, tìm kiếm rất công phu. Nhưng dù tốt
đến đâu nó cũng trở thành vô nghĩa nếu nó không được đưa vào thực hiện hoặc thực
hiện không tốt. Vì vậy, những luận giải trên đây cho chúng ta nhận thức đầy đủ về
vị trí tầm quan trọng của thực hiện chính sách, từ đó có ý thức tự giác trong thực
hiện chính sách công.
Để điều hành có hiệu quả công tác thực hiện chính sách, cần tuân thủ các
bước cơ bản, bao gồm: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện; phổ biến,tuyên
truyền chính sách; phân công, phối hợp thực hiện chính sách; duy trì chính sách
(đây là những hoạt động nhằm đảm bảo cho chính sách tồn tại được và phát huy tác
dụng trong thực tế); điều chỉnh chính sách (được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền nhằm để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và
tình hình thực tế); theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện chính sách;
đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm.
17
1.2.2. Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
- Khái niệm:
Chính sách giảm nghèo bền vững là những quyết định, quy định của Nhà
nước nhằm cụ thể hoá các chương trình, dự án cùng với nguồn lực, vật lực, các thể
thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động đối tượng cụ thể như người
nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với mục đích cuối cùng là xoá đói giảm nghèo.
- Nội dung chính sách:
Chính sách hỗ trợ về y tế đối với nghèo, cận nghèo; chính sách hỗ trợ nhà ở
hộ nghèo; chính sách hỗ trợ tiền điện; chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người
nghèo; chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo; chính sách tín dụng ưu đãi cho
hộ nghèo, cận nghèo; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho
các thôn, xã đặc biệt khó khăn; chăm sóc sức khỏe; trợ giúp pháp lý
1.2.3. Những chính sách của Nhà nước
- Tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Chính sách giảm nghèo được phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau. Dựa
trên phạm vi ảnh hưởng của chính sách, chính sách giảm nghèo được phân thành
chính sách tác động gián tiếp và chính sách tác động trực tiếp đến xoá đói, giảm
nghèo. Căn cứ vào tính chất đa chiều của đói nghèo, chính sách giảm nghèo được
chia làm: 1) nhóm chính sách nhằm tăng thu nhập cho người nghèo; 2) nhóm chính
sách nhằm tăng cường các khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người
nghèo; 3) nhóm chính sách giảm thiểu rủi ro và nguy cơ dễ bị tổn thương và nhóm
chính sách tăng cường tiếng nói cho người nghèo. Căn cứ vào 3 trụ cột tấn công đói
nghèo của Ngân hàng Thế giới, các chính sách giảm nghèo được chia thành: 4)
nhóm chính sách tạo cơ hội cho người nghèo; 5) nhóm chính sách trao quyền và
nhóm chính sách an sinh xã hội.
- Mục tiêu thực hiện chính sách giảm nghèo:
Mục tiêu của chính sách giảm nghèo là hỗ trợ và giúp đỡ người nghèo cả
dưới gốc độ nghèo về vật chất và nghèo về con người và nghèo về xã hội. Các chính
sách giảm nghèo đều hướng tới mục tiêu là nâng cao phúc lợi cho người nghèo,
18
tăng cường các khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo từ đó
nâng cao vốn con người và tiếng nói của người nghèo. Mỗi một chính sách cụ thể sẽ
có những mục tiêu cụ thể và rõ ràng hơn. Như vây, có thể thấy xoá đói, giảm nghèo
là một trong những vấn đề xã hội được đặt vào vị trí ưu tiên cần được giải quyết
trong phát triển xã hội và là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống
an sinh xã hội của nước ta. Để thực hiện mục tiêu này thì chính sách giảm nghèo
giữ một vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội; bởi vì, muốn
nâng cao phúc lợi cho người dân, trước hết người dân phải thoát khỏi đói nghèo;
chính sách giảm nghèo sẽ tạo cơ hội tối thiểu nhất cho bộ phận người dân yếu thế
thoát khỏi nghèo đói kinh niên, có được cơ hội về thu nhập, cơ hội tiêu dùng với tư
cách như là con người sống trong xã hội.
1.2.4. Các yếu tố ánh hưởng đến việc thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững
1.2.5.Thuận lợi:
- Đường lối xây dựng đất nước, phát triển KT - XH không ngừng được bổ
sung, hoàn thiện qua các kỳ đại hội Đảng, được triển khai tổ chức thực hiện trong
thực tiễn đã và đang đi vào cuộc sống, phát huy tính tích cực, tạo điều kiện, môi
trường, động lực cho sự phát triển KT - XH. Đây là điều kiện thuận lợi để các địa
phương xác định chiến lược phát triển KT - XH và tập trung lãnh đạo, đẩy nhanh
phát triển kinh tế, giải quyết cơ bản vấn đề đói nghèo.
- Vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc được Đảng ta xác
định có ví trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Vì thế Đảng và Nhà
nước, các cấp, các ngành luôn giành sự quan tâm đặc biệt đối với các DTTS và
vùng miền núi. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa IX
về công tác dân tộc đã khẳng định: “Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng
trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc;
quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
DTTS; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các
19
DTTS…”; “Ưu tiên đầu tư phát triển KT - XH các vùng dân tộc và miền núi, trước
hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, XĐGN…tăng cường sự
quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước”.
Đối với vùng DTTS, miền núi thời gian qua đã được Trung ương, bộ, ban, ngành,
các tổ chức, cá nhân tập trung đầu tư bằng nhiều chương trình, dự án nhằm thúc đẩy
phát triển KT - XH, XĐGN. Hiện nay vẫn tiếp tục giành nhiều chính sách ưu tiên
cho vùng DTTS và miền núi.
- Hệ thống chính sách về XĐGN của Đảng và Nhà nước tiếp tục được ban
hành, bổ sung, hoàn thiện, với nhiều nội dung cụ thể về hỗ trợ, đầu tư phát triển sản
xuất trực tiếp cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo; về đất sản xuất, đất ở, nhà ở,
nước sinh hoạt; về công cụ sản xuất; về đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào
DTTS; về y tế, giáo dục; về chính sách ASXH, về phát triển cơ sở hạ tầng thiết
yếu… là điều kiện thuận lợi để người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo
vươn lên thoát nghèo.
- Nhận thức của cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể và nhân dân về chương
trình XĐGN từng bước được nâng lên, tạo nên sự đồng thuận xã hội và thực sự đã trở
thành phong trào sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Công tác XĐGN được triển
khai ngày càng đồng bộ, huy động được nhiều nguồn lực cho mục tiêu XĐGN.
- Đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác XĐGN được xây dựng, củng cố
và kiện toàn, thường xuyên được tập huấn nắm vững chủ trương, chính sách, nâng
cao trình độ kiến thức, kỹ năng, phương pháp… Đây là lực lượng quan trọng góp
phần vào việc tham mưu, xây dựng, triển khai thực hiện, theo dõi, đánh giá, giám
sát chương trình XĐGN.
1.2.6.Khó khăn:
- Khủng hoảng kinh tế thế giới tiếp tục ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển KT - XH của nước ta. Nguồn lực đầu tư cho XĐGN còn hạn chế, khó khăn.
Đây là những khó khăn không nhỏ cho quá trình phát triển KT-XH, XĐGN trong
những năm tới.
20